ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!
(TỰ THUẬT CỦA ĐGH GIOAN
PHAOLÔ II)
Hương Vĩnh chuyển ngữ
MỤC LỤC
Lời Dịch Giả
Lời Giới Thiệu - Dẫn
Nhập
Chương II.- Hoạt động Giám Mục
Chương III.- Cam kết khoa học và
mục vụ
Chương IV.- Tình phụ tử của Giám
Mục
Chương V.- Tập thể tính Giám Mục
Chương VI.- Thiên Chúa và lòng can
đảm
Lời Dịch Giả
LÊNH ĐÊNH TRÊN MẶT
ĐẠI DƯƠNG
Những ai có dịp tham gia một
chuyến hải trình bằng du thuyền sẽ đánh giá cao những vị thuyền trưởng cùng
nhân viên phục dịch trên những du thuyền đó. Đặc biệt, những du thuyền xuôi
ngược theo những hải trình ở vùng Biển Caribbean, thường ghé qua những trạm
ngừng tại Cayman Island, Cozumel, Belize City và Costa Maya với cảnh trí thật
tuyệt vời!
Trong những trạm trên đây, trạm
dừng tại bãi biển COZUMEL là nơi mà tháng 11 năm 2005 vừa qua đã xảy ra một
trận bão tố dữ dội khiến sóng biển dâng lên tràn ngập miền duyên hải và cuốn
lôi những quán xá xuống biển. Những vết tang thương hiện còn để lại nơi đó.
Những hàng dừa cao và cây xanh bóng mát xinh đẹp trước kia nay trở nên hoang
tàn.
Qua mạng truyền hình trong thời
gian đó, thường xuất hiện hình ảnh những chiếc du thuyền bập bềnh trên sóng
nước thật hãi hùng! Chắc chắn các vị thuyền trưởng lúc bấy giờ phải tận dụng
hết khả năng để giữ vững con tàu vượt qua mọi cơn phong ba bão táp.
Cương vị của Đức Giáo Hoàng trong
Giáo Hội Công Giáo cũng tương tự vai trò của vị thuyền trưởng trên một du
thuyền ở giữa đại dương. Vị thuyền trưởng đem hết sức mình để cùng với các cấp
chỉ huy và thủy thủ đoàn cố gắng lèo lái con tàu cập bến an toàn, hầu mọi du
khách được vui hưởng những ngày thích thú bình an trong chuyến hải trình. Tương
tự, Đức Giáo Hoàng cùng với Giám Mục Đoàn ngày đêm cật lực chèo chống con
thuyền Giáo Hội vượt qua đại dương trần thế trong mọi thời kỳ đảo điên ngõ hầu
đến bến an toàn.
Ngày 02-04-2006 tới đây kỷ niệm
một năm Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II băng hà. Ngài là một vị Giáo Hoàng hiện
đại nêu gương “MỤC TỬ CHÂN CHÍNH” cho hết mọi mục tử trong Giáo Hội Công Giáo
ngày nay. Những tâm tình mục tử của ngài đã được chính ngài ghi lại trong quyển
tự thuật dưới nhan đề “LEVEZ-VOUS! ALLONS!” (ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!) vào năm 2003, nhân dịp kỷ niệm
45 năm tấn phong giám mục và 25 năm triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài được
yêu cầu viết ra những hoài niệm liên tục kể từ năm 1958 là năm ngài được bổ
nhiệm giám mục.
Đức Thánh Cha thuật lại những gì
Chúa Quan Phòng đã tiên liệu cho ngài. Độc giả say mê quyển sách đó vì những
“TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI MỤC TỬ” tỏ lộ nơi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi Ngài
còn là Giám Mục, Tổng Giám Mục, cho đến Hồng Y rồi Giáo Hoàng.
Suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội,
một số giáo hoàng đã trải qua những cơn “phong ba bão táp” kinh hồn của những
thời đại tương ứng, như Đức Thánh Cha Piô XII trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị cũng gặp những đại họa không kém phần
dữ dội, từ sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản tại các nước Đông Âu và Nga Sô đến
những băng hoại về mặt luân lý mà ngài mệnh danh là “VĂN MINH SỰ CHẾT”, chà đạp
lên triệu triệu sinh mạng thai nhi và con người mỗi năm.
Khi viết về cuộc đời của Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II, những khía cạnh trên đây đã được nhiều tác giả nhắc tới.
Tuy nhiên Giáo Hội đang đứng trước một thách đố lớn lao xảy ra ngay trong lòng
Giáo Hội: đó là “THÁI ĐỘ SỐNG CỦA CÁC MỤC TỬ” trong vai trò dẫn dắt đoàn chiên
của Chúa.
Đành rành môi trưòng mục vụ của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xảy ra trong một thời điểm khác, với một không
gian và thời gian đặc thù, nhưng “TINH THẦN CŨNG NHƯ TÂM TÌNH MỤC TỬ” của ngài
thì chung cho hết mọi mục tử, vượt qua mọi không gian và thời gian cố định, để
trở nên ngọn đèn soi sáng các mục tử khắp nơi, ngõ hầu “chăn dắt những đoàn chiên con và chiên mẹ của Chúa Kitô” theo tâm
tình và ý hướng của Chúa Kitô.
Khi tham gia những cuộc du thuyền
trên đại dương, những chuyện bất trắc thường xảy ra cho du khách, như bị mất
tích khi lên bờ du ngoạn, hoặc thất lạc khi đi mua sắm nhưng quên giờ giấc về
tàu… Đó cũng là những hình ảnh bi thương thường xảy ra trong con tàu Giáo Hội.
Sự kiện một số người lìa bỏ Giáo Hội ra đi một nơi vô định hay bị trễ tàu…trong
thời đại nào cũng có. Ca dao Việt-Nam có câu:
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì
chìm.”
Trách nhiệm các cấp mục tử trong
Giáo Hội thật nặng nề biết bao! Các mục tử phải dẫn dắt Giáo Hội để không một
ai bị chết chìm hay phải hư mất giữa đại dương trần thế, như lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly: “Con đã canh giữ và không một ai trong họ
phải hư mất…” (Gio 17, 12)
Khi nhắc tới khuôn mặt khả kính
của Đức Cha Karol Joséf Vojtyla, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Cracovie – tức
Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II sau nầy – người ta không thể quên được khuôn mặt
khả ái của Đức Cha Phi-líp-phê Nguyễn-Kim-Điền, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận
Huế, Việt-Nam, trước đây.
Trong “THƯ MỤC VỤ” ngày
19/10/1985, gởi các linh mục, nam nữ tu sĩ và toàn thể giáo dân Giáo Phận Huế,
Đức Tổng Giám Mục Phi-lip-phê Nguyễn-Kim-Điền đã viết:
“Năm 1981, khi nhóm họp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, tôi đã tuyên
bố điều nầy: ‘Trong quá khứ, nhiều Giám Mục đã chết để bênh vực quyền lợi Giáo
Hội. Nhưng hiện nay, có Giám Mục nào sẵn sàng chết để bênh vực nhân quyền
không?’ Ngày nay tôi được toại nguyện: Thiên Chúa kêu gọi tôi chịu lao tù và
chết để bênh vực nhân quyền và công lý.
……
Nhưng khi luật lệ ngược với Thánh Ý Thiên Chúa, vi phạm nhân quyền mà
luật căn bản nhất là tự do tín ngưỡng, lúc đó, như tôi đã đăng ký trong biên
bản lập tại sở công an tỉnh Bình Trị Thiên ngày 15/10/1984: ‘Như các thánh Tông Đồ khi xưa và các vị Tử Đạo mọi đời, tôi phải tuân
phục luật Chúa hơn luật loài người.’
Kết quả của việc đăng ký trên là lao tù và chết chóc. Những kết quả
nầy, vị chủ chăn của anh chị em, ngày hôm nay đã sẵn sàng đón nhận. Ngài vui
lòng đón nhận những kết quả đó như phần thưởng Chúa ban sau 25 năm Giám Mục,
trong đó, 22 năm phục vụ Giáo Phận HUẾ.
……
Giờ đây, thưa anh chị em thân mến, tôi chỉ xin anh chị em một điều:
Đội ơn Thiên Chúa với tôi, và tăng thêm lời cầu nguyện để tôi hoàn toàn trung
tín với Thiên Chúa và Giáo Hội cho đến hơi thở cuối cùng.”
Với lời nguyện ước “trung tín cho đến hơi thở cuối cùng”,
Thiên Chúa đã ban cho ngài một cái chết đầy quả cảm, một cái chết đã chinh phục
lòng thương mến của mọi người – giáo dân cũng như lương dân.
Trong tang lễ của ngài ngày 15
tháng 6 năm 1988, một người ngoại đạo đã thổ lộ những tâm tình thương mến qua
những vần thơ dưới đây. Tác giả đã ký tên “TỪ TÂM”, nhưng không rõ đó là tên
thật, bút hiệu hay pháp danh.
LÒNG NGƯỜI NGOẠI ĐẠO
Kính gởi
Hương Hồn Đức cố Tổng Giám Mục
Phi-lip-phê Nguyễn-Kim-Điền
ngày ngài quá cố 08-06-1988
Con đến Phủ-Cam giữa ngày tang lễ,
Góp nỗi buồn trong muôn vạn niềm đau.
Hàng triệu tín đồ sát cánh bên nhau,
Vạn vật đổi thay, lòng TIN bất diệt.
Cha với con tuy chưa từng quen biết,
Lòng kính yêu Cha vô bến vô bờ.
Sống giữa muôn người con vẫn bơ vơ,
Nhiều lúc tâm tư hướng về tôn giáo.
Nhưng, tổ tiên con tám đời ngoại đạo,
Lẽ nào con trái ý tổ tiên mình.
Con sống sao cho trọn nghĩa trọn
tình,
Dù quá gian lao, dù nhiều đau khổ.
Nếu phải chết để đền ơn tri ngộ,
Con tiếc chi chút bèo bọt hình hài.
Con đứng từ xa, cúi mặt trước quan
tài,
Tình mến bao la, ngậm ngùi trong
thương tiếc.
Con trân trọng kính gởi Cha lời CHÀO
VĨNH BIỆT
Đến Giáo Hội Việt-Nam lời chia buồn
thắm thiết
Của người con ngoại đạo kính yêu Cha.
Vừng trán thông minh, can đảm hiền
hòa,
Thắm đượm tình thương qua nhiều di
ảnh.
Ánh mắt long lanh, chứa đầy sức mạnh,
Giản dị trên đầu chiếc nón bài thơ.
Cha mất đi, một chuyện quá bất ngờ,
Đau xót xiết bao “người còn kẻ mất”.
Thể xác Cha nằm yên trong thánh thất,
Linh hồn Cha về cạnh Đức Chúa Trời.
Cha để lại cho đời
Một lòng TIN bất diệt,
Với khuôn mặt trang nghiêm,
Với tinh thần quyết liệt,
Lưu lại ân tình trong hàng triệu con
chiên,
Khi nhắc tên Cha “GIÁM MỤC NGUYỄN KIM
ĐIỀN”
Thánh đường
Phủ-cam
Ngày tang lễ
15-06-1988
TỪ
TÂM
Khi còn là
tổng giám mục Cracovie, Đức Cha Karol Vojtyla đã hỗ trợ “Phong Trào Ốc Đảo” và
ngài đã tham dự những trại hè được tổ chức cho giới trẻ thuộc phong trào. Trong
cuộc hành hương vào năm 2003 ở Cracovie của Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II,
những thành viên ốc đảo đã hát lên như sau:
Chúa đã đến bên bờ biển;
Ngài không kiếm tìm những người khôn
ngoan,
những kẻ giàu có,
Ngài chỉ xin con theo Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã nhìn con trong đôi
mắt,
Chúa mỉm cười và gọi tên con.
Chiếc thuyền của con, con để lại trên
bờ,
Cùng với Chúa con sẽ vượt qua một đại
dương khác.
Và Đức Thánh
Cha Gioan Phao-lồ II đã nói với họ: theo một nghĩa nào đó, bài hát của những ốc
đảo đã đưa ngài ra khỏi quê hương, cho tới tận Roma. Nội dung thâm sâu của bài
hát đã nâng đỡ ngài, ngay cả khi phải đối diện với sự quyết định của mật nghị
các Đức Hồng Y. Và rồi, suốt chiều dài triều đại giáo hoàng của ngài, không bao
giờ ngài tách lìa khỏi bài hát đó.
Chúa đã ban
cho Đức Tổng Giám Mục Karol Vojtyla được toại nguyện trong việc thể hiện lý
tưởng ngài đã chọn lựa, cũng như Đức Tổng Giám Mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền
được hoàn tất hành trình ngài đã dấn thân.
Trong tâm
tình kính mến Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II và ước mong nhiều mục tử ngày nay
sẽ theo bước chân ngài, chúng tôi chuyển dịch tác phẩm “LEVEZ-VOUS! ALLONS!”
(ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!). Ngoài ra chúng tôi cũng mong muốn chia sẽ dịch phẩm nầy
với toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa, vì như Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã minh
định: ơn gọi của mọi tín hữu được nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy là “trở
nên hoàn thiện như Cha trên Trời là Đấng Hoàn Thiện”.
Sách gồm có
SÁU CHƯƠNG, ngoài “LỜI GIỚI THIỆU” và phần “DẪN NHẬP”.
Những đoạn
Phúc Âm trưng dẫn trong tài liệu nầy được trích từ quyển “KINH THÁNH TRỌN BỘ -
CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC” do Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Saigon thực hiện năm 1998.
Tiến trình
phong thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II đã bắt đầu vào tháng 5 năm 2005
khi Giáo Phận Roma kêu gọi các tín hữu Công Giáo đứng ra làm chứng xem Đức
Thánh Cha có xứng đáng nên thánh không.
Phải có một
phép lạ xảy ra sau khi Đức Thánh Cha băng hà để có thể tiến hành phong chân
phước cho Ngài. Và cần thiết phải có một phép lạ nữa sau khi phong chân phước
để có thể phong thánh cho Ngài.
Toà thánh đã
chắc chắn phép lạ đầu tiên trong tiến trình phong chân phước cho Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II, đó là việc khỏi bệnh mà giới y khoa không giải thích được của
một nữ tu người Pháp bị bệnh Parkinson như ngài.
Trong cuộc
phỏng vấn của đài truyền hình Rai của Ý và hãng tin Reuters của Đức, Đức ông
Slowomir Oder, người đứng đầu ủy ban điều tra phong thánh cho Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã cho biết rằng tiến trình điều tra sơ khởi bắt đầu vào tháng
10 năm 2005, về việc lành bịnh của một nữ tu ẩn danh ở Pháp.
Ngài nói rằng
nữ tu người Pháp này bị suy yếu giống như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong
giai đoạn cuối đời của ngài và đã được lành bệnh một cách lạ lùng khi cầu
nguyện với Đức Thánh Cha sau khi ngài qua đời. Đức Ông Slowomir Oder nói rằng
những điều tra viên của Tòa Thánh sẽ bắt đầu nghiên cứu chính thức và chi tiết
hơn về sự lành bệnh lạ lùng nầy.
Vancouver BC
Canada
Mùa Xuân Bính
Tuất – 2006
LỜI
GIỚI THIỆU - DẪN NHẬP
LỜI GIỚI THIỆU
Ngài Karol Joséf Wojtyla – trở
thành Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1978 – sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 ở
miền Wadowice, Ba-Lan. Ngài theo học ngành kịch nghệ tại Đại Học Cracovie. Sau
khi đại học nầy bị quân đội Đức Quốc Xã đóng cửa, ngài Karol thoát được, khỏi
bị giam giữ tại các trại tập trung ở Đức quốc.
Từ năm 1942,
ngài theo học ở chủng viện chui tại Cracovie. Sau Đại Thế Chiến Thứ Hai, ngài
học môn thần học ở đại học cho tới khi được phong chức linh mục vào năm 1946.
Tiếp theo sau những năm học tiến sĩ, linh mục Wojtyla trở thành giáo sư thần
học luân lý và đạo đức học về xã hội tại Đại Chủng Viện Cracovie và Phân Khoa
Thần Học ở Lublin.
Năm 1958, Đức
Thánh Cha Piô XII bổ nhiệm ngài làm Giám Mục phụ tá ở Cracovie. Năm 1964, ngài
được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Cracovie và được phong
tước vị Hồng Y năm 1967.
Khởi từ triều
đại giáo hoàng của ngài vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã thực hiện nhiều chuyến tông du tại nhiều nơi trên thế giới. Ngài
đã ban hành nhiều văn kiện tôn giáo (thông điệp, tông huấn), và xuất bản một số
sách trong đó có quyển tự thuật, nhan đề “Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (năm 1994) và gần đây là quyển “Đứng Dậy! Ta Đi Nào!” (năm 2003) – một
tác phẩm chứa đựng những suy tư về cuộc đời và sứ vụ giám mục của ngài.
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã viết:
“Khi đến ‘giờ của Ngài’, Chúa Giêsu nói với
những người ở với Ngài trong vườn Giết-sê-ma-ni là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan –
những môn đệ mà Ngài đặc biệt yêu thương: ‘Đứng
dậy! Ta đi nào!’ Chúa Giêsu không phải một mình ‘ra đi’ làm trọn Thánh Ý
Chúa Cha: họ cũng phải ra đi với Ngài nữa.
Tôi nói điều đó nhằm nhắc tới nơi
chốn mà tình yêu Chúa Kitô Đấng Cứu Thế đã dẫn đưa tôi, bằng cách kêu gọi tôi
ra khỏi quê hương tôi để sinh hoa kết quả ở nơi khác, một hoa trái được tồn
tại, nhờ Ân Sủng của Ngài. Vì vậy, để làm vang động lại lời của Thầy Chí Thánh và
Chúa chúng ta, tôi cũng lặp lại với mỗi một người trong anh em, thưa Chư Huynh
rất thân mến trong chức giám mục: ‘Đứng
dậy! Ta đi nào!’ Hãy đi trong sự phó thác nơi Chúa Kitô. Ngài sẽ đồng hành
với chúng ta để đạt tới mục đích mà chỉ một mình Ngài biết được.”
DẪN NHẬP
Khi phát hành
quyển sách “Ma vocation: don et mystère” (“Ơn
gọi của tôi: tặng phẩm và huyền nhiệm”) ghi lại những kỷ niệm và suy tư về
lúc khởi đầu cuộc đời linh mục của tôi, tôi đã nhận được nhiều chứng từ đón
tiếp nồng hậu đối với quyển sách đó, nhất là về phía giới trẻ.
Theo những gì
người ta nói với tôi, đối với nhiều người trong giới trẻ đó, phần bổ sung của
Tông Huấn “Pastores dabo vobis” (“Thầy sẽ ban cho các con những mục tử”)
được xác nhận là một sự hỗ trợ quí báu để trao ban cho họ một sự nhận thức đúng
đắn về ơn gọi của họ.
Điều đó khiến
tôi rất vui. Cầu xin Chúa Kitô tiếp tục dùng những suy tư đó để đem nhiều người
trẻ khác lắng nghe tiếng mời gọi của Ngài: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm
cho các anh thành những kẻ lưới người.” (Mc 1, 17).
Nhân dịp kỷ
niệm 45 năm tấn phong giám mục và 25 năm triều đại giáo hoàng của tôi, tôi được
yêu cầu ghi lại những hoài niệm liên tục kể từ năm 1958 là năm tôi trở thành
giám mục. Tôi thiết tưởng phải chấp nhận lời thỉnh cầu đó, cũng như tôi đã chấp
nhận sự gợi ý để cho ra đời quyển sách trước đây.
Một lý do nữa
để thu thập và sắp xếp cho có thứ tự những ký ức và suy tư đó phát sinh bởi một
trình tự tăng tiến của một tài liệu dành cho sứ vụ giám mục. Đó là Tông Huấn “Pastores gregis” (“Các mục tử đoàn chiên Chúa”) mà trong đó tôi đã trình bày một cách
có hệ thống những ý tưởng được phát biểu suốt khóa họp khoáng đại lần thứ X của
Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra trong dịp kỷ niệm năm thánh 2000.
Trong khi
lắng nghe những nghị phụ trình bày cũng như nắm bắt ý nghĩa những văn bản đề
nghị, tôi cảm thấy thức dậy trong tôi nhiều kỷ niệm, cũng như nhiều năm tôi
được giao phó việc phục vụ Giáo Hội ở Cracovie và trải qua những kinh nghiệm
mới tại Roma, trong tư cách người kế vị Thánh Phê-rô.
Tôi đã cố
gắng viết ra những tư tưởng đó với niềm ước mong cũng được chia sẻ với những
người khác về chứng tá tình yêu Chúa Kitô, trải qua bao thế kỷ, luôn mời gọi
những người mới kế vị các tông đồ, ngõ hầu tuôn tràn Ân Sũng của Ngài trên con
tim những anh em khác, qua trung gian những chiếc bình sành mỏng dòn.
Những hoài
niệm của tôi luôn chan chứa những lời Thánh Phao-lô nói với vị giám mục trẻ
tuổi Timothée: “Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta, không phải vì chính những công việc
chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Ngài. Ân sủng đó, Ngài đã
ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Chúa Kitô Giêsu.” (2Tm 1, 9).
Tôi hiến tặng
những trang sách nầy như là dấu ấn tình yêu của tôi đối với anh em trong chức
giám mục và đối với hết thảy dân Chúa. Ước mong những trang sách nầy soi sáng
cho những ai muốn biết sự cao cả của sứ vụ giám mục và nỗi tân khổ cũng như
niềm vui do sứ vụ đó mang lại trong tác vụ hằng ngày!
Tôi mời gọi
hết mọi độc giả hãy cùng tôi cất lên bài ca “Tạ Ơn Chúa” (“Te Deum”)
để cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa. Hãy hướng mắt về Chúa Kitô, được nâng đỡ bởi niềm
hy vọng không lừa dối, chúng ta hãy cùng nhau tiến vào thiên niên kỷ mới: “Đứng
dậy! Ta đi nào!” (Mc 14, 42).
Gioan Phao-lồ II
CHƯƠNG
I: ƠN GỌI
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn anh em.”
(Gio
15, 16)
1.- Nguồn gốc ơn gọi
Tôi truy cập
suối nguồn ơn gọi của tôi, một ơn gọi phập phồng trào dâng lên tại đó – tại căn
phòng ở kinh thành Giê-ru-sa-lem. Tôi cảm tạ ơn Chúa, bởi vì trong Đại Năm
Thánh 2000, tôi đã được cầu nguyện chính ở trong “căn phòng rộng rãi trên lầu” đó (Mc 14, 15), nơi mà
xưa kia đã diễn ra bữa tiệc ly.
Ngay bây giờ
đây, bằng ý tưởng, tôi cũng trở về với ngày thứ năm đáng ghi nhớ đó, khi Chúa
Kitô “vẫn yêu thương những người
thuộc về mình cho đến cùng” (Gio 13, 1), đã thiết lập
hàng tư tế của giao ước mới.
Tôi thấy Ngài
cũng cúi xuống trước mỗi một người trong chúng ta là những kẻ kế vị các thánh
tông đồ để rửa chân chúng ta. Và tôi nghe những lời nầy như thể được ngỏ vớì
tôi: “Anh em có hiểu việc Thầy mới
làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm,
vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa
chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho
anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Gio
13, 12-15).
Cùng với các
thánh tông đồ Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, chúng ta hãy nghe thêm: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy
cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu
anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy,
như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Ngài.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em để
anh em được hưởng niềm vui của Thầy và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực
hiện những điều Thầy truyền dạy.” (Gio
15, 9-14).
Phải chăng mầu
nhiệm của đức ái (mysterium caritatis) không bao gồm trong những lời
nói đó sao? Trong những lời mà Chúa Giêsu đã nói “vì giờ nầy mà Con đã đến” (Gio 12, 27) chính là gốc rễ ơn gọi chúng ta trong Giáo Hội.
Từ những lời
nói đó tuôn tràn nhựa sống nuôi dưỡng ơn gọi – ơn gọi của các tông đồ và của
những kẻ kế vị các tông đồ cũng như ơn gọi của hết mọi người – bởi vì Chúa Con
muốn trở thành bạn hữu của mỗi người: chính vì tất cả mọi người mà Ngài đã trao
ban mạng sống mình.
Người ta tìm
thấy trong những lời nói đó tất cả những gì quan trọng nhất, quí báu nhất, linh
thánh nhất: tình yêu Chúa Cha và tình yêu Chúa Kitô đối với chúng ta, nỗi vui
của Ngài và nỗi vui của chúng ta, cũng như sự thân tình và lòng trung tín của
chúng ta được chứng tỏ qua sự hoàn thành những điều huấn dụ của Ngài. Những lời
đó cũng chứa đựng mục đích và ý hướng ơn gọi chúng ta: đó là “ra đi và sinh được hoa trái để hoa trái
chúng ta tồn tại” (Gio
15, 16).
Rốt cuộc,
tình yêu là sợi dây nối kết tất cả: nối kết một cách thực thể Ba Ngôi Thiên
Chúa và cũng nối kết, trên một bình diện hoàn toàn khác biệt, những con người
với nhau và vô số ơn gọi khác nhau của họ nữa. Chúng ta đã trao phó đời sống
chúng ta cho Chúa Kitô là Đấng đã yêu thương chúng ta trước tiên và, trong tư
cách là Đấng Mục Tử nhân hậu, Ngài đã hiến tế đời Ngài vì chúng ta.
Các tông đồ
Chúa Kitô đã nghe những lời nói đó và đã đem áp dụng cho chính mình, chân nhận
trong những lời nói đó một lời mời gọi có tính cách cá nhân. Cũng thế, cả chúng
ta nữa là những người kế vị – những mục tử của Giáo Hội Chúa Kitô – chúng ta
không thể không tự cảm thấy mình là những người đầu tiên cam kết đáp lại tình
yêu đó, trong sự trung tín, sự thực thi những giới răn và hằng ngày trao ban
đời mình cho những bạn hữu của Chúa.
“Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên.” (Gio
10, 11). Trong bài giảng của tôi hôm 16 tháng 10 năm 2003 tại quảng trường
Thánh Phêrô, nhân dịp kỷ niệm 25 năm triều đại giáo hoàng của tôi, tôi đã đề
cập đến vấn đề đó:
“Khi Chúa Giêsu nói những lời đó, các tông đồ
không biết Ngài nói về chính mình Ngài. Ngay cả Thánh Gioan là tông đồ được
thương mến cũng không biết nữa. Thánh Gioan chỉ biết điều đó ở trên đồi Can-vê,
dưới chân thánh giá, khi thấy Chúa Giêsu dâng hiến một cách thầm lặng mạng sống
mình cho ‘đoàn chiên của Ngài’.
Khi đến lượt Thánh Gioan và những
tông đồ khác phải đảm nhận cũng chính sứ vụ đó, lúc bấy giờ họ nhớ lại những
lời nói của Ngài. Họ nhận ra rằng, chỉ vì Chúa Giêsu đã đoan chắc chính Ngài đã
hành động qua sự trung gian của họ, họ mới có thể chu toàn sứ vụ cho đến hoàn
tất.”
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại” (Gio 15, 16). Không phải anh em, nhưng chính Thầy! Chúa Kitô nói
như thế. Đó là nền tảng của hiệu năng sứ vụ mục tử của giám mục.
2.- Ơn gọi
Đó là vào năm
1958. Với một nhóm người say mê chèo xuồng, tôi đã ở trên chuyến xe lửa đi đến
Olsztyn. (Olsztyn là trung tâm văn hoá và du lịch – thủ phủ miền Mazurie,
ở về hướng đông nam Ba-lan). Chúng tôi bắt đầu kỳ nghỉ hè theo chương trình của
chúng tôi kể từ năm 1953.
Chúng tôi
trải qua một phần thời gian ở vùng rừng núi mà phần lớn ở tại Bieszczady. (Bieszczady
là công viên quốc gia ở phía đông nam Ba-lan, sát biên giới Ukraine và
Slovaquie). Phần khác thời gian, chúng tôi sử dụng ở những vũng hồ thuộc miền
Mazurie. (Mazurie ở miền đông bắc Ba-lan, được mệng danh là “vùng
ngàn hồ”).
Mục đích
chúng tôi nhắm tới là dòng sông Lyna. (Lyna là một con sông ở giữa
Ba-Lan và Nga-sô [Kaliningrad]). Chính vì thế mà chúng tôi đi trên chuyến tàu
đến Olsztyn, vào dịp tháng bảy. Ngỏ lời với người có nhiệm vụ ‘đô đốc’, nếu tôi
nhớ không nhầm, lúc bấy giờ là Zdzislaw Heydel, tôi nói như sau: “Zdzislaw ạ, chỉ ít lâu nữa tôi phải rời
xuồng, bởi vì Đức Giáo Chủ muốn gặp tôi nên tôi phải trình diện ngài.”
Sau khi Đức
Hồng Y August Hlond qua đời vào năm 1948, lúc đó Đức Hồng Y Stefan
Wyszynski là giáo chủ.
‘Đô đốc’ trả
lời: “Được rồi, con sẽ lo liệu.”
Và như vậy,
tới ngày đó, tôi đã rời nhóm để đến nhà ga xe lửa gần nhất là Olsztynek. (Olsztynek
là một thị trấn nhỏ ở về phía tây nam Olsztyn).
Vì biết mình
phải trình diện Đức Hồng Y Giáo Chủ, khi vượt qua sông Lyna, tôi đã tiên liệu
và để lại nơi những người mà tôi quen biết tại Varsovie, chiếc áo dòng mặc
trong những ngày lễ. Quả thật, khó mà đến với Đức Giáo Chủ với chiếc áo dòng
tôi mang theo trong những cuộc thám hiểm bằng xuồng. Trong những cuộc thám hiểm
như thế, tôi luôn mang theo một chiếc áo dòng và những áo lễ để cử hành Thánh
Lễ.
Vì vậy trước
hết tôi bơi xuồng trên sông, rồi chuyển sang một chiếc xe vận tải chở những bao
bột mì cho tới Olsztynek. Chiếc xe lửa đi Varsovie khởi hành trễ giữa đêm
khuya. Vì vậy tôi đã mang theo một chiếc áo ấm bằng lông, vì nghĩ rằng sẽ ngủ
đôi chút ở nhà ga trong khi chờ đợi chuyến tàu. Tôi đã xin một người gần đó
đánh thức tôi dậy. Nhưng điều đó không cần thiết, bởi vì tôi không thể chợp mắt
được.
Tại Varsovie,
tôi trình diện ở tòa tổng giám mục, đường Miodowa, theo giờ giấc đã ấn định.
Tôi nhận thấy tại tòa tổng giám mục có ba linh mục khác cũng được triệu tập
cùng với tôi.
Đó là cha Wilhelm
Pluta ở Silésie. (Silésie là một vùng ở phía tây nam Ba-lan và là
đối tượng tranh chấp trong nhiều thế kỷ ở giữa người Ba-lan và người Đức, nhưng
cuối cùng thuộc về Ba-lan sau Đệ Nhị Thế Chiến). Cha là cha xứ Bochnia
thuộc giáo phận Tarnow. (Tarnow ở vùng Carpates là một trong những thành
phố cổ kính của Ba-lan, cách Cracovie độ 80 cây số).
Hai cha xứ
kia là Michael Blecharczyk và Jozef Drzazga ở Lublin.
Vào lúc đó,
tôi không nhận ra sự trùng hợp. Chỉ về sau tôi mới hiểu rằng chúng tôi đã được
triệu tập cũng vì một nguyên nhân giống nhau.
Khi đi vào trong
văn phòng Đức Giáo Chủ là Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, tôi mới vỡ lẽ ra là Đức
Thánh Cha đã bổ nhiệm tôi làm giám mục phụ tá cho Đức Tổng Giám Mục Cracovie.
Vì chưng, vào tháng hai cũng năm đó (1958) Đức Cha Stanislaw Rospond đã
qua đời. Trong nhiều năm, ngài là giám mục phụ tá Cracovie vào thời điểm mà Đức
Tổng Giám Mục tổng giáo phận là Đức Hồng Y hoàng tử Adam Sapieha.
Đợi đến khi
Đức Giáo Chủ nói hết quyết định của Tòa Thánh, tôi trả lời: “Thưa Đức Hồng Y, con còn trẻ quá: con chỉ
mới 38 tuổi!”
Nhưng Đức
Giáo Chủ đáp: “Đó là một nhược điểm mà
cha sẽ tự giải kết mau chóng! Tôi xin cha đừng cưỡng lại ý muốn của Đức Thánh
Cha.”
Lúc bấy giờ
tôi chỉ thưa một tiếng: “Con xin chấp
nhận.”
Đức Giáo Chủ
kết thúc: “Vậy chúng ta đi ăn trưa.”
Đức Hồng Y
Stefan Wyszynski đã mời tất cả bốn chúng tôi ăn trưa. Do đó tôi được biết cha
xứ Wilhelm Pluta được bổ nhiệm giám mục ở Gorzow Wielkopolski lúc bấy
giờ là giám hạt tông tòa lớn nhất ở Ba-lan, bao gồm Szczecin và Kolobrzeg,
nghĩa là một trong những giáo phận kỳ cựu nhất, vì chưng Kolobrzeg được thiết
lập năm 1000 cùng lúc với tổng giáo phận Gniezno mà Kolobrzeg trực thuộc, ngoài
ra còn có Cracovie và Wroclaw cũng trực thuộc nữa. (Wroclaw là thành phố
đứng thứ tư xét về mặt dân số, ở vùng Hạ-Silésie, trên sông Odra, cách Cracovie
270 cây số và cách Varsovie 300 cây số).
Cha xứ Jósef
Drzazga được bổ nhiệm giám mục phụ tá Lublin (về sau ngài được đổi sang
Olsztyn) và cha xứ Michal Blecharzyk ở Tarnów cũng là giám
mục phụ tá nữa.
Sau cuộc yết
kiến đó – xem ra rất quan trọng đối với cuộc đời tôi – tôi nhận ra rằng tôi
không thể ngay lập tức trở lại với bạn bè của tôi cũng như với chiếc xuồng của
tôi. Trước hết tôi phải đi Cracovie để thông báo với Đức Tổng Giám Mục của tôi
là Đức Cha Eugeniusz Baziak.
Trong lúc chờ
đợi chuyến tàu đêm sẽ đưa tôi đi Cracovie, tôi đã cầu nguyện hằng giờ trong
nguyện đường các nữ tu dòng Ursuline ở đường Wislana, Varsovie.
Đức Cha
Eugeniusz Baziak là tổng giám mục Lvov theo nghi lễ La-tinh, đã chia sẻ định
mệnh của hết những người được gọi là di dân: ngài đã phải rời bỏ Lvov. (Lvov
là thành phố của Ba-lan được thành lập năm 1256 bởi các hoàng tử hạt Halicz,
nhưng bị sáp nhập vào Liên Bang Sô-viết và trở thành tây đô của Ukraine vào năm
1945).
Lúc bấy giờ
ngài định cư ở Lubaczow, một phần nhỏ nhoi của giáo phận Lvov. (Lubaczow
là một thành phố nhỏ bé ở miền đông nam Ba-lan, gần biên giới Ukraine). Sau
hiệp định Yalta, Lubaczow sáp nhập trở lại với Cộng Hòa nhân dân Ba-lan.
Năm trước khi
qua đời, hoàng tử Adam Sapieha là tổng giám mục Cracovie, đã xin Đức Tổng Giám
Mục Baziak bị bắt buộc rời bỏ tổng giáo phận của mình, làm phụ tá cho ngài. Như
vậy sứ vụ giám mục của tôi đã liên kết theo thứ tự niên đại vào bản thân vị
giáo sĩ bị nhiều thử thách đó.
Ngày hôm sau
khi đến Cracovie, tôi trình diện Đức Cha Eugeniusz Baziak ở số 3 đường
Franciszkanska và tôi đã trao cho ngài lá thư của Đức Hồng Y Giáo Chủ. Tôi còn
nhớ lại như xảy ra ngày hôm nay, khi Đức Tổng Giám Mục cầm tay tôi và dẫn tôi
vào phòng khách mà ở đó vài linh mục đang ngồi. Bấy giờ ngài nói lên:
“Habemus
papam!” (“Chúng ta đã có Đức Thánh Cha”).
Dưới ánh sáng
của những biến cố tiếp theo sau đó, người ta có thể nói được rằng đó là những
lời nói có tính cách tiên tri.
Tôi thổ lộ
với Đức Tổng Giám Mục là tôi ao ước được trở về Mazurie để gặp lại nhóm bạn hữu
của tôi đang chèo xuồng trên sông Lyna. Ngài trả lời: “Từ nay, có lẽ điều đó không còn thích hợp nữa!”
Thay vì buồn
bã bởi câu trả lời đó, tôi đã vào nhà thờ dòng Phan-xi-cô và đi đàng thánh giá,
suy ngắm những chặng đàng được Jósef Mehơffer vẽ. Tôi tự ý vào nhà thờ đó để đi
đàng thánh giá, bởi vì tôi thích những chặng đàng vừa độc đáo vừa tân thời.
Kế đó, tôi
trở lại nơi Đức Cha Baziak, lặp lại lời cầu xin của tôi. Tôi thưa: “Thưa Đức Cha, con thấu hiểu nỗi ưu tư của
Đức Cha, nhưng con cũng cứ xin Đức Cha cho phép con trở lại Mazurie.”
Lần nầy ngài
đáp: “Được, được, Đức Cha cứ đi. Ngài còn
nói thêm với một nụ cười: nhưng xin Đức Cha nhớ trở về cho kịp lễ tấn phong.”
Ngay đêm đó,
tôi lấy xe lửa đi Olsztyn. Tôi đã mang theo quyển sách của Hemingway là “Ngư
Ông và Biển Cả”. Tôi đã đọc hầu như suốt đêm, chỉ chập chờn đôi lúc. Tôi
cảm thấy một tình cảm là lạ hầu như đang xâm chiếm lấy mình tôi…
Khi đến
Olsztyn, tôi gặp lại bạn bè trong nhóm đã tới và đang chèo xuồng theo dòng sông
Lyna. Vị ‘đề đốc’ đến kiếm tôi ở nhà ga và nói: “Vậy là họ đã chọn cha làm giám mục?”
Tôi trả lời
đúng. Và anh ta nói thêm: “Đúng thế…Trong
thâm tâm con, con đã tưởng tượng ra y như thế và con xin chúc mầng cha.”
Thật thế,
trước đó ít lâu, khi cử hành Thánh Lễ kỷ niệm 10 năm linh mục, anh ta đã cầu
chúc tôi như thế. Ngày tôi được bổ nhiệm giám mục, tôi làm linh mục chưa được
12 năm.
Tôi đã ngủ ít
và khi đến nơi, tôi đâm ra mệt. Tuy nhiên, trước khi đi nằm nghỉ, tôi đã đến
nhà thờ dâng Thánh Lễ. Nhà thờ được cha tuyên úy đại học làm quản nhiệm và lúc
bấy giờ là cha Tokarczuk, vị giám mục tương lai. Sau đó, tôi có thể đi
ngủ được.
Khi thức dậy,
tôi nhận thấy tin bổ nhiệm tôi làm giám mục được loan truyền, bởi vì cha
Tokarczuk đã gọi tôi bằng những lời nầy: “Chà!
vị tân giám mục, xin chúc mừng!”
Tôi cười rồi
đi gặp nhóm bạn bè. Tôi kéo xuồng ra. Nhưng khi tôi bắt đầu chèo, một lần nữa,
một cảm giác hơi lạ xâm chiếm lấy tôi. Sự trùng hợp giữa những ngày tháng đã
đập mạnh vào trí óc tôi: ngày tôi được bổ nhiệm giám mục là 4 tháng 7 và chính
đó là ngày thánh hiến nhà thờ chính tòa Wawel.
Tọa lạc trên
đồi Wawel ở Cracovie, nhà thờ chính tòa Wawel là một trong những tòa nhà kiến
trúc theo kiểu “gô-tic” đẹp nhất ở Âu châu được xây dựng giữa những năm 1320 và
1364. Những nhà nguyện của nhà thờ chính tòa nầy đã che chở những ngôi mộ các
vì vua chúa và những vị thánh bổn mạng nước Ba-lan.
Đó là một
ngày kỷ niệm luôn vang động trong tâm trí tôi. Đối với tôi, sự trùng hợp đó xem
ra muốn nói lên một điều gì. Tôi thiết nghĩ có thể đó là lần cuối cùng tôi có
thể chèo xuồng. Trong thực tế, tôi phải nói thêm điều nầy là tôi còn có thể bơi
xuồng trên những dòng sông và những mặt hồ miền Mazurie. Thật thế, tôi có thể
bơi xuồng như vậy cho đến năm 1978.
3.- Kế vị các tông đồ
Sau kỳ nghỉ
hè, tôi trở lại Cracovie. Lúc bấy giờ bắt đầu sửa soạn lễ tấn phong được ấn
định vào ngày 28 tháng 9 là ngày lễ Thánh Venceslas, thánh bổn mạng nhà
thờ chính tòa Wawel. Sự cung hiến nhà thờ lịch sử đó cho Thánh Venceslas nhằm
làm nổi bật những tương quan cổ xưa của đất nước Ba-lan với xứ Bohême, bởi vì
Thánh Venceslas là một quận công của xứ Bohême đã tử vì đạo dưới tay anh mình.
Do đó Bohême tôn kính Ngài như thánh bổn mạng.
Cuộc tĩnh tâm
trở nên một giai đoạn chủ yếu trong việc chuẩn bị tôi được tấn phong giám mục.
Tôi đã tĩnh tâm ở Tyniec. (Tyniec là đan viện Biển Đức cách Cracovie 12
cây số về phía tây nam, được xây cất trên một mũi nhô ra biển vào thế kỷ mười
một.) Tôi thường hay đến đan viện lịch sử đó.
Lần nầy tôi
lưu lại ở đó với tính cách đặc biệt lạ thường. Tôi sẽ trở thành giám mục và kể
từ đây tôi đã được bổ nhiệm. Nhưng còn khá nhiều thời gian trước khi được tấn
phong, còn hơn hai tháng nữa. Tôi phải tận dụng thời gian tĩnh tâm nầy cách tốt
đẹp nhất.
Cuộc tĩnh tâm
của tôi kéo dài sáu ngày – sáu ngày chiêm niệm. Chúa ơi, nội dung thật phong
phú và có chất lượng biết bao! “Người kế vị các tông đồ” – chính đó là
những chữ mà tôi đã được nghe trong những ngày đó, trên đôi môi của một nhà vật
lý học tôi quen biết. Dĩ nhiên, những ai tin tưởng thì chấp nhận một tầm mức
quan trọng đặc biệt cho việc kế thừa tông đồ đó.
Tôi – một
“người kế vị” – tôi đã suy nghĩ đến các tông đồ của Chúa Kitô với rất nhiều
khiêm tốn, nghĩ đến một sự liên tục lâu dài của các giám mục, qua sự đặt tay
lên đầu, đã truyền lại cho những người kế vị các ngài được tham gia vào trọng
trách tông đồ. Bây giờ đây họ cũng trao lại cho tôi nữa. Tôi cảm thấy mình trên
phương diện cá nhân được liên kết với mỗi vị trong các đấng ấy.
Một số vị
trong các đấng, trong dây xích kế tục, đã đi trước chúng ta. Và chúng ta là
những giám mục ngày nay, chúng ta biết tên các ngài nữa. Nhiều vị trong các
ngài được biết đến, bởi vì những công tác mục vụ của các ngài rất đáng ghi nhớ.
Nhưng cả
trong trường hợp các giám mục thời xa xưa cho đến nay chúng ta không biết đến,
có thể nói được rằng ơn gọi giám mục của họ và công tác của họ vẫn tồn tại mãi
mãi “và hoa trái của anh em tồn tại”
(Gio 15, 16). Điều đó thể
hiện được cũng nhờ chúng ta nữa là những người kế vị các thánh tông đồ.
Nói chính xác
hơn, nhờ việc đặt tay của họ, bằng vào sự hiệu nghiệm của bí tích truyền chức,
nhờ thế chúng ta được liên kết với Chúa Kitô là Đấng đã chọn họ và chọn chúng
ta “trước cả khi tạo thành vũ trụ”
(Ep 1, 4). Một tặng phẩm và
huyền nhiệm tuyệt diệu biết bao!
“Nầy đây
vị thượng tế suốt đời làm đẹp lòng Thiên Chúa …Vì vậy Thiên Chúa đã cam kết thề
nguyền làm cho Ngài lớn lên đứng đầu dân mình.” Người ta đã hát như vậy
trong phụng vụ. Vị thượng tế tối cao duy nhất của giao ước mới và đời đời,
chính là Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã dâng hiến lễ hy sinh trong chức tư tế bằng
cách chết trên thập giá và trao ban sự sống Ngài cho đoàn chiên, cho toàn thể
nhân loại.
Chính Ngài,
hôm trước cuộc hiến tế đẫm máu trên thánh giá, đã thiết lập, trong bữa tiệc ly,
bí tích truyền chức thánh. Chính Ngài cầm bánh trong tay và đọc những lời nầy:
“Đây là mình Thầy bị trao nộp vì
chúng con.” Sau đó chính Ngài cầm chén rượu trong tay và đọc những lời
nầy: “Đây là chén máu Thầy sẽ đổ ra
cho các con và cho nhiều người, để được tha tội.” Và cuối cùng Ngài nói
thêm: “Các con hãy làm việc nầy để
nhớ đến Thầy.”
Ngài đã nói
điều đó trước mặt các tông đồ, trước mười hai vị mà Phê-rô là người đứng đầu.
Ngài đã nói với họ: “Các con
hãy làm việc nầy để nhớ đến Thầy.” Chính như vậy Ngài đã đặt để họ làm
linh mục giống Ngài, Linh Mục duy nhất và tối cao của giao ước mới.
Có lẽ các
tông đồ đã dự phần vào bữa tiệc ly không hiểu tức thời tất cả ý nghĩa của những
lời nói đó sẽ được thực hiện ngày hôm sau, khi thân thể Chúa Giêsu được trao
phó thật sự để chịu chết và máu Ngài bị đổ ra khi chịu khổ hình thập giá.
Có thể ngay
lúc đó, họ chỉ hiểu là họ phải làm lại nghi lễ bữa tiệc ly với bánh và rượu.
Bởi vì sách “Công Vụ Tông Đồ” thuật lại là sau biến cố Phục Sinh, những
Kitô hữu đầu tiên trung thành trong việc “bẻ
bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv
2, 42). Và vào thời điểm đó, ý nghĩa lễ nghi trở nên rõ ràng cho chúng ta từ
đó.
Theo nghi lễ
Giáo Hội, thứ năm tuần Thánh là ngày tưởng niệm bữa tiệc ly và việc thiết lập
bí tích Thánh Thể. Từ phòng họp ở Giê-ru-sa-lem, việc cử hành Thánh Thể dần dần
lan ra cả thế giới thời bấy giờ. Trước tiên chính các tông đồ chủ tọa việc cử
hành Thánh Thể ở Giê-ru-sa-lem. Về sau, khi Phúc Âm càng phổ biến, họ đã cử
hành Thánh Thể – bởi chính họ hay bởi những người mà họ đã “đặt tay” – ở những
nơi luôn luôn mới, bắt đầu từ Tiểu Á.
Cuối cùng,
với Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lồ, việc cử hành Thánh Thể đã đến Roma, vào thời
kỳ chủ yếu của thế giới lúc bấy giờ. Nhiều thế kỷ sau, Thánh Thể đã được cử
hành ở Vistule.
(Vistule
là miền có con sông lớn nhất của Ba-lan, dài 1092 cây số mà 940 cây số tàu bè
qua lại được. Sông nầy bắt nguồn từ phía tây Carpates và làm thành một vòng
cung trong vùng đồng bằng nước Ba-lan, băng qua Varsovie, trước khi đổ ra bể
Baltique. Vùng đó khí hậu đại lục nên dòng sông Vistule mỗi năm bị băng giá hai
ba tháng. Đó là con sông biểu hiện cho Ba-lan, được nhiều thi sĩ ca tụng.)
Tôi hồi tưởng
trong thời gian tĩnh tâm trước khi chịu chức giám mục, tôi đã cảm tạ Chúa cách
đặc biệt bởi vì Phúc Âm và Thánh Thể đã đến vùng sông Vistule và cũng đến
Tyniec nữa. Đan viện Tyniec ở ngoại ô Cracovie mà việc xây cất khởi đầu
từ thế kỷ mười một, đúng là nơi thích hợp để tôi có thể chuẩn bị lãnh nhận việc
phong chức giám mục ở nhà thờ chính tòa Wawel.
Vào năm 2002,
trong chuyến tông du mục vụ ở Cracovie, trước khi đáp chuyến máy bay trở về lại
Roma, tôi đã có thể thăm viếng Tyniec, cho dù trong thời gian ngắn ngủi, như để
trả món nợ biết ơn đối với cá nhân tôi. Có thể không phải riêng mình tôi thôi,
mà cả toàn quốc Ba-lan nữa.
Ngày 28 tháng
9 năm 1958 từ từ tiến lại gần. Trước khi được tấn phong, tôi đã chính thức đến Lubaczóm
như là giám mục được bổ nhiệm, nhân dịp ngân khánh giám mục của Đức Tổng Giám
Mục Baziak. Đó là ngày lễ Đức Bà Bảy Sự Thương Khó được cử hành ngày 22 tháng 9
tại Lvov.
Tôi đến đó
cùng một lượt với hai giám mục ở Przemysl là các Đức Cha Franciszek Barda
và Wojciech Tomaka. (Przemysl là thành phố tráng lệ từ
thời Trung Cổ, ở phía đông nam Ba-lan, gần biên giới Ukraine). Cả hai ngài rất
lớn tuổi hơn tôi, vì tôi chỉ mới 38 tuổi. Tôi cảm thấy hơi bối rối. Chính đó là
những “thử thách” đầu tiên trong cương vị giám mục của tôi. Một tuần sau là lễ
tấn phong giám mục ở Wawel
4.- Nhà thờ chính tòa Wawel
Từ thuở thiếu
thời, tôi cảm nghiệm một sự gắn bó thật đặc biệt đối với nhà thờ chính tòa
Wawel. Tôi không nhớ rõ tôi đã đi tới đó lúc nào, nhưng kể từ khi tôi bắt đầu
lui tới, tôi cảm thấy nhà thờ chính tòa đó đã hấp dẫn và liên kết tôi một cách
lạ thường. Một cách nào đó, nhà thờ chính tòa Wawel đã chứa đựng tất cả lịch sử
quốc gia Ba-lan.
Tôi đã trải
qua một thời kỳ bi thảm khi quân đội Đức Quốc Xã đặt để bản doanh vị toàn quyền
của họ trong lâu đài Wawel và họ đã kéo cờ chữ vạn lên trên đỉnh đồi. Điều đó
đối với tôi là một kinh nghiệm vô cùng đớn đau. Nhưng cuối cùng đã đến ngày lá
cờ chữ vạn biến mất và những biểu hiệu của đất nước Ba-lan đã được treo lên trở
lại.
Nhà thờ chính
tòa hiện nay đã có từ thời đại đế Casimir III. (Đại đế Casimir III trị
vì từ 1333-1370). Trước mắt tôi hiện đang lần lượt diễn ra những phần khác nhau
của ngôi thánh đường đó với những tòa nhà tương ứng. Chỉ cần đi qua gian giữa
và những gian bên hông để khám phá những xác ướp của các vì vua Ba-lan.
Và nếu người
ta bước xuống những hầm mộ các thi sĩ, người ta sẽ gặp những mộ phần của
Mickiewicz Adam, Slowacki Juliusz và sau cùng Norwid Cyprian Kamil. (Mickiewicz
Adam là thi sĩ Ba-lan nổi tiếng nhất, đã phục hoạt xã hội kín của giới trí
thức nhằm quảng bá lý tưởng ái quốc để chống lại sự đàn áp của Nga hoàng. Còn Slowacki
Juliusz – thi sĩ kiêm soạn kịch gia – là một trong những thi sĩ lãng mạn
nổi tiếng của Ba-lan cùng với Mickiewicz và Norwid).
Như tôi đã
nhắc tới trong sách “Ơn Gọi Của Tôi: Tặng Phẩm và Huyền Nhiệm”, tôi ước
mong cử hành Thánh Lễ đầu tiên của tôi ở Wawel, trong hầm mộ Thánh Léonard
ở dưới nhà thờ chính toà và đã được như thế. Hẵn nhiên điều ao ước đó đến từ
tình yêu sâu lắng mà tôi đã cảm nghiệm đối với tất cả những gì mang một dấu ấn
quê hương tôi. Nơi đó rất thân thương đối với tôi vì mỗi một viên đá nhắc nhở
tới đất nước Ba-lan, tới sự vĩ đại của Ba-lan.
Tất cả cấu
trúc của ngọn đồi Wawel rất thân thương đối với tôi: nhà thờ chính tòa, đền đài
và cung điện. Gần đây khi tôi trở lại Cracovie, tôi cũng đã đến nhà thờ chính
tòa Wawel và ở đó tôi đã cầu nguyện trên mộ phần Thánh Stanislas. Tôi không thể
đánh mất một dịp thăm viếng nhà thờ chính tòa đó đã đón tiếp tôi trong hai mươi
năm trước đây.
Nơi tôi quí
mến nhất ở trong nhà thờ chính tòa Wawel là hầm mộ Thánh Léonard. Đó là
phần cổ kính của nhà thờ chính tòa lùi lại thời vua Boleslas III. (Vua Boleslas
III Krzywousty [1102-1138] là nhà vua đã thống nhất Ba-lan nhưng lại thiết
lập “viện trưởng lão” cho phép phân chia vương quốc giữa các hoàng tử: điều nầy
trong thực tế đã đưa đến việc chia cắt đất nước).
Chính hầm mộ
chứng tỏ những thời kỳ cổ xưa hơn nữa, bởi vì nhắc nhở lại những vị giám mục
đầu tiên vào lúc khởi đầu thế kỷ mười một – thời kỳ bắt đầu phả hệ giám mục
Cracovie. Những vị giám mục đầu tiên mang những tên hơi huyền bí: Prokop
và Prokulf, hình như có nguốn gốc Hy-lạp.
Rồi dần dần
xuất hiện rất thông thường những tên thuộc dân tộc “Slave” như Stanislas
Szczepanów đã trở thành giám mục Cracovie năm 1072. Vào năm 1079, ngài
bị ám sát bởi những người do vua Boleslas II sai tới khi ngài đang dâng Thánh
lễ. Về sau, vua nầy phải trốn khỏi nước và có lẽ đã chấm dứt những ngày còn lại
ở Osjak, như để sám hối. Ngài được phong thánh năm 1253 và là một trong những
vị thánh bổn mạng Ba-lan.
Khi tôi trở
thành tổng giám mục Cracovie, và từ Roma trở về Cracovie, tôi đã dâng Thánh Lễ
ở Osjak. Và chính nơi đó tôi cảm thấy gợi lại một cách thi vị biến cố
xảy ra biết bao thế kỷ rồi về bài thơ nhan đề Stanislas.
Thánh
Stanislas là “Người Cha của Tổ Quốc”.
Chúa nhật tiếp theo sau ngày 8 tháng 5, người ta đi kiệu trọng thể từ Wawel đến
Skalka. Dọc theo lộ trình, những người tham dự hát những bài hát được xen kẻ
bởi điệp khúc: “Lạy Thánh Stanislas,
thánh bổn mạng chúng tôi, cầu cho chúng tôi!” Cuộc rước kiệu từ trên đồi
Wawel đi xuống, băng qua các con đường Stradon và Krakowska, tiếp tục về hướng
Skalka mà ở đó thường có một vị giám mục được mời tới dâng Thánh Lễ.
Sau Thánh Lễ,
đoàn rước kiệu trở lại cũng những con đường đó cho đến nhà thờ chính tòa và
những thánh tích của Thánh Stanislas được rước đi trong hòm thánh tích lộng lẫy
được đem đặt trên bàn thờ.
Dân chúng
Ba-lan tin chắc sự thánh thiện của vị giám mục đó và họ đã nhiệt thành ra sức
xin phong thánh cho Ngài và kết quả đã xảy ra ở Assise vào thế kỷ mười ba. Ở
trong thành phố Ombrie, người ta đã cất giữ cho tới ngày nay những bức tranh về
Thánh Stanislas.
Trong nhà thờ
chính tòa Wawel, bên cạnh Tòa Giải Tội của Thánh Stanislas là ngôi
mộ Thánh nữ hoàng Hedwige cũng tạo nên một kho tàng vô giá. Những thánh
tích của nữ thánh được đặt dưới cây thánh giá nổi tiếng của Wawel vào năm 1987,
nhân chuyến tông du thứ ba của tôi trên đất nước tôi.
Ở dưới chân
thánh giá đó, Hedwige lúc lên mười hai tuổi, đã quyết định kết hôn với hoàng tử
nước Lituanie là Ladislas Jagellon. Quyết định đó vào năm 1386 đã đưa
nước Lituanie vào trong đại gia đình những nước Kitô giáo.
Tôi nhớ lại
ngày 8-6-1997 với nhiều xúc động khi ở Blonia Cracovie, trong lễ phong thánh
cho vị nữ hoàng, tôi đã bắt đầu bài giảng bằng những lời nầy: “Hởi Hedwige, bà đã chờ đợi ngày trọng đại
nầy rất lâu…gần sáu trăm năm sau.” Nhiều hoàn cảnh khác nhau khó nói ra hết
được lúc bây giờ, đã góp phần vào việc trễ tràng nầy.
Đã từ lâu,
tôi ấp ủ niềm ao ước là “Người Đàn Bà ở Wawel”
có thể mang tước hiệu nữ thánh theo ý nghĩa của giáo luật một cách chính thức
và ngày đó đã được thể hiện. Tôi cảm tạ Chúa. Sau bao thế kỷ chờ đợi, Chúa đã
chấp thuận cho tôi thực hiện niềm khát vọng đó rất thân tình trong con tim của
nhiều thế hệ dân nước Ba-lan.
Tất cả những
kỷ niệm đó được nối kết một cách nào đó nhân ngày lễ tấn phong giám mục của
tôi. Theo một nghĩa nào đó, lễ tấn phong nầy đã trở thành một biến cố lịch sử,
bởi vì lễ tấn phong giám mục trước đây đã diễn ra khá lâu, vào năm 1926. Lúc
bấy giờ vị tiến chức là Đức Cha Stanislaw Rospind. Và bây giờ chính là
tôi.
5.- Ngày lễ tấn phong: trung tâm điểm Giáo Hội
Bấy giờ đã
đến ngày 28 tháng 9 – ngày lễ kính nhớ Thánh Venceslas. Lễ tấn phong
giám mục của tôi được ấn định vào ngày đó. Biến cố trọng đại nầy luôn diễn ra
trước mắt tôi. Có thể nói được vào thời kỳ đó phụng vụ phong phú hơn bây giờ.
Tôi nhớ lại
mỗi một người đã dự phần vào đó. Theo tập quán, người ta hiến dâng những tặng
phẩm tượng trưng cho Đức Giám Mục chủ phong. Một thùng rượu nhỏ và một mẩu bánh
mì là những của lễ trong những thứ khác được vài bạn hữu của tôi mang lên.
Trước hết là Zbyszek
Silkowski, bạn học lúc còn ở bậc trung học và Jurek Ciesielski ngày
nay là Tôi Tớ Chúa. Thứ đến là Marian Wójtowicz và Zdzislaw Heydel.
Hình như còn có Stanislaw Rybicki nữa. Chắc chắn cha Kzimierz
Figlewicz là linh hoạt nhất. Ngày đó mây mù, nhưng cuối cùng mặt trời cũng
đã xuất hiện. Như một điềm lành, một tia sáng mặt trời đã giọi xuống trên vị
tiến chức đáng thương là tôi.
Sau khi đọc
Phúc Âm, ca đoàn xướng lên bài hát:
Lạy
Chúa Thánh Thần xin hãy đến
Thăm
viếng những tâm hồn Ngài;
Làm
đầy ân sủng từ trời cao
Trên
những con tim Ngài đã tạo dựng…
Tôi đã lắng
nghe bài thánh ca đó và một lần nữa – cũng như khi tôi được phong chức linh mục
– một sự trong sáng còn lớn hơn nữa đã làm sống dậy nơi tôi ý thức rằng tác
nhân của lễ tấn phong trong thực tế là Thánh Thần Chúa.
Đối với tôi,
đó là một niềm an ủi khi đứng trước mọi nỗi sợ hãi của con người phải nhận lãnh
một trọng trách nặng nề như thế: Thánh Thần Chúa sẽ soi sáng tôi, ban sức mạnh
cho tôi, an ủi tôi, dạy dỗ tôi…Phải chăng đó không phải là lời hứa Chúa Kitô đã
cam kết với các tông đồ sao?
Trong nghi
thức phụng vụ, những hành động khác nhau mang tính cách tượng trưng đã nối
tiếp, mỗi hành động có ý nghĩa riêng. Đức Giám Mục chủ phong đặt những câu hỏi
liên hệ đến đức tin và đời sống.
Câu hỏi cuối
cùng như sau:
“Đức Cha
có muốn kêu xin Chúa toàn năng không ngừng nghỉ cho dân thánh Chúa và thi hành
một cách không thể chê trách chức vụ đại tư tế và mục tử không?”
Để trả lời
câu hỏi đó, vị tiến chức thưa:
“Dạ, con
muốn, với ơn Chúa.”
Lúc bấy giờ
Đức Giám Mục chủ tế kết thúc như sau:
“Xin chính
Thiên Chúa hoàn tất nơi Đức Cha những gì Ngài đã bắt đầu!”
Lại một lần
nữa ý tưởng nầy xảy đến trong trí óc tôi, mang lại một sự tín thác bình tâm
trọn vẹn: giờ đây Chúa bắt đầu nơi bạn công việc của Ngài; bạn đừng sợ hãi, hãy
ký thác đường đời của bạn cho Chúa; chính Ngài sẽ hành động và sẽ hoàn tất
những gì Ngài đã thực hiện (xem Tv 36 [37], 5).
Trong hết mọi
cấp bậc tấn phong (phó tế, linh mục, giám mục), vị tiến chức nằm phủ phục trên
mặt đất. Đó là dấu hiệu tận hiến chính mình cho Chúa Kitô, cho Đấng – để hoàn
thành sứ vụ tư tế – “đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và
chết trên cây thập tự.” (Phi-líp
2, 7-8)
Một cử chỉ
như thế tái diễn mỗi thứ sáu tuần thánh khi linh mục chủ tọa cộng đoàn phụng
vụ, cũng nằm xuống trong thinh lặng. Trong tam nhật phục sinh, không cử hành
Thánh lễ vào ngày đó: Giáo Hội trầm tĩnh để suy tư sự Thương Khó của Chúa Kitô,
bắt đầu từ cơn hấp hối của Ngài ở vườn Giết-sê-ma-ni, khi chính Ngài sụp mình
xuống đất cầu nguyện. Trong tâm hồn vị chủ tế luôn vang động mạnh mẽ tiếng đồng
vọng của lời Ngài cầu xin: “Anh em ở
lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26, 38).
Tôi nhớ lại
thời điểm đó, khi tôi nằm xuống đất và dân chúng hát kinh cầu các Thánh, Đức
Giám Mục chủ tế đã mời gọi cộng đồng:
“Đối với
người đã được tuyển chọn, cùng với tất cả các Thánh ở trên trởi, chúng ta hãy
cầu xin Chúa là Chúa chúng ta: trong lòng từ nhân của Ngài và vì lợi ích của
Giáo Hội, xin Chúa ban cho vị tiến chức ân sủng dồi dào.”
Rồi thì kinh
cầu các Thánh bắt đầu:
Xin
Chúa thương xót chúng con,
Xin
Chúa Kitô thương xót chúng con…
Thánh
Maria, Mẹ Thiên Chúa,
Thánh
Mi-ca-e,
Các
thánh thiên thần của Chúa…,
Cầu
cho chúng con!
Tôi sùng kính
thiên thần bản mệnh một cách đặc biệt. Từ thuở thiếu thời, có lẽ cũng như những
đứa trẻ khác, tôi đã kêu cầu vô số lần: “Lạy thiên thần của Chúa, ngài là
người canh giữ tôi, xin soi sáng cho tôi, giữ gìn tôi, hướng dẫn tôi và cai
quản tôi…” Thiên thần bản mệnh của tôi biết tôi đang làm gì. Sự tín thác
của tôi nơi Ngài, trước sự hiện diện che chở của Ngài, không ngừng lắng sâu ở
trong tôi.
Thánh thiên
thần Mi-ca-e, Gabriel, Raphael là những tổng lãnh thiên thần mà tôi năng kêu
cầu trong lời kinh nguyện. Tôi cũng nhớ lại bài chuyên luận tuyệt đẹp của Thánh
Tô-ma về các thiên thần, những thần tinh khiết.
Thánh
Gioan Bao-ti-xi-ta,
Thánh
Giu-se,
Thánh
Phê-rô và Phao-lồ,
Thánh An-rê,
Thánh Charles…,
Cầu cho chúng tôi!
Như người ta đã biết, tôi được
phong chức linh mục vào ngày lễ trọng thể kính Các Thánh Nam Nữ. Đối với tôi,
ngày đó luôn luôn là một đại lễ. Nhờ lòng từ nhân của Chúa, tôi được dâng lễ kỷ
niệm chịu chức linh mục của tôi vào ngày mà toàn thể Giáo Hội kính nhớ cộng
đồng các Thánh ở trên trời.
Từ trên trời cao, các Thánh cầu
bàu nguyện giúp để cộng đoàn giáo sĩ lớn lên trong sự hiệp thông dưới tác động
của Thánh Thần Chúa thúc đẩy việc thực hành đức bác ái: “Cũng như sự hiệp thông giữa Kitô hữu trên hành trình dương thế dẫn đưa
chúng ta tới gần Chúa Kitô hơn, cũng thế sự hiệp thông với các Thánh ở trên
trời kết hợp chúng ta với Chúa Kitô, để từ đó tuôn tràn, như từ Nguồn Suối và
từ Đầu, hết mọi ân sủng và sự sống của chính Dân Chúa.” (Ánh Sáng Muôn Dân, 50).
Sau khi kinh cầu các Thánh chấm
dứt, vị tiến chức đứng dậy và tiến lại gần vị chủ phong để vị nầy đặt tay lên
đầu. Theo Truyền Thống lùi lại từ thời các thánh tông đồ, cử chỉ chủ yếu đó
mang ý nghĩa sự truyền đạt Thánh Thần Chúa. Ngay sau đó, hai vị giám mục đồng
tấn phong cũng đặt tay trên đầu vị được tấn phong. Rồi vị giám mục chủ phong cùng
với hai vị giám mục đồng tấn phong đọc lời nguyện phong chức. Và như thế đã kết
thúc cao điểm của buổi lễ tấn phong giám mục.
Cần nhắc lại ở đây những ngôn từ
của Hiến Chế Công Đồng ‘Ánh Sáng Muôn
Dân’: “Để chu toàn những trọng trách lớn lao đó, các tông đồ đã được tràn đầy
những ơn đặc biệt do Chúa Thánh Thần đổ tràn xuống trên họ (xem Cv
1, 8; 2, 4; Gio 20, 22-23) và
chính họ đã trao lại ơn tặng của Chúa Thánh Linh cho những cộng sự viên của họ,
qua việc đặt tay lên đầu (xem 1Tm 4, 14; 2Tm 1, 6-7).
Ơn tặng của Chúa Thánh Linh được trao ban cho chúng ta qua việc tấn
phong giám mục…Rõ ràng Thánh Truyền, nhất là được diễn tả trong những nghi thức
phụng vụ và trong việc Giáo Hội – Đông cũng như Tây – qua sự đặt tay và những
lời lẽ tấn phong, ơn Chúa Thánh Thần được ban xuống và tính cách linh thánh được in sâu, cho đến đỗi các giám mục, bằng một cách cao siêu và rõ
rệt, đóng vai trò của chính Chúa Kitô là Thầy, là Mục Tử và Thượng Tế, đã hành
động trong chính cá nhân Ngài.” (số 21)
6.- Những Giám Mục tấn
phong
Tôi không thể không nêu lên ở đây
cá nhân vị chủ phong chính là Đức Tổng Giám Mục Eugeniusz Baziak. Tôi đã
nhắc đến tiểu sử phức tạp về đời sống và thừa tác vụ giám mục của ngài. Nguồn
gốc của ngài trong tư cách giám mục đã có một tầm vóc quan trọng đối với tôi,
bởi vì ngài là mắt xích nối kết trong sự kế thừa các tông đồ.
Ngài được tấn phong bởi Đức Tổng
Giám Mục Boleslaw Twardowski. Trước kia vị nầy đã được tấn phong bởi Đức
Giám Mục Jósef Bilczewski mà tôi rất vui mầng đã phong thánh thời gian
gần đây tại
Phải chăng tất cả những điều đó
không đưa đường dẫn lối để tôi noi theo hay sao? Có thể nào tôi vượt ra ngoài
truyền thống thánh thiện của những vị đại mục tử đó của Giáo Hội được sao?
Dịp lễ tấn phong của tôi, hai vị
giám mục đồng tấn phong kia là Đức Cha Franciszek Jop ở
Trong thời gian Hồng Quân chiếm
đóng, Đức Cha Franciszek Jop đã được Chúa Quan Phòng gởi tới cho
Cracovie. Đức Cha Baziak bị biệt giam và Đức Cha Jop được chỉ định làm giám mục
phó cho Cracovie. Nhờ ngài, Giáo Hội của thành phố đó đã sống còn mà không bị
thiệt hại lớn lao nào trong thời gian đó.
Đức Cha Boleslaw Kominek
cũng có những liên hệ với Cracovie. Trong thời gian Hồng Quân chiếm đóng, lúc
bấy giờ ngài đã là giám mục Wroclaw, chính quyền Cộng Sản cấm ngài không được
vào trong giáo phận của ngài. Bấy giờ ngài định cư ở Cracovie như một giám mục.
Chỉ về sau đó ngài mới có thể tiếp nhận giáo phận
Cả hai ngài là những viên chức lớn
lao của Giáo Hội, qua những thời kỳ khó khăn, đã nêu gương cá nhân cao cả và
qua đó minh chứng lòng trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm Ngài. Làm sao tôi
không thể xét xem sự “thăng tiến” can trường thiêng liêng đó?
7.- Những cử chỉ phụng
vụ trong lễ tấn phong
Những cử chỉ phụng vụ đầy ý nghĩa
khác của lễ tấn phong giám mục lại trở về trong ký ức tôi. Trước hết là việc
đặt để quyển Thánh Kinh lên vai tiến chức, khi hát lời nguyện tấn phong. Ở đây,
sự giao hòa giữa biểu tượng và lời nói thật hùng hồn.
Ấn tượng đầu tiên khiến người ta
tưởng tới gánh nặng thuộc trách nhiệm của vị giám mục đối với Phúc Âm, tức tầm
mức lời mời gọi của Chúa Kitô đưa đến việc rao giảng Tin Mừng cho tới tận cùng
trái đất, bằng cách đem mạng sống mình ra minh chứng cho việc rao giảng.
Nhưng khi tiến sâu hơn vào trong ý
nghĩa biểu tượng đó, người ta nhận thấy chính điều đang thực hiện, bắt nguồn từ
Phúc Âm và đâm rễ sâu nơi Phúc Âm. Do đó vị được tấn phong giám mục có thể múc
lấy sự an ủi và cảm hứng trong sự nhận thức như thế. Chính ở dưới ánh sáng Tin
Mừng của sự Phục Sinh Chúa Kitô người ta mới hiểu được những lời kinh dưới đây
một cách hiệu nghiệm:
“Lạy Chúa xin đổ tràn trên
người mà Chúa đã chọn, sức mạnh đến từ Chúa, xin Thánh Thần Chúa tác động và
dẫn dắt, Thánh Thần mà Chúa đã ban cho Con yêu dấu của Chúa là Chúa Giêsu Kitô,
Đấng đã ban chính mình Ngài cho các thánh tông đồ…”
(Sách Lễ Roma – Lời Nguyện Tấn Phong)
Trong phụng vụ tấn phong giám mục,
việc kế tiếp là xức dầu thánh. Cử chỉ đó đã đâm rễ sâu trong những bí tích
trước, khởi đầu là bí tích thánh tẩy và thêm sức. Khi phong chức linh mục, dầu
được xức ở nơi tay; khi tấn phong giám mục, chính ở trên đầu. Cử chỉ đó còn nói
lên sự thông truyền Thánh Thần Chúa đi vào bên trong, chiếm hữu con người được
xức dầu và trở nên công cụ của Chúa Thánh Linh.
Việc xức dầu trên đầu đó mang ý
nghĩa kêu mời vị tiến chức nhận lãnh những trách nhiệm mới: bởi vì ở trong Giáo
Hội vị giám mục sẽ mang trọng trách điều khiển, điều đó ràng buộc ngài một cách
trọn vẹn. Việc xức dầu bởi Chúa Thánh Thần đó cũng bắt nguồn từ việc xức dầu
của Chúa Giêsu Kitô – Đấng Khâm Sai.
Danh từ Christos, “Kitô”,
được dịch ra tiếng Hy-lạp từ tiếng Do-thái Masiah, “Đấng Khâm Sai”,
có nghĩa là “được xức dầu”. Đối với dân Do-thái, được xức dầu nhân danh
Chúa là những người được Chúa chọn lựa để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Có thể
đó là sứ vụ ngôn sứ, tư tế hay vương giả.
Nhưng danh xưng “khâm sai” trước tiên ám chỉ người phải
đến để vĩnh viễn thiết lập nưóc Thiên Chúa trong đó những lời hứa về sự cứu rỗi
phải được thực hiện. Chính Đấng đó phải “được
xức dầu” bởi Thánh Thần Chúa như ngôn sứ, tư tế và vương giả.
Cụm từ “Đức Kitô được xức dầu”
đã trở nên danh xưng đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì ở nơi Ngài đã thực hiện
một cách trọn vẹn sứ vụ linh thánh được diễn tả bởi từ ngữ đó. Phúc Âm không
nói Chúa Giêsu được xức dầu bên ngoài bao giờ, như trong Cựu Ước, David
hay Aaron đã được xức dầu và dầu thơm chảy xuống trên bộ râu của họ (Xem
TV 132 [133], 2).
Khi người ta nói tới việc “xức dầu”, người ta muốn ám chỉ việc xức
dầu trực tiếp của Chúa Thánh Thần ở trong tâm trí mà biểu hiệu và chứng từ là
sự thực thi trọn vẹn bởi Chúa Giêsu về sứ vụ mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Đó là điều mà Thánh Giám Mục Irénée
đã diễn tả rất đúng: “Danh xưng Kitô hàm
ý Đấng xức dầu: Đấng đó đã được xức dầu và dầu thánh mà Đấng đó đã được xức.
Đấng xức dầu chính Chúa Cha; Đấng đã được xức dầu, chính Chúa Con; và được xức
dầu trong Thánh Linh, chính là dầu thánh.” (Xem Contre les heresies, III, 18, 3: Sources chrétiennnes, Paris 1984, p. 362).
Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên
thần loan báo cho mục đồng: “Hôm nay
một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavid. Ngài là Đấng Kitô
Đức Chúa.” (Lc
2, 11). Đức Kitô, chính là Đấng Được Xức Dầu.
Với Ngài cũng nảy sinh việc xức
dầu phổ cập, thuộc về Đấng Cứu Thế và có tính cách cứu rỗi mà hết thảy những ai
nhận lãnh bí tích thánh tẩy đều được dự phần, cũng như việc xức dầu đặc biệt mà
chính Ngài – Đức Kitô – đã muốn các giám mục và linh mục dự phần: họ là những
người được tuyển chọn với trách vụ tông đồ đối với Giáo Hội của Ngài.
Dầu thánh, biểu hiệu quyền năng
của Thánh Thần Chúa đã đổ xuống trên đầu chúng ta, đã ghi khắc chúng ta vào
công trình của Chúa Cứu Thế cho phần rỗi. Cũng một trật, việc xức dầu đó mà
chúng ta đã nhận lãnh một cách đặc biệt xét về phương diện phẩm chất, ba chức
năng: ngôn sứ, tư tế và vương giả.
8.- Dầu Thánh
Tôi cảm tạ Chúa về “dầu thánh” tôi
đã nhận lãnh lần đầu tiên ở trong thành phố tôi sinh trưởng là Wadowice. (Wadowice
ở cách Cracovie 50 cây số). Điều đó đã xảy ra vào ngày tôi nhận lãnh bí
tích Thánh Tẩy. Với việc thánh tẩy đó, tất cả chúng ta trở nên công chính hóa
nhờ Chúa Kitô và được ghép vào Ngài. Chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần
lần đầu tiên.
Chính việc xức dầu thánh là biểu
hiệu sự tuôn tràn Thánh Linh mang lại cho chúng ta đời sống mới trong Chúa Kitô
và làm cho chúng ta có thể sống trong sự công chính của Chúa. Việc xức dầu
thánh lần đầu đó được bổ túc bởi ấn tín của Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm
Sức.
Mối liên kết thâm sâu và trực tiếp
ở giữa các bí tích đó được nổi bật trong nghi lễ rửa tội người lớn. Các Giáo
Hội Đông phương cũng còn duy trì sự liên kết trực tiếp đó trong nghi thức rửa
tội các trẻ em: cùng lúc được rửa tội, các em cũng nhận lãnh bí tích thêm sức
luôn.
Sự liên kết giữa hai bí tích hàng
đầu đó và sự huyền nhiệm thánh của chính bí tích Thánh Thể với ơn gọi linh mục
và giám mục thì bền chặt và thâm sâu cho đến nỗi chúng ta có thể luôn luôn tái
khám phá sự phong phú, với một tấm lòng biết ơn.
Đối với chúng ta là những giám
mục, chúng ta không những nhận lãnh những bí tích đó, mà còn được sai đi để rửa
tội, để tập họp Giáo Hội chung quanh bàn tiệc của Chúa, để củng cố đức tin cho
những tông đồ của Chúa Kitô bằng ấn tín của Chúa Thánh Linh trong bí tích thêm
sức.
Trong mục vụ của mình, rất thường
khi vị giám mục có cơ hội cử hành bí tích thêm sức, trao ban cho họ việc xức
dầu thánh và truyền đạt cho họ Ơn Chúa Thánh Thần là suối nguồn sự sống trong
Chúa Kitô.
Ở nhiều nơi, trong Thánh Lễ phong
chức, người ta thường nghe giáo dân hát:
“Hỡi dân tư tế, dân vương giả,
cộng đồng các thánh, dân của Chúa, hãy hát ca mừng Chúa chúng ta.”
Tôi yêu thích bài hát dó, bởi vì
nội dung phong phú:
“Chúng con hát ca mừng Ngài,
hởi Con yêu dấu của Chúa Cha!
Chúng con tán dương Ngài, hởi sự
Khôn Ngoan muôn thuở và Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Hỡi Con của Đức Trinh Nữ Maria,
chúng con hát mừng Ngài.
Hỡi Đức Kitô, người Anh của chúng
con đã đến cứu chuộc chúng con, chúng con tán dương Ngài.
Hỡi Đấng Cứu Thế mà những kẻ khốn
khó trông chờ, chúng con hát mừng Ngài.
Ôi Đức Kitô là Vua chúng con, hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng, chúng con tán tụng Ngài.
[…]
Hỡi cây nho của sự sống, chúng con
là những cành nho của Ngài, chúng con hát mừng Ngài.
Hết mọi ơn gọi đều được nảy sinh
trong Chúa Kitô và rõ ràng chính đó là điều được biểu lộ mỗi khi xức dầu thánh:
khởi đầu là bí tích Thánh Tẩy cho tới việc xức dầu thánh lên đầu giám mục.
Chính việc xức dầu đó mà phát sinh phẩm cách chung cho hết mọi ơn gọi của Kitô
hữu.
Xét về phương diện đó, tất cả các
ơn gọi đều bình đẳng. Sự khác biệt đến từ vai trò mà Chúa Kitô phân định cho
mỗi người được gọi trong cộng đồng Giáo Hội và từ trách nhiệm bởi đó mà ra.
Phải rất để ý đến điều Chúa Giêsu
đã cầu xin “không một ai trong họ phải hư mất” (Gio 17, 12): không một ơn gọi nào phải tàn lụi, bởi vì mỗi ơn
gọi đều quí giá và thiết yếu. Đối với mọi sinh mạng, vị Mục Tử Nhân Hậu đều
trao ban sự sống. Đó là trách nhiệm của vị giám mục.
Ngài phải biết nhiệm vụ của Ngài
là làm thế nào để trong Giáo Hội có thể nảy sinh và phát triển hết mọi ơn gọi,
hết mọi chọn lựa con người đối với Chúa Kitô, cho dẫu là người thấp kém nhất.
Chính vì điều đó mà Đức Giám Mục –
cũng như Chúa Kitô – kêu mời, tập họp và dạy dỗ chung quanh bàn tiệc Mình Máu
Thánh Chúa. Đồng thời, ngài hướng dẫn và phục vụ. Ngài cũng phải trung thành
với Giáo Hội, nghĩa là với mỗi một thành viên trong Giáo Hội, cho tới người nhỏ
bé nhất mà Chúa Kitô đã kêu gọi và tự đồng hóa (Xem Mt 25, 45). Như là dấu ấn của sự trung thành đó, đức giám
mục nhận lãnh chiếc nhẫn đeo tay.
9.- Nhẫn đeo và áo
choàng
Chiếc nhẫn đeo vào ngón tay giám
mục có nghĩa là ngài đã làm lễ cưới với Giáo Hội.
“Hãy nhận lấy chiến nhẫn nầy,
biểu tượng của lòng trung tín: hãy gìn giữ, trong sự thuần khiết của đức tin,
hiền thê của Chúa là Giáo Hội thánh.
Hãy trung thành cho đến chết…”
Đó là lời khuyên bảo trong sách
Khải Huyền: “Hãy trung thành cho đến
chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống.” (Kh 2, 10). Chiếc nhẫn đó, biểu tượng
hôn nhân, là một biểu hiệu đặc biệt sự liên kết của giám mục với Giáo Hội. Đối
với tôi, chiếc nhẫn biểu thị lời mời gọi hằng ngày đối với sự thành tín.
Đó là một sự tự vấn thầm lặng vang
động trong lương tâm: tôi có tự hiến trọn vẹn cho hiền thê của tôi là Giáo Hội
không? Tôi có “phục vụ” đầy đủ những cộng đoàn, những gia đình, giới trẻ và
người già cả, cũng như những thai nhi chưa sinh ra không?
Chiếc nhẫn cũng nhắc nhở tôi sự
cần thiết phải trở nên một mắt xích dũng mãnh trong dây xích thừa kế nối kết
với các tông đồ. Quả thật sự bền chặt của một dây xích được đo lường bởi mắt
xích yếu kém nhất. Tôi phải trở nên một mắt xích bền chắc do sức mạnh của Chúa:
“Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở
che tôi.” (Tv 28
[27], 7). “Lạy Chúa, dẫu qua lũng âm
u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ
an tâm.” (Tv 23
[22], 4).
Các Đức Giám Mục của Cracovie có
được đặc ân, theo chỗ tôi biết, chỉ dành riêng cho bốn giáo phận trên thế giới
mà thôi. Các ngài được quyền mang áo choàng gọi là “rationnal”. Về hình
thức bên ngoài, đó là một biểu tượng nhắc nhở tới dây “pallium”.
Ở Cracovie, trong kho tàng của đền
thờ Wawel, có chiếc áo choàng “rationnal” là tặng phẩm của nữ hoàng Hedwige.
Chính chiếc áo đó không mang một biểu hiệu gì. Chiếc áo đó chỉ có ý nghĩa khi
Đức Tổng Giám Mục mang vào mà thôi. Lúc bấy giờ chiếc áo biểu tượng cho quyền
uy và sự phục vụ của ngài. Nói đúng hơn, vì ngài có quyền uy nên ngài phải phục
vụ.
Theo một ý nghĩa nào đó, người ta
có thể thấy ở đó biểu tượng của sự thương khó Chúa Kitô và tất cả các Thánh Tử
Đạo. Khi mang chiếc áo đó vào, hơn một lần đã đến trong trí óc tôi những lời
sau đây mà Thánh Phao-lô lúc bấy giờ đã già nua, ngỏ với giám mục Timothée đang
còn xuân xanh: “Anh đùng hổ thẹn vì
phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa;
nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để
loan báo Tin Mừng.” (2Tm
1, 8).
10.- “Hãy bảo toàn giáo
lý đã được giao phó” (1Tm 6, 20)
Sau lời nguyện tấn phong, nghi lễ
dự kiến việc đặt quyển Thánh Kinh lên đầu vị giám mục được tấn phong. Cử chỉ đó
có ý nghĩa là vị giám mục phải đón nhận và loan báo Tin Mừng: đó là biểu hiệu
sự hiện diện của Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh, trong Giáo Hội. Do đó sự giáo huấn
thuộc phần nòng cốt của ơn gọi giám mục: ngài phải là một bậc thầy.
Chúng ta biết có bao nhiêu giám
mục lỗi lạc, từ thời Thượng Cổ cho tới ngày nay, đã đáp lại tiếng gọi đó một
cách gương mẫu. Họ đã biết dùng cho có lợi ích lời cảnh cáo thận trọng của
thánh tông đồ Phao-lô, khi tự cảm thấy bản thân mình cũng bị liên hệ: “Anh Timothée, hãy bảo toàn giáo lý đã
được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí, trống rỗng và những vấn đề
của trí thức giả hiệu.” (1Tm
6, 20).
Những giám mục là những bậc thầy
có phẩm chất bởi vì các ngài đã tập trung cuộc sống thiêng liêng của mình vào
việc lắng nghe và rao giảng Lời Chúa. Nói cách khác, các ngài đã biết từ bỏ
những hư từ để đem hết tất cả nghị lực dùng vào “chỉ một chuyện cần thiết mà thôi” (Lc 10, 42).
Quả thật nhiệm vụ của vị giám mục
là làm cho mình trở nên người phục vụ Lời Chúa. Rõ ràng với tư cách là bậc
thầy, ngài chủ tọa trên ngai tòa giám mục – tức trên ngai được đặt để một cách
biểu tượng trong thánh đường được gọi một cách rất đúng là “nhà thờ chính tòa”
– để giảng dạy, loan báo và cắt nghĩa Lời Chúa.
Thời đại chúng ta có những đòi hỏi
mới đối với các vị giám mục trong tư cách là những thầy dạy, nhưng cũng cống
hiến những phương tiện mới thật tuyệt vời để giúp đỡ các ngài loan báo Tin
Mừng.
Sự xê dịch dễ dàng đã cho phép các
ngài thăm viếng thường xuyên những nhà thờ khác nhau và những cộng đoàn trong
giáo phận các ngài. Các giám mục được sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền
hình, mạng lưới điện toán, báo chí.
Để rao giảng Lời Chúa, các giám
mục được giúp đỡ bởi các linh mục và phó tế, bởi các giáo lý viên và giáo viên,
bởi các giáo sư thần học cũng như bởi một số luôn quan trọng hơn thuộc thành
phần giáo dân học thức và trung thành với Phúc Âm.
Tuy nhiên không gì có thể thay thế
sự hiện diện của đức giám mục an tọa trên ngai tòa hay hiện diện trên tòa giảng
trong nhà thờ chính tòa và ngài đích thân dẫn giải Lời Chúa cho những ai được
tập họp chung quanh ngài. Ngài cũng như vị “kinh sư trở thành môn đồ Nước Trời thì giống như chủ nhà kia lấy ra
từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13, 52).
Tôi lấy làm sung sướng để nhắc nhở
ở đây Đức Tổng Giám Mục hồi hưu
Tôi luôn xác tín rằng, nếu tôi
muốn làm cho no thỏa sự khát khao nội tâm đó ở nơi người khác, trước tiên tôi
phải theo gương Mẹ Maria để chính tôi nghe Lời đó của Chúa và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19).
Cùng một trật, càng lâu tôi càng
hiểu thêm rằng giám mục cũng phải biết lắng nghe những người mà ngài loan báo
Tin Mừng. Đối diện với trận đại hồng thủy hiện nay do bởi những ngôn từ, hình
ành và âm thanh, rất quan trọng đối với giám mục là đừng để mình bị choáng
váng. Ngài phải lắng nghe tiếng Chúa và nghe những đối thoại viên của mình,
trong niềm xác tín rằng tất cả chúng ta liên kết trong chính huyền nhiệm Lời
Chúa đối với phần rỗi.
11.- Mũ gậy giám mục
Ơn gọi trở thành giám mục hẵn
nhiên mang lại một vinh dự. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là ứng viên được
lựa chọn giữa nhiều người khác là một cá nhân lỗi lạc và một Kitô hữu lỗi lạc.
Vinh dự qui hướng về ngài do bởi sứ vụ của ngài được đặt để ở trung tâm Giáo
Hội, để trở thành người đứng đầu trong đức tin, đứng đầu trong đức ái, đứng đầu
trong sự trung tín và đứng đầu trong việc phục vụ.
Nếu ai chỉ tìm kiếm trong chức vụ
giám mục vinh dự cho mình, người đó sẽ không hoàn tất tốt đẹp sứ vụ giám mục.
Sự biện minh đầu tiên cho vinh dự đối với giám mục và là sự biện minh quan
trọng nhất, hệ tại bởi trách nhiệm gắn bó với sứ vụ của ngài.
“Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được” (Mt 5, 14). Giám mục luôn luôn ở trên
núi, ở trên cột đèn, mọi người đều trông thấy. Ngài phải ý thức rằng tất cả
những gì xảy đến trong cuộc đời của ngài đều có một tầm mức quan trọng dưới con
mắt cộng đoàn: “Ai nấy trong hội
đường đều chăm chú nhìn Ngài” (Lc 4, 20).
Cũng như một người cha gia đình
đào luyện con cái theo đức tin trước tiên phải nêu gương tốt của đời sống đạo
đức và kinh nguyện của mình, cũng vậy giám mục cảm hóa tín hữu với tất cả phong
cách của mình. Vì vậy tác giả Thư thứ nhất của Thánh Phêrô đã khẩn khoản van
xin các giám mục “hãy nêu gương sáng
cho đoàn chiên” (1Pr 5,
3).
Trong viễn tượng đó, trong phụng
vụ truyền chức, biểu tượng trao mũ giám mục đã nói lên một cách hùng hồn đặc
biệt. Đức tân giám mục nhận lãnh chiếc mũ như một sự cảnh báo ngài phải đội lên
đầu để “rực sáng nơi ngài ánh sáng
chói lọi của sự thánh thiện” hầu ngài được xứng đáng nhận lãnh triều thiên
vinh quang không héo tàn khi Chúa Kitô là “hoàng
tử của các mục tử” sẽ xuất hiện. (Xem Sách Lễ Phong Chức Roma).
Giám mục được kêu gọi đặc biệt trở
nên thánh thiện trên cương vị cá nhân để góp phần vào việc tăng trưởng sự thánh
thiện của cộng đoàn giáo sĩ mà ngài được phó thác. Chính ngài chịu trách nhiệm
việc thực thi ơn gọi phổ cập để trở nên thánh thiện như đã đề cập nơi chương V
Hiến Chế Công Đồng “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”).
Như tôi đã viết trong dịp Đại Năm
Thánh 2000: trong ơn gọi đó, người ta tìm thấy sự “linh động nội tại và đặc
trưng” của môn Giáo Hội học (Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến, số 30).
Dân Chúa “được kết hợp với sự duy nhất của Cha, Con và Thánh Thần” là một dân
thuộc về Đấng “Thánh! Thánh! Thánh!”
(Is 6, 3). Như tôi đã viết: “Khi nói Giáo Hội là thánh có nghĩa là trình
bày bộ mặt Giáo Hội là hiền thê Chúa
Kitô mà Ngài đã trao nộp mình để thánh hóa” (Xem Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, số 30).
Tặng vật thánh thiện đó trở nên
một nghĩa vụ. Phải luôn luôn nhận chân rằng tất cả đời sống Kitô hữu phải được
qui hướng về nghĩa vụ đó: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh.” (1Tx 4, 3).
Vào đầu năm 1970, tôi đã viết, khi
qui chiếu vào Hiến Chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân): Lịch sử
cứu độ là lịch sử của toàn dân Chúa; lịch sử đó cũng trải qua bởi đời sống các
cá nhân, lại được cụ thể hóa ở nơi mỗi cá nhân. Ý nghĩa căn bản của sự thánh
thiện hệ tại điểm nầy: sự thánh thiện
luôn luôn là sự thánh thiện cá nhân.
Điều đó được xác nhận bởi lời mời
gọi “tổng quát” trở nên thánh thiện. Hết mọi thành phần dân Chúa đều được mời
gọi nên thánh, nhưng mỗi người một cách duy nhất, không thể trùng hợp. (U podstaw odnowy. Studium o realizacji
Vaticanum II, Cracovie 1972, tr. 165).
Nói tóm lại, sự thánh thiện của
mỗi một người đóng góp vào sự tăng trưởng của khuôn mặt Giáo Hội, hiền thê của
Chúa Kitô, bằng cách làm cho sứ điệp của Ngài được thế giới hiện đại chấp nhận
dễ dàng.
Trong nghi lễ truyền chức giám
mục, việc tiếp theo là trao gậy chủ chăn. Đó là biểu hiệu quyền uy qui về vị
giám mục trong việc thực thi nghĩa vụ của ngài chăn dắt đoàn chiên. Biểu tượng
đó cũng đi vào viễn tượng kêu mời cộng đồng dân Chúa nên thánh.
Bởi vậy mục tử phải trông coi và
che chở mỗi một con chiên cùng dẫn đưa họ đến những đồng cỏ xanh tươi (Tv 23 [22], 2) – trên những đồng cỏ
đó các con chiên sẽ khám phá sự thánh thiện không phải là “một cuộc sống ngoại lệ mà chỉ vài bậc ‘thiên tài’ về sự thánh thiện có
thể thực hành mà thôi. Những nẻo đường đưa tới sự thánh thiện thì rất nhiều và
thích ứng cho mỗi cá nhân.” (Xem “Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến”, số 31).
Tuyệt đẹp biết bao tiềm năng ân
sủng ẩn tàng trong đoàn dân đông đảo của những người được thanh tẩy! Tôi không
ngừng cầu xin để Thánh Thần Chúa thắp sáng lên ngọn lửa của Ngài ở trong con
tim chúng ta là những giám mục để rồi chúng ta trở nên những bậc thầy về sự
thánh thiện, ngõ hầu có thể đào luyện tín hữu bởi gương sáng chúng ta.
Lời giả biệt đầy xúc động của
Thánh Phao-lồ đối với những kỳ mục Giáo Hội Ê-phê-xô trở về trong ký ức của
tôi: “Anh em hãy ân cần lo cho chính
mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy
chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính
mình.” (Cv 22,
28).
Mệnh lệnh của Chúa Kitô ám ảnh mỗi
một mục tử: “Vậy anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28, 19). Hãy đi và đừng bao giờ ngừng nghỉ! Chúng ta đã biết
sự mong đợi của Thầy Chí Thánh: “Thầy
đã cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn
tại.” (Gio 15,
16).
Cây gậy giám mục có hình thánh giá
mà hiện tại tôi đang cầm trong tay được mô phỏng theo cây gậy của Đức Thánh Cha
Phaolô VI. Tôi thấy rõ ràng cây gậy đó tượng trưng ba chức vụ: sự ân cần, sự
hướng dẫn và trách nhiệm.
Cây gậy giám mục không phải là một
biểu tượng quyền uy theo nghĩa thông thường của từ ngữ đó. Đó không phải là một
biểu tượng ngôi thứ hay ưu thế trên những người khác: đó là một biểu tượng phục vụ. Như thế, đó chính là
biểu tượng của sự ân cần đối với đoàn chiên: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Gio 10, 10).
Giám mục phải điều khiển và hướng
dẫn. Ngài sẽ được tín hữu nghe theo và yêu mến trong chừng mực mà ngài bắt
chước Chúa Giêsu là vị Mục Tử Nhân Hậu, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến
dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20, 28). “Phục vụ!”
– tôi yêu thích từ ngữ đó biết bao! Tư tế
“mục vụ”, từ ngữ tuyệt vời…
Có khi người ta nghe ai đó cất
tiếng bênh vực quyền bính giám mục được hiểu như ngôi thứ. Người ta nói: chính
những con chiên phải đi theo sau mục tử và không phải mục tử đi sau đoàn chiên.
Có thể người ta đồng ý như thế, nhưng trong ý nghĩa đó, chính mục tử phải đi
dẫn đầu để “hy sinh mạng sống vì
những con chiên”; chính ngài phải là người đầu tiên tự hiến và
tự trao ban chính mình.
“Ngài đã sống lại, Vị Mực Tử Nhân Hậu, đã hy sinh mạng sống mình vì các
con chiên. Ngài đã phó nộp mình chịu chết vì yêu thương những kẻ thuộc về mình.”
(Xem “Phụng Vụ Các Giờ Kinh”,
phần đối đáp II, Chúa nhật IV mùa Phục Sinh).
Giám mục đứng đầu về ngôi thứ
trong tình yêu quảng đại đối với tín hữu và đối với Giáo Hội, theo gương Thánh
Phao-lô: “Tôi vui mầng được chịu đau
khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang
lấy vào thân cho đủ sức, vì lợi ích cho thân thể người là Hội Thánh.”
(
Chắc chắn quở trách cũng là một
phần trong vai trò mục tử. Về phương diện đó, tôi thiết tưởng có lẽ tôi đã hành
xử hơi ít. Tương quan giữa quyền bính và phục vụ luôn luôn trở thành vấn nạn.
Có lẽ tôi phải tự trách tôi là đã không tìm cách điều khiển đầy đủ.
Trong một chừng mực nào đó, điều
nầy phát xuất bởi tính khí của tôi. Nhưng một cách nào đó, điều nầy cũng có thể
phát xuất từ ý muốn của Chúa Kitô đã xin các tông đồ đừng quá điều khiển hơn là
phục vụ.
Theo bản chất tự nhiên, quyền uy
thuộc về giám mục, nhưng tất cả tùy thuộc vào cách thức mà quyền uy đó được thi
hành. Nếu đức giám mục dựa vào quyền uy hơi quá đáng, lập tức dân chúng tưởng
rằng ngài không biết điều khiển.
Trái lại, nếu ngài tự đặt mình
trong một tư thế phục vụ, tự nhiên các tín hữu cảm thấy được thúc đẩy đề nghe
ngài và tự ý tuân phục quyền bính của ngài.
Nếu đức giám mục nói: “Ở đây chỉ
mình tôi cai quản”, hay: “Chỉ mình tôi phục vụ ở đây”, có thiếu sót một điều
gì! Đó là ngài phải phục vụ trong khi cai
quản và cai quản trong khi phục vu.
Về điều đó, chính Chúa Kitô đã nêu
cho chúng ta một mẫu mực hùng hồn: Ngài đã phục vụ không ngừng, nhưng trong
tinh thần phục vụ của Con Thiên Chúa, Ngài cũng biết đuổi những người buôn bán
ra khỏi đền thờ khi cần thiết.
Cho dù tôi cảm thấy những đối
kháng bên trong đáng chê trách, tuy nhiên tôi thiết nghĩ tôi đã lấy những quyết
định cần thiết. Với tư cách là tổng giám mục Cracovie, tôi đã làm hết sức để đi
tới những quyết định đó theo cung cách giám mục đoàn, nghĩa là bằng cách tham
khảo những giám mục phụ tá và những cộng sự viên của tôi.
Mỗi tuần, chúng tôi có nhũng buổi
họp ban điều hành giáo phận, trong đó được bàn thảo hết mọi vấn đề trong tầm
nhìn mang lại điều lợi ích tốt đẹp nhất cho tổng giáo phận. Câu hỏi đầu tiên: “Chân
lý nào thuộc về đức tin chiếu giải trên vấn đề đó?” Và câu hỏi thứ hai: “Ai
là người mà chúng ta tham khảo hay để giúp đỡ chúng ta?”
Tìm ra động cơ tôn giáo để hành
động và nhân vật đủ khả năng để chu toàn một phần vụ rõ rệt, tạo thành điều
kiện tiên quyết tốt đẹp đem lại hy vọng rất nhiều cho sự thành công đối với
những sáng kiến mục vụ.
Với việc trao ban cây gậy giám
mục, nghi lễ tấn phong chấm dứt. Tiếp theo là Thánh lễ mà đức tân giám mục hiến
dâng cùng với những giám mục đồng tấn phong. Tất cả những điều đó mang đầy đủ ý
nghĩa, suy tư và ý thức cá nhân cho đến nỗi không thể diễn tả trọn vẹn hay cả
việc thêm vào đó một điều gì nữa.
12.- Hành hương đền kính Đức Mẹ
Sau khi Thánh Lễ chấm dứt, tôi đi
từ Wawel đến thăm đại chủng viện, ở đó có cuộc tiếp tân. Tuy nhiên, chính chiều
hôm đó, tôi đi đến Czestochowa với nhóm bạn hữu thân tình và ở đó tôi đã
dâng Thánh Lễ sáng hôm sau trong nguyện đường có tượng Đức Mẹ làm phép lạ.
Đối với dân Ba-lan,
Mọi người đều biết nguồn gốc ánh
sáng hy vọng đó là sự hiện diện của Mẹ Maria trong bức tượng kỳ diệu. Thật đúng
như thế, có lẽ lần đầu tiên, trong khi quân đội Thụy Điển chiếm đóng mà trong
lịch sử gọi là “cơn hồng thủy”. Trong trường hợp đó – việc thật có ý nghĩa –
đền thờ được dựng nên như một pháo đài mà quân xâm lăng không tài nào chinh
phục được. Bấy giờ quốc gia giải mã biến cố đó như là một lời hứa hẹn chiến
thắng. Sự tin tưởng nơi bàn tay che chở của Đức Mẹ đã mang lại cho dân chúng
Ba-lan sức mạnh để chiến thắng kẻ xâm lăng.
Kể từ đó, đền thờ Jasna Góra, theo
một ý nghĩa nào đó, đã trở thành chiến lũy của đức tin, của tinh thần, của văn
hóa và tất cả những gì tạo nên căn tính quốc gia Ba-lan. Và cũng đã xảy ra như
thế, bằng một cách đặc biệt, trong thời gian lâu dài của những cuộc phân tranh
và mất chủ quyền quốc gia.
Chính đó là điều mà Đức Thánh Cha
Piô XII đã nhắc tới khi ngài quả quyết trong thời Đệ Nhị Thế Chiến: “Quốc gia Ba-lan đã không biến mất và sẽ
không bao giờ biến mất bởi vì Ba-lan tin tưởng, cầu nguyện và có đền thờ Jasna
Góra.” Nhờ Ơn Chúa, những lời nói đó đã được kiểm chứng.
Tuy nhiên về sau, một thời kỳ mới
đen tối trong lịch sử chúng tôi, đó là thời kỳ Cộng Sản chiếm đóng. Nhà cầm
quyền của đảng Cộng Sản ý thức điều mà đền thờ Jasna Góra đã có ý nghĩa như thế
nào đối với dân chúng Ba-lan. Đó là thánh tượng kỳ diệu và lòng sùng kính vô bờ
bến đối với thánh tượng Đức Mẹ đó ngay từ đầu.
Chính vì vậy, khi do sáng kiến của
hội đồng giám mục và đặc biệt là của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, cuộc hành
hương của “Đức Me Đen”, khởi hành từ Czestochowa, đã thăm viếng hết mọi
giáo xứ và mọi cộng đoàn trên đất nước Ba-lan, chính quyền Cộng Sản đã làm hết
sức ngăn cản cuộc “thăm viếng” đó.
Khi thánh tượng bị cảnh sát “ngăn”
lại, đoàn hành hương vẫn tiếp tục với khung tượng trống trơn và sứ điệp đó càng
trở nên hùng hồn hơn. Trong khung tượng không có tượng, người ta có thể đọc
được dấu hiệu câm nín về sự thiếu tự do tôn giáo. Dân chúng biết rằng họ có
quyền tự do tôn giáo đó và họ càng cầu nguyện hơn nữa để đuợc tự do đó. Cuộc hành hương đã kéo dài gần hai mươi lăm
năm và làm nảy sinh nơi dân chúng Ba-lan một sự vững mạnh lạ thường trong
đưc tin, đức cậy và đức mến.
Tất cả những người dân Ba-lan có
lòng tin đều đi hành hương
Trong thời gian quân Đức Quốc Xã
chiếm đóng, tôi làm cuộc hành hương đó khi tôi đang còn là sinh viên đại học về
ngành văn chương Ba-lan tại phân khoa triết học thuộc đại học Jagellon. Tôi nhớ
lại một cách đặc biệt bởi vì, để duy trì truyền thống đó, chúng tôi đã đi đến Czestochowa
như là những đại biểu, gồm có Tadeuz Ulewicz, tôi và một người thứ ba nữa.
Đền thờ Jasna Góra bị quân đội
Hitler bao vây. Các linh mục ẩn tu
Hằng năm ở Jasna Góra có cuộc tĩnh
tâm của các giám mục, thông thường bắt đầu tháng chín. Tôi đã tham dự lần đầu
khi tôi chỉ mới được bổ nhiệm làm giám mục. Đức Cha Baziak đã dẫn tôi đi. Tôi
nhớ lần đó vị thuyết giảng là cha Jan Zieja, một linh mục có nhân cách
lỗi lạc. Dĩ nhiên chỗ thứ nhất dành cho Đức Giáo Chủ là Đức Hồng Y Stefan
Wyszynski, một người quả thật được Chúa Quan Phòng gởi tới trong thời đại chúng
tôi đang sống.
Có lẽ do những cuộc hành hương đó
mà đã nảy sinh điều ao ước trong những bước khởi đầu hành hương khi làm giáo
hoàng đã đưa tôi đến một đền thờ Đức Mẹ. Chính điều ao ước đó, trong cuộc tông
du đầu tiên đến Mễ-tây-cơ, đã dẫn đưa tôi đến dưới chân Đức Mẹ Guadalupe.
Trong tình yêu mến của dân chúng
Mễ-tây-cơ và nói một cách chung, của những người dân Trung Mỹ và Nam Mỹ đối với
Đức Mẹ Guadalupe – một tình yêu mến được thổ lộ một cách hồn nhiên và nhạy cảm,
nhưng rất mãnh liệt và sâu sắc – có nhiều điểm tương đồng với sự sùng kính Đức
Mẹ của dân chúng Ba-lan; điều đó cũng tạo thành linh đạo của tôi.
Họ gọi Đức Mẹ một cách tríu mến là
“la Virgen Morenita”, một danh xưng có thể tạm dịch là: “Đức Mẹ ngăm ngăm đen”. Ở đó có một bài
hát phổ thông rất được nhiều người biết đến khi nhắc tới tình yêu của một con
trai đối với một thiếu nữ. Dân chúng Mễ-tây-cơ áp dụng bài hát đó cho Đức Trinh
Nữ Maria. Tôi luôn luôn nghe văng vẳng những âm điệu du dương đó:
Tôi biết một thiếu nữ xinh xắn
ngăm ngăm đen…
Và tôi yêu mến nhiều.
Chiều tối, say mê và trìu mến, tôi
đã đến thăm nàng.
Ngắm nhìn đôi mắt nàng, tình yêu
tha thiết của tôi gia tăng gấp bội.
Hởi nàng con gái tóc nâu, tôi
không bao giờ quên nàng được.
Tình yêu giữa hai chúng ta lớn lao
biết bao…
Tôi đã thăm viếng đền thờ
Guadalupe vào tháng giêng 1979, nhân chuyến tông du đầu tiên, theo lời mời tham
dự đại hội Hội Đồng Giám Mục Mỹ Châu La-tinh ở
Trước tiên tôi dừng chân ở Saint
Dominique và từ đó tôi tới Mễ-tây-cơ. Thật cảm động không thể tả khi đi đến nơi
mà chúng tôi phải nghỉ đêm, chúng tôi đã đi ngang qua những con đường người đen
như kiến. Cuối cùng khi chúng tôi đến nơi trú ngụ, dân chung vẫn tiếp tục ca
hát và đã quá nửa đêm. Vì vậy cha Stanislaw Dziwisz bắt buộc phải ra ngoài xin
dân chúng im lặng và giải thích cho họ là Đức Giáo Hoàng cần phải ngủ nghỉ. Bấy
giờ họ mới yên lặng.
Tôi nhớ lại tôi đã giải thích cuộc
hành hương ở Mễ-tây-cơ như là một thứ “thông hành” có thể mở đường cho tôi đi
hành hương ở Ba-lan. Thực tế tôi nghĩ rằng chính phủ Cộng Sản Ba-lan không thể
từ chối việc cho phép tôi trở về thăm quê hương tôi sau khi tôi đã được đón
tiếp trong một xứ sở mà Hiến Pháp hoàn toàn thế tục như quốc gia Mễ-tây-cơ lúc
bấy giờ. Tôi muốn đi Ba-lan và điều đó đã được thực hiện vào tháng sáu cùng
năm.
Guadalupe, đền thánh lớn nhất của
toàn thể Mỹ châu cũng như
Chúng tôi còn trở lại Guadalupe.
Vào năm 2002, tôi được dâng Thánh Lễ gần đền thánh đó nhân dịp phong thánh cho
chân phước Juan Diego. Đó là một cơ hội tuyệt diệu để cảm tạ ơn Chúa.
Sau khi nhận lãnh sứ điệp Kitô giáo, Juan Diego, không chối từ căn tính bản xứ
của mình, đã khám phá ra chân lý thâm sâu đối với nhân loại mới, trong đó hết
thảy mọi người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô. “Lạy Cha…con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc
khải cho những người bé mọn.” (Mt
11, 25). Và trong huyền nhiệm đó, Mẹ Maria đã đóng một vai trò thật đặc biệt.
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG GIÁM MỤC
“
1.- Những phần vụ giám mục
Trở về Cracovie sau chuyến hành hương đầu tiên của tôi như
là giám mục ở Jasna Góra, tôi bắt đầu định cư ở tòa giám mục. Lập tức tôi được
bổ nhiệm làm phó giám mục. Tôi có thể nói một cách rất chân tình là tôi đã kết
thân với tất cả những nhân viên của tòa giám mục Cracovie. Đó là cha Stefan
Marszowski, cha Mieczyslaw Satora, cha Mikotaj Kuczkowski,
Đức Ông Bobdan Niemczewski.
Chính Đức Ông, trong tư cách niên trưởng, là người về sau
nầy đã ủng hộ cách mạnh mẽ việc bổ nhiệm tôi làm tổng giám mục, cho dù gặp trở
ngại về truyền thống quý tộc. Thật thế, ở Cracovie, các đức tổng giám mục thông
thường được chọn lựa giữa những người quý tộc. Thật là một điều ngạc nhiên, sau
khi nhiều vị quý tộc được lựa chọn, chính tôi là một ‘người vô sản’ lại được bổ
nhiệm. Nhưng điều đó đã xảy đến về sau nầy, vào năm 1964. Tôi sẽ trở lại vấn đề
đó.
Tôi cảm thấy thoải mái ở tòa giám mục và tôi hồi tưởng
những năm đã qua ở Cracovie với một mối cảm tình và một sự biết ơn lớn lao. Các
linh mục bắt đầu tìm đến tôi, thổ lộ những vấn đề khác nhau. Tôi đã bắt đầu làm
việc một cách hăng say. Vào mùa thu là khởi đầu những cuộc thăm viếng mục
vụ.
Tôi dần dần đi vào vai trò mới của tôi trong giới giáo sĩ.
Với ơn gọi giám mục và lễ tấn phong, tôi đã chấp nhận những công việc mới. Điều
đó được diễn tả như là một sự tổng hợp thiết yếu trong nghi lễ tấn phong giám
mục.
Như đã nói trên kia, vào thời điểm tôi được tấn phong giám
mục năm 1958, lễ nghi tấn phong đã có nhiều sự thay đổi, mặc dù nội dung vẫn
giữ nguyên như cũ. Tập tục cũ được thiết lập bởi các Giáo Phụ bắt buộc phải hỏi
vị giám mục tương lai, trước sự hiện diện của dân chúng, là ngài có cam kết duy
trì sự nguyên vẹn của đức tin và chu toàn mục vụ được giao phó không. Hiện nay
những câu hỏi được đặt ra như sau:
Thưa Anh Em thân mến,
Anh Em có chấp nhận trọng
trách mà các tông đồ đã ủy thác và chúng tôi sẽ trao ban cho Anh Em qua việc
đặt tay không?
Anh Em có muốn loan truyền
Phúc Âm của Chúa Kitô một cách trung tín và không ngừng nghỉ không?
Anh Em có muốn giữ gìn một
cách tinh tuyền và nguyên vẹn di sản đức tin theo như truyền thống luôn luôn
nhận được từ các thánh tông đồ và giữ gìn khắp nơi trong Giáo Hội không?
Anh Em có muốn hoạt động để
kiến tạo chi thể Chúa Kitô là Giáo Hội, và sống trong sự hiệp nhất với Giáo Hội
và với toàn thể các giám mục dưới quyền bính của người kế vị Thánh Phê-rô
không?
Anh Em có muốn, cùng với
các linh mục và phó tế, chăm sóc dân thánh Chúa như một người cha, và hướng dẫn
họ trên hành trình cứu rỗi không?
Anh Em có muốn, với một con
tim nhân hậu và từ bi, nhân danh Chúa Kitô, đón tiếp những người nghèo khó,
những người xa lạ và những ai túng thiếu không?
Anh Em có muốn, trong vai
trò mục tử nhân hậu, ra đi tìm kiếm những con chiên lạc để tập họp lại trong
đàn chiên của Chúa không?
Anh Em có muốn cầu nguyện
Chúa không ngừng cho dân thánh Chúa và chu toàn công việc của mục tử và đại tư
tế một cách không bị chê trách không?
(Sách Lễ Roma, Tấn Phong
Giám Mục).
Những lời vừa được trích
dẫn chắc chắn ghi sâu vào tâm khảm hết mọi giám mục. Trong những lời đó vang
vọng những câu hỏi mà Chúa Giêsu đã hỏi Thánh Phê-rô bên bờ hồ Galilée: “Này
anh Si-mon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?...Chúa
Giêsu nói với ông: Hãy chăm sóc chiên con của Thầy. Ngài lại hỏi: Này anh
Si-mon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?...Ngài nói: Hãy chăn dắt chiên
con của Thầy. Ngài hỏi lần thứ ba: Nầy anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu
mến Thầy không? Ông Phê-rô buồn vì Ngài hỏi tới ba lần: Anh có yêu mến Thầy
không? Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.
Chúa Giêsu bảo: Hãy chăm sóc chiên của Thầy.” (Gio 21, 15-17).
Không phải chiên của anh,
chiên của các anh, mà là chiên của Thầy! Quả thật chính Ngài đã tạo dựng con
người. Chính Ngài đã chuộc lại con ngươì. Chính Ngài đã chuộc lại tất cả chúng
ta, cho đến người rốt hết, bằng giá máu của Ngài!
2.- Mục tử
Truyền thống Kitô giáo đã
thu thập ba hình ảnh Phúc Âm về người mục tử: đó là hình ảnh người mang con
chiên lạc trên vai, người dẫn dắt đoàn chiên trên những đồng cỏ xanh tươi, người
cầm gậy trong tay tập họp đàn chiên và bảo vệ chúng khỏi mọi hiểm nguy.
Trong ba hình ảnh đó, cũng
một sứ điệp được nhắc lại: “Ngưởi chăn chiên vì đàn chiên và không phải đàn
chiên vì người chăn chiên.” Người chăn chiên đã liên kết với bầy chiên cho đến
nỗi, nếu người đó là một mục tử chân chính thì sẵn sàng “hy sinh mạng sống
cho đàn chiên.” (Gio 10, 11). Hằng năm trong những tuần lễ thường
niên thứ XXIV Và XXV, trong Phụng Vụ Các Giờ Kinh, được trình bày một
bài giảng dài về các mục tử của Thánh Augustinô.
Khi nhắc đến Sách tiên tri Ezéchiel, giám mục giáo phận
Hippone đã mạnh mẽ quở trách các mục tử xấu, nghĩa là những mục tử không chăm
sóc đàn chiên mà chăm sóc chính mình mà thôi:
“Hãy xem những gì Lời Chúa đã nói với những mục tử tìm kiếm lương thực
của mình và không phải lương thực của đàn chiên: Các ngươi đã uống sữa của
chúng, các ngươi đã dùng lông của chúng làm áo mặc, các ngươi đã cắt tiết những
con chiên béo tốt, các ngươi không phải là những người chăn dắt đàn chiên của
ta.
Các
ngươi đã không tăng sức lực cho con chiên ốm o gầy còm, không chữa trị con
chiên đau yếu, không săn sóc con chiên bị thương tích. Các ngươi không đem con
chiên lạc trở về chuồng, không tìm kiếm con chiên bị thất lạc. Con chiên nào
mạnh khỏe thì các ngươi bắt nạt. Những con chiên của ta đã tản mát bởi vì không
có người chăn dắt.”
(Phụng Vụ Các Giờ Kinh, tuần
lễ XXIV, ngày thứ hai).
Cho dù thế, Thánh Augustinô
đã kết luận với một sự quả quyết đầy lạc quan: “Những mục tử tốt không thiếu và người ta tìm thấy họ là một…Người ta
tìm thấy tất cả những mục tử tốt là một; họ chỉ làm thành một. Họ chăn nuôi đàn
chiên và chính Chúa Kitô chăn nuôi chúng…chính tiếng nói của Ngài vang lên nơi
họ, chính đức ái của Ngài ở nơi họ.”
(Phụng Vụ Các Giờ Kinh, tuần lễ XXV, thứ sáu).
Về phương diện đó, những
suy tư mà Thánh Grégoire Cả
để lại thật đầy xúc cảm:
“Thế giới đầy dẫy những linh mục, nhưng hiếm khi người ta gặp được một
người thợ trong mùa gặt của Chúa. Chúng ta lãnh nhận tác vụ linh mục một cách
đứng đắn, nhưng chúng ta không chu toàn công việc của tác vụ đó…
Chúng
ta bỏ phế mục vụ rao giảng và theo tôi tưởng, chính để trừng phạt chúng ta mà
người đời gọi chúng ta là giám mục, bởi vì chúng ta mang tước vị đó, nhưng
chúng ta không có phẩm giá. Thật vậy, những ai được giao phó cho chúng ta đều
rời bỏ Thiên Chúa và chúng ta im hơi lặng tiếng.”
(Phụng Vụ Các Giờ Kinh, tuần
lễ XXVII, mùa thường niên, ngày thứ bảy).
Đó là điều mà phụng vụ nhắc
nhở lương tâm chúng ta mỗi năm bằng cách khuyến khích chúng ta theo đúng tinh
thần trách nhiệm đối với Giáo Hội.
3.- “Tôi biết
chiên của tôi” (Gio 10, 14)
Người mục tử nhân hậu biết
chiên của mình và chiên của người đó biết người đó (Xem Gio 10, 14).
Chắc hẳn nhiệm vụ của giám mục là phải thận trọng làm thế nào để rất nhiều
người làm nên Giáo Hội tại địa phương có thể biết ngài một cách trực tiếp. Về
phần ngài, ngài sẽ tìm cách gần gũi họ, để tìm hiểu điều kiện sinh sống của họ,
tìm hiểu điều gì làm cho con tim họ vui lên hay bị rối loạn.
Nền tảng của sự hiểu biết
hỗ tương đó không phải do những cuộc hội ngộ ngẫu nhiên cho bằng sự quan tâm
đích thực những gì xảy đến trong quả tim con người, không kể đến tuổi tác, điều
kiện xã hội hay quốc tịch mỗi người. Đó là một sự quan tâm nối kết những người
gần cũng như kẻ ở xa. (Xem Sắc Lệnh về trách nhiệm giám mục “Christus
Dominus”, số 16).
Khó mà đưa ra một công thức
về một lý thuyết có hệ thống đối với cách thức giao tiếp với người khác được.
Tuy nhiên, đối với tôi, tôi đã được giúp đỡ nhiều bởi “chủ nghĩa nhân cách” mà
tôi đã nghiền ngẫm trong những năm theo đuổi môn triết học. Mỗi người là một cá
nhân duy nhất và do đó không ai có thể lập chương trình trước về một thứ giao
thiệp khả dĩ thích ứng cho hết mọi người. Nói đúng hơn, phải học cách giao
thiệp trong mọi hoàn cảnh khởi đầu từ số không.
Đó là điều được diễn tả một
cách hiệu nghiệm trong bài thơ của Jerzy
Liebert:
“Hởi người, tôi đang chỉ
dạy cho ngươi,
Tôi chỉ dạy ngươi từ từ.
Con tim vừa khổ đau vừa thích thú
Về bài học khó khăn đó.”
(Poezje, Varsovie
1983, tr. 144).
Đối với một giám mục, thật
là quan trọng để có một cuộc tiếp xúc tốt với những người khác và đạt được khả
năng giao tiếp với họ một cách thích ứng. Riêng tôi, rõ ràng tôi không bao giờ
có cảm tưởng là có quá nhiều cuộc gặp gỡ.
Dù sao đi nữa, nỗi ưu tư
thường xuyên của tôi là trong mỗi một trường hợp nên duy trì tính cách cá nhân
của mỗi cuộc giao tiếp. Mỗi cuộc giao tiếp chính là một chương sách. Tôi luôn
luôn hành động theo niềm tin đó. Nhưng tôi chân nhận rằng hấp lực đó không thể
do học hỏi mà có. Đó là điều người ta sở đắc hoàn toàn tự nhiên, bỏi vì điều đó
đến từ bên trong.
Sự quan tâm đến kẻ khác
khởi đầu bằng lời cầu nguyện, trong cuộc trò chuyện với Chúa Kitô là Đấng đã
phó thác “những người thuộc về Ngài”. Lời cầu nguyện đã chuẩn bị giám
mục cho những cuộc gặp gỡ đó. Vừa khi tâm trí mở ra, những cuộc gặp gỡ đó cho
phép họ biết nhau và hiểu nhau, cho dẫu khi người ta không có nhiều thời
giờ.
Đối với tôi, tôi thường cầu
nguyện cho tất cả mọi người, ngày nầy qua ngày khác. Khi tôi gặp một người nào,
tôi đã cầu nguyện cho người đó rồi và điều nầy luôn luôn làm cho sự giao tiếp
trở nên dễ dàng.
Thật khó cho tôi để nói ra
người ta nhận thức điều đó như thế nào. Nên hỏi ngay họ. Tuy nhiên tôi có
nguyên tắc là đón tiếp ai như thể người đó được Chúa gởi tới cho tôi và cũng
một trật Chúa phó thác họ cho tôi.
Tôi không thích từ ngữ
“quần chúng” vì mang tính cách vô danh. Tôi thích từ ngữ “số đông” hơn. (Xem Mc
3, 7; Lc 6, 17; Cv 2, 6; 14, 1…). Chúa Kitô đi trên những con
đường xứ Palestine và thường khi rất “đông” người đi theo Ngài. Đối với các
tông đồ cũng thế.
Đương nhiên trách nhiệm mà
tôi thi hành khiến tôi gặp gỡ nhiều người, đôi khi là những số đông thực sự.
Chẳng hạn ở Manille đã có từng triệu người trẻ. Nhưng trong trường hợp đó, một
cách chính đáng không nên nói đó là khối quần chúng vô danh. Đó là một cộng
đồng được thúc đẩy bởi một lý tưởng chung. Vì vậy thật dễ dàng để tạo lập một
sự giao tiếp. Và đó là điều xảy ra gần như mọi nơi.
Ở Manille, tôi có trước mắt
toàn thể lục địa Á châu. Có biết bao Kitô hữu và biết bao triệu triệu người
trên lục địa đó còn chưa biết Chúa Kitô! Tôi đặt hy vọng rất nhiều nơi Giáo Hội
sống động ở Phi-luật-tân và Đại-hàn. Á châu: đó là trách nhiệm chung của tất cả
chúng ta ở đệ tam thiên niên kỷ nầy!
4.- Sự ban hành
các bí tích
Các bí tích làm thành kho
tàng lớn lao nhất, sự phong phú dồi dào nhất đối với giám mục. Các linh mục do
ngài tấn phong đã giúp đỡ ngài trong việc ban hành các bí tích. Kho tàng đó đã
được Chúa Kitô trao lại cho các tông đồ và những người kế vị các ngài bằng
chính “di chúc” của Ngài.
Nên hiểu từ ngữ “di
chúc” theo nghĩa thần học sâu sắc nhất cũng như sự chấp nhận thuần túy
nhân bản. Chúa Kitô “biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về
với Chúa Cha” (Gio 13, 1), “bằng
của ăn cho mười hai tông đồ, Ngài tự trao mình do chính đôi tay của Ngài”
(xem Thánh ca Pange lingua), đã khuyên bảo họ làm lại lễ nghi bữa tiệc
ly “để nhớ đến Ngài”: bẻ bánh và trao
tặng chén rượu, dấu ấn nhiệm tích của xác thân Ngài “bị nộp” và của máu Ngài
“bị đổ ra”.
Kế tiếp, sau khi Ngài chết
và phục sinh, Ngài đã trao phó cho họ thừa tác vụ tha tội và sự ban hành các bí
tích khác nữa, khởi đầu là bí tích thánh tẩy. Các tông đồ đã chuyển giao kho
tàng đó lại cho các người kế vị.
Ngoài việc rao giảng Lời
Chúa, việc ban hành các bí tích là nhiệm vụ đầu tiên của các giám mục mà từ đó
các trách vụ khác đều phụ thuộc vào. Trong cuộc sống cũng như trong hành động
của giám mục, tất cả phải nhắm tới mục đích đó.
Như đã biết, để đạt được
điều đó, chúng ta cần sự giúp đỡ: “Lạy Chúa,
ngày hôm nay đây, xin đến giúp đỡ cho sự yếu đuối của con và ban cho chúng con
những cộng sự viên mà chúng con cần đến để thi hành chức tư tế tông đồ”
(Sách Lễ Roma, Phong chức linh mục).
Đó là lý do chúng ta chọn
lựa cùng chuẩn bị những ứng viên xứng hợp và chúng ta phong chức cho họ làm phó
tế cùng linh mục. Cùng với chúng ta, họ có bổn phận rao giảng Lời Chúa và cử
hành bí tích.
Đó là triển vọng phải soi
sáng và sắp đặt những công việc hằng ngày, những cam kết choán đầy sổ nhật ký
chúng ta. Rõ ràng không chỉ cử hành Thánh Thể hay ban phép thêm sức trong khi
chúng ta ở trung tâm điểm cộng đoàn giáo sĩ, mà còn cử hành bí tích thánh tẩy
cho trẻ con và nhất là người lớn, được chuẩn bị bởi cộng đoàn Giáo Hội địa
phương để trở nên môn đệ Chúa Kitô.
Cũng không nên đánh giá
thấp việc giải tội cá nhân hay thăm viếng cùng xức dầu bệnh nhân, một nhiệm
tích đã được thiết lập đặc biệt cho họ. Giữa những trách vụ giám mục, còn phải
làm nổi bật sự ân cần mời gọi nên thánh trong bậc hôn nhân. Điều đó được thể hiện
qua trung gian các cha xứ đã đành, nhưng trên phương diện cá nhân, giám mục
cũng phải chủ tọa, khi có thể được, các lễ cưới và chúc lành cho
họ.
Dĩ nhiên, với tư cách cộng
sự viên của giám mục, các linh mục đảm nhận phần lớn những sứ vụ đó. Tuy nhiên,
sự cam kết có tính cách cá nhân của vị mục tử giáo phận trong việc cử hành các
bí tích sẽ nêu gương tốt cho cộng đoàn dân Chúa mà ngài được phó thác, đối với
giáo dân cũng như linh mục. Đối với tất cả mọi người, đó là biểu hiệu rõ rệt
nhất của sự liên kết giữa ngài với Chúa Kitô đang hiện diện và tác động qua tất
cả những nghi lễ nhiệm tích.
Chính Chúa Kitô muốn chúng
ta trở nên những khí cụ của công trình cứu chuộc mà Ngài thực hiện qua các bí
tích của Giáo Hội. Rõ ràng trong những dấu ấn hữu hiệu của ân sủng, với đôi mắt
của tâm hồn, người ta nhìn ra bộ mặt của Chúa Kitô, Chúa Cứu Thế từ bi và Mục
Tử Nhân Hậu. Một giám mục khi đích thân cử hành các nhiệm tích hiển nhiên xuất
hiện trước mọi người như là biểu tượng của Chúa Kitô luôn sống động và hoạt
động trong Giáo Hội Ngài.
5.- Những cuộc
thăm viếng mục vụ
Như tôi đã nhắc lại trên
đây, tôi đến tòa giám mục thường xuyên để làm việc, nhưng một cách đặc biệt,
tôi ưa thính những cuộc thăm viếng mục vụ hơn. Điều đó làm cho tôi hài lòng
nhiều lắm bởi vì khiến tôi có thể giao tiếp thẳng với các cá nhân. Lúc đó tôi
có cảm tưởng một cách mạnh mẽ hơn là tôi đã “đào luyện” họ.
Những linh mục và giáo dân
tìm gặp tôi, những gia đình, những người già trẻ, những kẻ khỏe mạnh cũng như
đau yếu, những cha mẹ và con cái cùng với những khó khăn của họ: tất cả đã đến
với mọi lý do. Đời sống là như vậy đó.
Tôi nhớ rất rõ cuộc thăm
viếng mục vụ đầu tiên của tôi ở Mucharz, gần Wadovice. Ở đó có một cha
xứ già nua, một linh mục rất được kính trọng, một giáo sĩ cao cấp. Tên ngài là Józef
Motyka. Ngài biết đó là cuộc thăm viếng mục vụ đầu tiên của tôi và ngài tỏ
ra xúc động. Ngài nói: đối với ngài, có lẽ đó là lần cuối cùng.
Ngài cho biết ngài có thể
làm hướng dẫn viên cho tôi. Cuộc thăm viếng suốt cả địa hạt đó kéo dài hai tháng
– tháng năm và tháng sáu. Sau những tháng hè, tôi thăm viếng địa hạt nguyên
khởi, đó là địa hạt Wadowice.
Những cuộc thăm viếng mục
vụ xảy ra vào mùa xuân và mùa thu. Tôi không có thời giờ thăm viếng hết trên ba
trăm giáo xứ (mặc dù tôi lưu lại đó trong hai mươi năm trên cương vị giám mục
mà cũng không có thời giờ thăm viếng hết).
Tôi nhớ lại giáo xứ cuối
cùng của Tổng Giáo Phận Cracovie mà tôi thăm viếng là giáo xứ Thánh Giuse ở Zlote
Lany, trong một khu gia cư ở Bielsko-Biala. Trong thành phố đó, cha Jósef
Sanak là cha sở giáo xứ Chúa Quan Phòng mà tôi đã nghỉ qua đêm.
Sau cuộc thăm viếng đó trở
về, tôi đã dâng Thánh Lễ cầu hồn cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I vừa mới qua
đời và sau đó tôi đến Varsovie tham gia những công việc của hội đồng giám mục rồi
đi Roma…mà không mảy may có chút ý nghĩ là tôi phải ở lại đó mãi mãi.
Những cuộc thăm viếng mục
vụ của tôi kéo dài khá lâu: có lẽ vì thế mà tôi không có thời giờ thăm viếng
hết các giáo xứ.
Quả thật có một mô hình cổ
truyền theo đó tôi đã khởi đầu ở Mucharz, như tôi đã nhắc nhở trên đây. Vị giáo
sĩ già nua mà tôi gặp gỡ đã trở nên hướng dẫn viên quí báu cho tôi trong lãnh
vực đó.
Nhưng về sau, do những kinh
nghiệm thu thập dần dần, tôi nhận thấy cần đem vào những sự đổi mới. Tính cách
nặng nề về pháp lý mà trưóc kia người ta đưa vào trong cuộc thăm viếng không
làm tôi thích thú mấy. Tôi muốn đem nội dung mục vụ vào càng nhiều càng
tốt.
Vì vậy tôi thiết lập một sơ
đồ. Cuộc thăm viếng luôn luôn bắt đầu bằng một nghi thức chào mừng mà nhiều
người và nhiều nhóm khác nhau tham dự: người lớn, giới trẻ và con nít. Kế đó,
tôi được đón vào nhà thờ để đọc một diễn văn với chủ tâm thiết lập một nhịp cầu
giao tiếp đầu tiên với mọi người. Ngày kế tiếp, trước tiên tôi ngồi tòa giải
tội một hai tiếng đồng hồ, tùy theo hoàn cảnh, để đón tiếp những hối
nhân.
Tiếp đến là Thánh Lễ và
những cuộc thăm viếng các tư gia, trước hết là những nhà có người đau yếu,
nhưng không loại trừ những người khác. Rủi thay những người Cộng Sản không cho
phép tôi vào các bệnh viện thăm viếng. Các bệnh nhân được mang tới nhà thờ để
tôi gặp gỡ họ. Nhân vật trong giáo phận đảm trách việc đưa các bệnh nhân thăm
viếng như thế là nữ tì của Chúa Hanna Chrzanowska.
Tôi luôn có một ý thức rõ
rệt về sự đóng góp chủ yếu mà các người đau khổ mang đến trong đời sống Giáo
Hội. Tôi nhớ lại, trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên, các bệnh nhân đã làm cho
tôi rụt rè e sợ. Phải có một mức độ can đảm khá cao mới có thể đứng trước những
người chịu đớn đau và theo một ý nghĩa nào đó, đi vào trong sự đau khổ thể xác
lẫn tâm thần của họ, mà không để cho mình bị ảnh hưởng bởi sự kiện đó, bằng
cách chứng tỏ ít nhất là một chút lòng trắc ẩn trìu mến.
Về sau nầy tôi đã khám phá
ra ý nghĩa thâm sâu của huyền nhiệm về sự khổ đau nhân loại. Trong sự yếu kém
của các bệnh nhân, tôi luôn nhận thấy xuất hiện rõ ràng hơn sức mạnh của lòng
trắc ẩn. Theo một ý nghĩa nào đó, bệnh nhân “khơi động” lòng trắc ẩn. Qua lời
cầu nguyện và bằng sự dâng hiến, không những họ nhận được sự trắc ẩn, mà họ còn
tạo ra “không gian của lòng trắc ẩn”, hay đúng hơn họ “mở ra những không gian”
cho lòng trắc ẩn. Thật thế, qua bệnh hoạn và sự khổ đau, họ khơi dậy những hành
vi trắc ẩn và mang lại một sự thực hiện có thể có được.
Trong những cuộc thăm viếng
mục vụ, tôi cũng cử hành những bí tích: tôi ban phép thêm sức cho người lớn và
làm phép cưới cho những đôi tân hôn.
Và rồi tôi đã gặp gỡ riêng
rẽ những nhóm người khác nhau, chẳng hạn giới trẻ, những giáo viên, những nhân
viên làm việc cho các giáo xứ. Cũng có một cuộc gặp gỡ đặc biệt ở trong nhà thờ
với tất cả các đôi hôn phối: bắt đầu bằng Thánh Lễ và kết thúc bằng một phép
lành đặc biệt, ban cho từng đôi riêng biệt.
Trong những cuộc gặp gỡ như
thế, hiển nhiên có một bài giảng dành riêng cho các đôi hôn phối. Tôi luôn cảm
thấy một sự xúc động đặc biệt khi gặp gỡ các gia đình đông con, cũng như những
bà mẹ đang trông chờ ngày sinh đẻ. Tôi muốn tỏ bày sự quí mến của tôi đối với
tình mẫu tử cũng như tình phụ tử.
Từ khi bắt đầu làm linh
mục, tôi đã vun đắp một sự cam kết mục vụ đối với những đôi hôn phối và các gia
đình. Trong tư cách tuyên úy đại học, tôi có thói quen tổ chức những khóa dự bị
hôn nhân và sau nầy, khi làm giám mục, tôi đã cổ võ mục vụ các gia
đình.
Chính những kinh nghiệm đó,
những cuộc gặp gỡ đó với các vị hôn phu và vị hôn thê, với các đôi vợ chồng và
với các gia đình mà tôi đã cho ra đời những bi kịch có tính chất thơ như “La
Boutique de l’orfèvre” (“Cửa tiệm của người thợ kim hoàn”) hay quyển
sách “Amour et responsabilité” (“Tình yêu và trách nhiệm”) và gần
đây là “La Lettre aux familles” (“Tâm thư gởi các gia đình”).
Cũng có những cuộc gặp gỡ
riêng tư với các linh mục. Tôi muốn dành cho mỗi linh mục cơ hội để họ thổ lộ
tâm tình, chia sẻ niềm vui cũng như những ưu tư trong đời sống mục vụ của họ.
Đối với tôi, những cuộc gặp gỡ đó tự biểu lộ những cơ hội quí báu để đón nhận
từ nơi các linh mục những kho tàng khôn ngoan tích lũy qua những năm dài vất vả
do hoạt động tông đồ.
Diễn tiến của cuộc thăm
viếng mục vụ tùy thuộc những đặc điểm của từng giáo xứ. Thật thế có những cảnh
ngộ rất khác nhau. Cuộc thăm viếng cộng đồng giáo xứ nhà thờ chính tòa Đức Bà
Mông Triệu Thăng Thiên ở Cracovie chẳng hạn kéo dài hai tháng, bởi vì ở đó có
nhiều nhà thờ và nhà nguyện.
Trường hợp Nowa Huta
hoàn toàn khác hẳn: ở đó, không có nhà thờ, mặc dù có nhiều ngàn cư dân: chỉ có
một nhà nguyện nho nhỏ, phụ thuộc một ngôi trường cũ. Phải lưu ý đến sự kiện
nầy là chúng ta đang ở vào thời kỳ hậu Staline và đang diễn ra cuộc đấu tranh
chống tôn giáo. Trong một “thành phố xã hội” như Nowa Huta, chính phủ không cho
phép xây cất những nhà thờ mới.
(Nowa Huta theo
nguyên ngữ là “Công Nghiệp Luyện Thép Mới”, theo thói quen dịch là ‘Thành Phố
Mới”, được xây dựng năm 1950, được xem như “thành phố Cộng Sản lý tưởng”. Năm
1960, một cánh tay sắt đã giao đấu ở giữa chính quyền và những tín đồ mong ước
xây lên một nhà thờ ở đó. Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyla hỗ trợ cuộc đấu tranh
đó của các giáo dân và năm 1969 đích thân ngài đến đặt viên đá đầu tiên để xây
ngôi thánh đường Bienczyce, trước sự hiện diện của năm mươi ngàn người.)
6.- Cuộc đấu
tranh xây cất nhà thờ
Đúng thế, ở Cracovie-Nowa
Huta đã diễn ra một trận chiến trong việc xây cất nhà thờ. Trong khu vực đó cư
ngụ hằng ngàn người dân, phần lớn là những nhân công đến từ cả nước Ba-lan, làm
việc cho đại kỹ nghệ luyện kim. Theo dự án của chính quyền, Nowa Huta phải là
một khu “xã hội” kiểu mẫu, nghĩa là cắt đứt mọi liên hệ với Giáo Hội. Tuy nhiên
không thể làm như thể những người đó đến kiếm việc làm, có thể từ bỏ gốc rễ
Công giáo của mình được.
Trận chiến bắt đầu trong
một khu gia cư rộng lớn ở Bienczyce. Khởi đầu, sau những áp lực đầu
tiên, chính quyền Cộng Sản nhượng bộ cho phép xây nhà thờ và ngay cả cấp đất
nữa. Dân chúng đã dựng lên ở đó một cây thánh giá. Nhưng rồi giấy phép chấp
thuận vào thời Đức Tổng Giám Mục Baziak đã bị rút lại và chính quyền quyết định
gỡ cây thánh giá đi. Dân chúng đã phản đối dữ dội.
Và kết quả là một trận
chiến thật sự với cảnh sát: đã có những nạn nhân, những người bị thương. Thị
trưởng đã yêu cầu “làm cho dân chúng dịu xuống”. Đó là một trong những hành
động đầu tiên của một trận chiến lâu dài cho tự do và nhân phẩm của dân chúng
đó mà số phận đã được đặt để trong khu vực tân lập ở Cracovie.
Cuối cùng người ta đã thắng
trận chiến nhưng phải trả bằng giá của “trận giặc thần kinh” cạn kiệt. Tôi điều
hành những cuộc mặc cả với chính quyền, nhất là với ông thủ trưởng Ban Tôn Giáo
tỉnh. Đó là một người có tư cách đứng đắn trong những cuộc thảo luận nhưng đặc
biệt cứng rắn và không nhượng bộ trong những quyết định tiếp theo sau đó, và để
lộ một tinh thần đầy ác cảm.
Cha xứ là Józef
Gorzelany đảm trách việc xây nhà thờ và ngài đã thi hành sứ vụ đó cách tốt
đẹp. Ngài đạt lời mời giáo dân mỗi người mang một viên đá để xây nền móng và
dựng tường là một sáng kiến mục vụ khôn ngoan. Như thế mỗi người
cảm thấy cá nhân mình dính dấp đến việc xây đắp nền móng thánh đường mới.
Chúng tôi đã trải qua một
hoàn cảnh tương tự ở trung tâm mục vụ Mistrzejowice. Người chủ chốt của
biến cố đó là linh mục quả cảm Józef Kurzeja đã tới gặp tôi và tự nguyện
đi đến khu vực đó thi hành mục vụ. Ở đó có một ngôi nhà nhỏ mà trong đó ngài đề
nghị bắt đầu dạy giáo lý với hy vọng có thể dần dần tạo nên giáo xứ
mới.
Điều đó đã xảy ra, nhưng
cha Józef đã phải trả giá bằng chính mạng sống mình cho những cuộc đấu tranh xây
nhà thờ ở Mistrzejowice. Đương đầu với những sự phiền nhiễu do chính quyền Cộng
Sản gây ra, ngài đã bị cơn biến động mạch máu não và từ trần lúc ba mươi chín
tuổi đời.
Trong trận chiến xây nhà
thờ Mistrzejowice, ngài được cha Mikolaj Kuczkowski giúp đỡ. Cha nầy
cũng gốc Wadowice như tôi. Tôi nhớ lại khi còn là một luật sư, ngài đã đính hôn
với Nastka, một cô gái trẻ đẹp, chủ tịch Công Giáo Tiến Hành giới trẻ. Khi chị
nầy qua đời, cha đã quyết định làm linh mục. Năm 1039, cha vào chủng viện và
bắt đầu học triết thần. Cha học xong năm 1945.
Tôi đã có những giao tiếp
rất thân thiết với cha và cha cũng rất thương yêu tôi. Cha đã có ý “làm cho tôi
nên một con người nào đó” như người ta thường nói. Sau khi tôi được tấn phong
giám mục, đích thân ngài lo việc dọn nhà cho tôi đến ở tòa giám mục Cracovie,
số 3 đường Franciszkanska.
Tôi thường có dịp quan sát
ngài đã thương yêu cha Józef Kurzeja, cha xứ đầu tiên của Mistrzejowice, như
thế nào. Về chính cha Józef, tôi có thể nói ngài là một người đơn giản và tốt lành.
(Một trong những chị em của ngài là Nữ Tu Dòng Thánh Tâm).
Như tôi đã nói, cha
Kuczkowski đã giúp đỡ cha Józef rất nhiều trong sinh hoạt cá nhân. Và khi cha
Józef qua đời, ngài đã từ chức chưởng ấn của tòa giám mục để kế vị cha lo cho
giáo xứ Mistrzejowice. Cả hai vị đã được an táng trong hầm mộ ở dưới nhà thờ do
chính họ xây cất.
Tôi có thể kể ra đây rất
nhiều điều về họ. Đối với tôi, họ nêu gương quả cảm về lòng bác ái giữa các
linh mục mà, trong tư cách giám mục, tôi đã chứng kiến và được khích lệ với
nhiều ngưỡng mộ: “Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai
gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng quí giá” (Hc 6, 15).
Tình bạn chân chính bắt nguồn từ Chúa Kitô: “Thầy gọi anh em là
bạn hữu…” (Gio 15, 15).
Chính Đức Cha Ignacy
Tokarczuk, giám mục giáo phận kế cận là Przemysl, đã cổ động một cách hữu
hiệu việc xây cất những ngôi thánh đường trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba-lan.
Ngài đã xây cất các nhà thờ bất chấp luật lệ, với giá của nhiều hy sinh và
nhiều sự nhiễu nhương về phía chính quyền Cộng Sản địa phương.
Tuy nhiên trong trường hợp
của ngài, tình thế có phần nào thuận lợi hơn, bởi vì những cộng đoàn trong giáo
phận của ngài phần lớn được làm thành bởi những làng xã và đó là môi trường ít
khó khăn hơn. Thật thế, dân chúng ở thôn quê, ngoài sự kiện họ nhạy cảm hơn đối
với vấn đề tôn giáo, họ còn ít bị công an kiểm soát chặt chẽ.
Tôi tưởng tới những cha xứ
đã xây dựng những ngôi thánh đường trong thời gian đó với lòng ngưỡng mộ và
biết ơn. Lòng ngưỡng mộ của tôi cũng lan rộng tới hết những người xây dựng
thánh đường trên tất cả mọi phần đất thế giới. Tôi luôn cố gắng hỗ trợ
họ.
Những Thánh Lễ đêm Giáng
Sinh cử hành lộ thiên ở Nowa Huta, mặc dù trời lạnh đông đá, là một sự biểu lộ
việc hỗ trợ đó. Trước kia tôi cũng đã cử hành Thánh lễ như thế ở Bienczyce và
cả sau đó ở Mistrzejowice cũng như trên những ngọn đồi Krzeslawice.
Trong những cuộc mặc cả với
chính quyền, điều đó đã làm nên một luận cứ có tính cách yêu sách hơn về quyền
của tín hữu được có những điều kiện nhân bản trong các cuộc công khai biểu lộ
đức tin.
Tôi đã nhắc lại điều đó bởi
vì kinh nghiệm của chúng tôi lúc bấy giờ chứng tỏ những trách vụ của một giám
mục có thể đa dạng đến mức nào. Trong những cuộc thăng trầm đó, luôn luôn vang
động lại điều mà một mục tử sống tiếp cận với đàn chiên đã được giao
phó.
Tôi có thể đích thân nhận
ra điều mà trong Phúc Âm đã nói về những con chiên đi theo chủ chăn: “Chúng
không theo người lạ vì chúng nhận biết tiếng của chủ chăn. Nhưng người đó biết
còn có những con chiên khác không ở trong đàn chiên. Những con chiên đó nữa,
cũng phải dẫn đưa chúng về.” (Gio 10, 4-5, 16).
CHƯƠNG
III: CAM KẾT KHOA HỌC VÀ MỤC VỤ
“...đầy thiện chí, thừa hiểu biết” (Rm
15, 14)
1.- Phân khoa
thần học trong khung cảnh những phân khoa đại học khác
Với tư cách là giám mục
Cracovie, tôi cảm thấy bắt buộc phải bảo vệ phân khoa thần học được thiết lập
bên cạnh đại học Jagellon. Tôi xét thấy đó là bổn phận của tôi. Nhà Nước
khẳng định phân khoa đó đã được chuyển về Varsovie. Chứng cớ mà họ dựa vào đó
là việc thiết lập vào năm 1953 ở Varsovie Viện Hàn Lâm Thần Học Công Giáo, được
đặt dưới sự quản lý của Nhà Nước. Cuộc chiến đấu đó được thắng lợi nhờ sự kiện
về sau nầy phát sinh ở Cracovie phân khoa giáo hoàng tự trị về thần học, rồi
Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Thần Học.
Trong cuộc chiến đấu đó,
tôi đã được khẳng định bởi niềm xác tín là khoa học, trong những biểu tượng của
nhiều môn học, là một di sản vô giá đối với đất nước. Dĩ nhiên, trong cuộc đối
thoại với chính quyền Cộng Sản, đối tượng bênh vực trước tiên của tôi là môn
thần học, bởi vì môn đó đang bị đe dọa một cách đặc biệt.
Nhưng tôi không bao giờ
quên những ngành khác của kiến thức, ngay cả những ngành xem ra không liên hệ
gì đến thần học. Tôi đã tiếp cận với những lãnh vực khác của khoa học, nhất là
qua trung gian của những nhà vật lý học. Chúng tôi đã gặp gỡ nhau thường xuyên
và đã bàn luận những khám phá rất gần đây trong lãnh vực vũ trụ
học.
Đó là một tiến trình hấp
dẫn quả quyết điều mà Thánh Phaolô đã xác quyết theo đó một sự hiểu biết chắc
chắn về Thiên Chúa cũng có thể đạt được qua sự hiểu biết về vũ trụ được tạo
dựng (xem Rm 1, 20-23). Những cuộc gặp gỡ đó ở Cracovie thỉnh thoảng
cũng được tiếp nối ở Roma và ở Castel Gandolfo. Các cuộc gặp gỡ được tổ chức
bởi giáo sư Jerzy Janik.
Tôi luôn luôn thao thức bởi
vấn đề cần tổ chức mục vụ thích hợp cho các khoa học gia. Vị tuyên úy lâu năm ở
Cracovie là giáo sư Stanislaw Nagy, một linh mục gần đây tôi đã nâng lên
chức Hồng Y. Qua cử chỉ đó, tôi cũng muốn biểu lộ lòng biết ơn của tôi đối với
nền khoa học Ba-lan.
2.- Giám mục và
thế giới văn hóa
Người ta biết các giám mục
hầu hết không tỏ ra hứng thú đặc biệt trong việc đối thoại với những nhà nghiên
cứu khoa học. Phần đông các ngài ưa thích những công tác mục vụ hơn, theo ý
nghĩa bao quát của cụm từ đó, so với việc tiếp xúc với các khoa học gia. Tuy
nhiên, theo quan điểm của tôi, các thành phần giáo sĩ – giám mục cũng như linh
mục – nên có những liên hệ cá nhân với thế giới khoa học và với những người chủ
yếu trong thế giới đó.
Cách riêng, giám mục phải
chăm sóc các trường cao đẳng Công giáo thuộc về mình. Giám mục cũng phải duy
trì một sự giao tiếp thân tình với toàn thể sinh hoạt đại học: phải đọc tài
liệu, gặp gỡ giao tiếp, được thông báo về tất cả những gì xảy ra trong môi
trường đó.
Hiển nhiên chính giám mục
không được kêu gọi để trở thành khoa học gia, nhưng là một mục tử. Tuy nhiên,
trong tư cách là mục tử, giám mục không thể không quan tâm đến thành phần đó
của đoàn chiên mình, bởi vì cũng nằm trong trách nhiệm của ngài là phải nhắc
nhở các nhà nghiên cứu khoa học bổn phận phục vụ chân lý và như thế là cổ võ sự
lợi ích chung.
Ở Cracovie, tôi cũng tìm
cách duy trì những liên lạc thường xuyên với các triết gia như Roman
Ingarden, Wladyslaw Strózewski, Andrzej Póltawski, và cũng với các linh mục
triết gia như Kazimierz Klósak, Józef Tischner và Jósef Zycinski.
Lập trường triết học cá nhân của tôi có thể nói được là ở giữa hai thái cực:
học thuyết của Thánh Tôma và hiện tượng luận của Edmund Husserl.
Tôi đặc biệt liên hệ với tư
tưởng của Edith Stein, một khuôn mặt khác thường, nhất là vì hành trình
hiện sinh của chị: vốn là một phụ nữ Do-thái sinh ở Wroclaw, chị đã gặp gỡ Chúa
Kitô, nhận lãnh bí tích Thánh Tẩy, vào tu ở đan viện Cát-minh, trải qua một
thời gian sống ở Hòa Lan và từ đó bị quân đội Đức Quốc Xã đày đi giam ở trại
Auschwitz. Ở đó chị bị đưa vào lò hơi ngạt cho chết và thi thể của chị bị đốt
trong các lò hỏa thiêu.
Chị đã học với triết gia
Husserl và là bạn đồng môn của triết gia Ingarden. Tôi vui mầng đã phong
chân phước cho chị ở Cologne, rồi phong thánh cho chị ở Roma. Tôi đã công bố
Thánh Edith Stein – nữ tu Têrêxa Bênêđita Thánh Giá – là thánh bảo trợ
Âu châu, cùng với Thánh Brigitte Thụy Điển và Thánh Catherine de
Sienne. Đó là ba thánh nữ bảo trợ bên cạnh ba thánh nam: Bênêditô,
Cyrille và Méthode.
Tôi ưa thích triết lý của
Thánh Edith Stein. Tôi đã đọc những văn bản của chị, đặc biệt quyển “Hữu Hạn
và Vô Biên”, nhưng nhất là tôi say mê bởi đời sống đặc biệt và số phận bi
đát của chị đã được chia sẻ bởi triệu triệu nạn nhân khác vô phương tự vệ trong
thời đại chúng ta. Chị là đệ tử của triết gia Edmund Husserl, là nhà truy tầm
chân lý hăng say, nữ tu kín, nạn nhân của chế độ Hitler: thật là một cuộc “nhân
sinh” đặc biệt lạ thường…
3.- Sách vở và
việc học
Những gánh nặng đổ lên vai
một giám mục thì rất nhiều. Cá nhân tôi đã có kinh nghiệm và tôi nhận thấy rằng
thật sự không sao đủ thời giờ được. Nhưng kinh nghiệm đó cũng đã dạy cho tôi
đến mức độ nào sự thinh lặng và học hỏi cần thiết cho một giám mục. Ngài cần có
một sự đào luyện thâm sâu về thần học luôn được cập nhựt hóa và cũng cần một
lợi ích rộng lớn hơn đối với cuộc sống trí thức và rao giảng. Đó là những kho
tàng quí báu mà các ngài suy tư và trao đổi cho nhau. Vì vậy tôi muốn trình bày
đôi điều về vấn đề đọc sách trong đời sống giám mục của tôi.
Tôi luôn luôn phân vân:
phải đọc những gì? Tôi cố gắng chọn lựa những gì thiết yếu nhất. Sản phẩm biên
soạn thì nhiều vô kể. Điều đó không có nghĩa là tất cả mọi sách đều có một giá
trị như nhau và tất cả cũng đều hữu ích. Phải biết chọn lựa và hỏi ý kiến về
những sách gì nên đọc.
Tôi yêu đọc sách từ hồi tấm
bé. Cha tôi đã làm cho tôi ưa thích đọc sách. Chẳng hạn cha tôi có thói quen
ngồi cạnh tôi và đọc cho tôi nghe những sách của Sienkiewicz hay của
những văn sĩ Ba-lan khác. Khi mẹ tôi qua đời, chúng tôi sống khắng khít bên
nhau: cha tôi và tôi. Và người không ngừng khai tâm cho tôi biết đọc những sách
có giá trị. Người cũng không cản trở tôi yêu thích kịch nghệ.
Nếu chiến tranh đã không
xảy ra và hoàn cảnh không thay đổi một cách triệt để, có thể những viễn tượng
mà những môn học ở đại học mở ra đã thu hút tôi hoàn toàn. Khi tôi cho Mieczyslaw
Kotlarczyk hay quyết định của tôi trở thành linh mục, anh ta la lên: “Mầy làm gì ở đó? Mầy muốn phung phí tài năng
mà mầy có hay sao?” Chỉ Đức Cha Sapieha không chút nghi ngờ mà thôi.
Khi còn là sinh viên ngành
văn chương, tôi khám phá nhiều tác giả đa dạng. Trước hết tôi nghiêng về văn
học, đặc biệt văn học kịch nghệ. Tôi đã đọc Shakespeare, Molière, những
thi sĩ Ba-lan như Norwid, Wyspianski và dĩ nhiên Alexander Fredro.
Sự đăm mê của tôi là trở thành diễn viên trên sân khấu.
Thường khi tôi tưởng tượng
những vai trò mà tôi thích đóng! Với Kotlarczyk, chúng tôi vui thích đóng nhiều
vai trò có thể được và tự hỏi nhau ai có thể đóng vai nào. Đó là những chuyện
thuộc về quá khứ. Kế tiếp đó, có người đã hỏi tôi: “Mầy có thiên tư…Mầy sẽ trở thành diễn viên giỏi nếu mầy ở trong ngành
kịch nghệ.”
Phụng vụ cũng là thứ huyền
nhiệm (mysterium) được trình bày, đạo diễn. Tôi nhớ lại với nhiều
xúc động trào dâng khi cha xứ là Figlewicz đã mời tôi, lúc đó được mười
lăm tuổi, tham dự Tam Nhựt (Triduum) Phục Sinh và dự phần vào Nghi Thức Đọc Sách, được thực hành trước
vào chiều thứ tư. Đối với tôi đó là một cú sốc tâm linh và ngay cả hôm nay, Tam
Nhựt Phục Sinh cũng còn là một
kinh nghiệm gây nhiều xúc động.
Kế đến là thời gian đọc văn
chương triết thần. Khi còn là chủng sinh chui, tôi nhận được tập sách giáo khoa
về siêu hình học của giáo sư Kazimierz Wais ở Lvov. Cha Kazimierz Klósak
nói với tôi: “Con hãy học đi. Khi con học
xong, con sẽ qua đuợc kỳ thi khảo hạch.” Trong nhiều tháng, tôi đã lăn xả
đọc tài liệu đó. Rồi tôi dự cuộc khảo hạch và được chấp nhận.
Đó là một khúc ngoặc trong
cuộc đời tôi. Một thế giới mới mở ra trước mắt tôi. Tôi bắt đầu mạo hiểm đọc
các sách thần học. Sau nầy, khi ở Roma, trong thời gian học vấn, tôi bắt đầu
đào sâu tác phẩm Summa Theologiae (Thần Học Yếu Lược) của Thánh
Tôma.
Như vậy có hai giai đoạn
trong hành trình trí thức của tôi: giai đoạn đầu thuộc tiến trình tư tưởng từ
văn chương đến siêu hình; loại sau đưa tôi từ siêu hình đến hiện tượng luận. Đó
là bước đầu rèn luyện về khoa học. Giai đoạn đầu trùng hợp với thời kỳ chiếm
đóng của Đức Quốc Xã, ít nhất là trong thời gian đầu. Lúc đó tôi làm ở nhà máy
Solvay đồng thời học chui thần học ở chủng viện.
Tôi nhớ lại khi tôi trình
diện với cha giám đốc là Jan Piwowarczyk, ngài nói với tôi: “Cha chấp nhận con, nhưng cho dẫu mẹ con cũng
không được biết là con học ở đây.” Đó là tình cảnh lúc bấy giờ. Mặc dù thế,
tôi cũng thành công trong việc tiến về phía trước. Sau nầy cha Rózycki
đã giúp đỡ tôi nhiều. Chính ngài cho tôi nơi ăn chỗ ở và cung cấp cho tôi nền
móng của công việc khoa học.
Về sau khá lâu, giáo sư
Rózycki đã đề nghị với tôi luận án thần học liên quan đến tác phẩm của Max
Scheler là “Chủ nghĩa hình thức trong đạo đức học và thực chất đạo đức
của các giá trị” (“Le Formalisme en éthique et l’étique matérielle des
valeurs”). Tôi đã chuyển dịch quyển sách đó ra tiếng Ba-lan để tiện dụng,
trong khi soạn thảo luận án.
Đó là một khúc ngoặc mới.
Tôi đệ trình luận án của tôi tháng mười một năm 1953. Các báo cáo viên của bài
văn nghị luận là cha Aleksander Usowicz, Stefan Swiezawski và thần học
gia Wladyslaw Wicher.
Đó là khóa giảng dạy cuối
cùng của phân khoa thần học thuộc đại học Jagellon, trước khi bị cộng Sản giải
tán. Phân khoa thần học nầy, như tôi đã nhắc lại trên đây, được chuyển về Hàn
Lâm Viện Thần Học Công Giáo ở Varsovie.
Kế đó, kể từ mùa thu 1954,
tôi bắt đầu giảng dạy ở đại học Công giáo Lublin. Sở dĩ tôi có thể đảm trách
sinh hoạt đó nhờ giáo sư Swiezawski mà tình bạn gắn bó cho tới ngày
nay.
Tôi rất thương mến cha Rózycki
mà tôi gọi bằng Ignac. Và chính ngài cũng dành cho tôi một tình bạn
như thế. Chính ngài đã khuyến khích tôi dự thi để có chân giáo sư đại học.
Chúng tôi đã sống chung với nhau trong nhiều năm. Chúng tôi đã dùng bữa chung
với nhau. Bà Maria Gromek đã nấu ăn cho chúng tôi.
Ở đó tôi có một căn phòng
mà tôi còn nhớ rõ. Đó là căn nhà dành cho các linh mục phụ tá của giáo phận
Wawel ở số 19, đường Kanoniczna. Và đó là “nhà” của tôi trong sáu năm trời. Sau
đó tôi cư ngụ ở số 12 và cuối cùng, nhờ cha chưởng ấn Mikolaj Kuczkowski, tôi
đã chuyển về dinh giám mục ở số 3 đường Franciszkanska.
Khi đọc sách cũng như học
hành, tôi luôn tìm cách kết hợp một cách hài hòa những chiều kích đức tin, trí
tuệ và con tim, bởi vì đó không phải là những lãnh vực biệt lập. Mỗi lãnh vực
xuyên thấu và linh động hóa những lãnh vực kia.
Trong tương quan hỗ tương
giữa đức tin, trí tuệ và con tim, điều gây ảnh hưởng đặc biệt chính là sự ngạc
nhiên xuất phát từ phép lạ con người, bởi sự kiện con người giống Thiên Chúa là
Một và Ba, bởi huyền nhiệm của tặng vật hỗ tương và của sự sống từ đó phát
sinh, bởi việc chiêm ngắm sự kế tục của những thế hệ loài người.
4.- Trẻ em và
thanh thiếu niên
Trong những suy tư nầy, tôi
muốn dành một chỗ đặc biệt cho trẻ em và thanh thiếu niên. Ngoài những cuộc gặp
gỡ của tôi với họ, trong những chuyến thăm viếng mục vụ, tôi luôn luôn chú ý
đặc biệt đến giới sinh viên, nhất là môi trường đại học, bởi vì thành phố
Cracovie, theo truyền thống, là một trung tâm sống động của các ngành đại
học.
Tôi lưu giữ nhiều kỷ niệm
đẹp về mục vụ đại học. Những cơ hội gặp gỡ thì rất đa dạng: từ những buổi
thuyết trình cũng như thảo luận cho tới những cuộc tĩnh tâm và linh thao. Dĩ
nhiên tôi duy trì những cuộc giao tiếp thân tình với các linh mục đảm trách mục
vụ trong phạm vi đó.
Đảng Cộng Sản đã bãi bỏ tất
cả những hiệp hội Công giáo về giới trẻ. Vì vậy phải tìm phương cách để bổ túc
sự thiếu sót đó. Và chính vì thế mà cha Franciszek Blachnicki đã xuất
hiện. Ngài là người khởi xướng điều mà người ta gọi là “Phong Trào Ốc Đảo”.
Tôi đã liên hệ rất nhiều
với phong trào đó và tôi đã giúp đỡ bằng mọi cách. Tôi đã bảo vệ các “ốc đảo”
chống lại chính quyền Cộng Sản. Tôi đã hỗ trợ bằng vật chất và dĩ nhiên, tôi đã
tham dự những cuộc họp mặt của họ.
Khi những tháng hè trở về,
tôi thường gia nhập các “ốc đảo”, nghĩa là những trại hè được tổ chức cho giới trẻ
thuộc phong trào. Tôi giảng dạy, trò chuyện với giới trẻ, cùng hát hò với họ
chung quanh ngọn lửa hồng, tham dự những cuộc leo núi với họ. Thường khi tôi
dâng Thánh Lễ cho họ ở ngoài trời. Tất cả những điều đó tạo nên một chương
trình mục vụ khá dày đặc.
Trong cuộc hành hương vào
năm 2003 ở Cracovie của tôi, những thành viên ốc đảo đã hát lên như sau:
Chúa đã đến bên bãi biển;
Ngài không kiếm tìm những
người khôn ngoan,
những kẻ giàu có,
Ngài chỉ xin tôi theo Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã nhìn con
trong đôi mắt,
Chúa mỉm cười và gọi tên
con.
Chiếc thuyền của con, con
để lại trên bờ,
Cùng với Chúa con sẽ vượt
qua một đại dương khác.
Tôi đã nói với họ, theo một
nghĩa nào đó, bài hát của những ốc đảo đã đưa tôi ra khỏi quê hương tôi, cho
tới tận Roma. Nội dung thâm sâu của bài hát đã nâng đỡ tôi ngay cả khi tôi phải
đối diện với sự quyết định của mật nghị các Đức Hồng Y.
Và rồi, suốt cả chiều dài
triều đại giáo hoàng của tôi, không bao giờ tôi tách lìa khỏi bài hát đó. Vả
lại, bài hát đó luôn luôn nhắc nhở cho tôi, không những chỉ ở Ba-lan mà thôi,
mà còn ở những xứ khác trên thế giới.
Khi bài hát đó được nghe
lại luôn luôn đưa tôi về với những cuộc gặp gỡ giới trẻ khi tôi còn là giám
mục. Tôi đánh giá rất tích cực kinh nghiệm lớn lao đó. Tôi đã mang theo kinh
nghiệm đó với tôi về Roma. Cũng ở nơi đây, tôi đã cố gắng rút tỉa những thành
quả, bằng cách gia tăng những cơ hội gặp gỡ giới trẻ. Những “Ngày Giới Trẻ
Thế Giới”, theo một nghĩa nào đó, đã nảy sinh từ kinh nghiệm nầy.
Tôi còn tiếp cận với một
phong trào khác của giới trẻ trên hành trình giám mục của tôi: “Sacrosong”.
Đó là một thứ đại hội âm nhạc về thánh ca, kèm theo những suy tư và cầu nguyện.
Những cuộc gặp gỡ diễn ra ở những địa điểm khác nhau tại Ba-lan và đã lôi cuốn
rất nhiều người trẻ. Tôi tham dự rất nhiều lần và tôi đã hỗ trợ tổ chức đó, kể
cả về phương diện tài chánh. Tôi lưu giữ một kỷ niệm đẹp về những cuộc gặp gỡ
đó.
Tôi rất thích hát. Nói đúng
ra, tôi hát mỗi một lần cớ cơ hội. Nhưng nhất là với giới trẻ, tôi thường sẵn
sàng hát. Những bài hát rất đa dạng, tùy theo hoàn cảnh: đó là những bài dân
ca, những bài hát hướng đạo sinh, chung quanh ngọn lửa hồng.
Vào những dịp lễ quốc gia –
như kỷ niệm thời chiến tranh bùng nổ hay cuộc nổi dậy ở Varsovie – người ta hát
những bài quân ca có tinh thần ái quốc như Les Coquelicots sur le mont
Cassin, La Première Brigade và nói chung, là những bài hát nói lên sự Nổi
Dậy và Kháng Chiến.
Nhịp điệu của năm phụng vụ
hướng về việc lựa chọn những bài thánh ca, theo một cách thích ứng. Vào dịp lễ
Giáng Sinh, ở Ba-lan, người ta luôn hát nhiều ca khúc Giáng Sinh, trong khi
trước Phục Sinh, người ta thiên về những bài hát liên quan đến Sự Thương Khó
hơn. Những thánh ca xưa đó chuyên chở cả một nền thần học Kitô giáo, tạo thành
kho tàng truyền thống sống động, thốt lên từ trong con tim mỗi thế hệ và hình
thành đức tin.
Vào tháng năm và tháng
mười, ngoài những thánh ca về Đức Mẹ, ở Ba-lan, người ta còn hát Kinh Cầu Đức
Bà và Giờ Phụng Vụ Kính Đức Mẹ. Thật là một sự phong phú về thi ca chứa đựng
trong những thánh ca bình dân đó, còn được sử dụng cho tới ngày
nay!
Trên cương vị giám mục, tôi
đã cố gắng làm nổi bật giá trị những truyền thống đó và giới trẻ đặc biệt tỏ ra
muốn tiếp nối. Tôi thiết tưởng sẽ cùng nhau rút tỉa lợi ích từ kho tàng quí báu
đó của một đức tin đơn giản và sâu sắc mà cha ông chúng ta đã thu thập qua các
bài thánh ca.
Ngày 18 tháng 5 năm 2003,
tôi đã phong thánh cho mẹ Urszula Ledóchowska, một khuôn mặt lớn trong
ngành giáo dục. Mẹ sinh ra ở nước Áo, nhưng vào cuối thế kỷ mười chín, cả gia
đình dời qua Lipnica Murowana trong giáo phận Tarnów. Trong nhiều năm, chính mẹ
cũng đã sống ở Cracovie. Người chị của mẹ là Marie-Thérèse, được gọi là
“Mẹ Phi châu”, đã được phong thánh.
Gương mẫu của họ chứng tỏ
lòng ao ước nên thánh triển khai với một mãnh lực lạ thường phát sinh bởi không
khí thuận lợi của một gia đình tốt. Môi trường gia đình quan trọng biết bao!
Các thánh phát sinh và hình thành những vị thánh khác.
Khi tôi nhắc lại những nhà
giáo dục như thế, tự nhiên tôi nghĩ tới trẻ em. Trong những chuyến thăm viếng
mục vụ, ngay cả những chuyến viếng thăm ở Roma đây, tôi luôn cố gắng dành thời
giờ để tiếp xúc với trẻ em.
Tôi không bao giờ ngưng
việc khuyến khích các linh mục nên quảng đại dành thời giờ ngồi tòa giải tội.
Thật quan trọng đặc biệt phải hình thành tốt đẹp lương tâm trẻ em và thanh
thiếu niên.
Gần đây tôi đã đề cập tới
bổn phận phải rước lễ một cách xứng đáng (Xem Ecclesia de Eucharistia, số
37). Một thái độ như thế được hình thành khi xưng tội vỡ lòng trước khi chịu lễ
lần đầu. Có thể mỗi người trong chúng ta còn nhớ lại với biết bao xúc động lần
xưng tội đầu tiên khi còn là một trẻ em.
Vị tiền nhiệm của tôi là
Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X đã nêu lên một chứng tá đầy xúc động về tình yêu mục
vụ đối với trẻ em bằng quyết định của ngài đối với việc rước lễ lần đầu. Không
những ngài đã hạ thấp tuổi cần thiết để được đến bàn thánh – điều mà chính tôi
đã được hưởng nhờ vào tháng 5 năm 1929 – ngài còn cho phép được rước lễ ngay cả
trước bảy tuổi trọn, nếu trẻ em tỏ ra có một sự suy xét đầy
đủ.
Được cho rước lễ sớm là một
quyết định mục vụ đáng ca ngợi và cần được nhắc nhở. Điều đó đã mang lại nhiều
hoa trái về sự thánh thiện và mục vụ tông đồ đối với trẻ em, nhờ thế đã làm nảy
sinh thuận lợi nhiều ơn gọi linh mục.
Tôi luôn xác tín rằng nếu
không biết cầu nguyện, chúng ta sẽ không đạt tới việc giáo dục trẻ em một cách
tốt đẹp. Trên cương vị giám mục, tôi cố gắng khuyến khích các gia đình và những
cộng đoàn giáo xứ phải hình thành nơi trẻ em lòng ao ước gặp gỡ Chúa bằng lời
cầu nguyện cá nhân.
Trong tinh thần đó, gần đây
tôi đã viết: “Cầu nguyện Kinh Mân Côi cho trẻ em và còn hơn thế nữa với
trẻ em…tạo nên một sự hỗ trợ nội tâm không nên đánh giá quá thấp” (Rosarium
Virginis Mariae, số 42).
Hiển nhiên mục vụ đối với
trẻ em phải được tiếp tục đến tuổi thành niên. Việc xưng tội thường xuyên và sự
hướng dẫn tâm linh giúp đỡ những thanh thiếu niên trong việc nhận chân ơn gọi
của họ và che chở họ khỏi những lầm lạc khi đi vào đời sống trưởng thành.
Tôi còn nhớ vào tháng 11
năm 1964, trong một cuộc yết kiến riêng, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói với
tôi: “Hiền Huynh đáng kính, ngày nay
chúng ta phải rất quan tâm đến giới trẻ sinh viên. Công việc chính của mục vụ
giám mục, đó là những linh mục, thợ thuyền và sinh viên.”
Tôi thiết tưởng đó là do
kinh nghiệm cá nhân nên ngài đã thốt lên những lời đó. Thật thế, khi ngài
Giovanni Battista Montini làm việc ở Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, trong nhiều
năm ngài đã dấn thân trong lãnh vực mục vu đại học với tư cách tổng tuyên úy
của Hiệp Hội Đại Học Công Giáo Ý (FUCI – Fédération Universitaire
Catholique Italienne).
5.- Việc giảng
dạy giáo lý
Chúa đã ủy nhiệm cho chúng
ta: “hãy đi và giảng dạy muôn dân” (xem Mt 28, 20). Trong bối
cảnh xã hội hiện nay, chúng ta có thể thực thi nhiệm vụ đó, nhất là qua việc
giảng dạy giáo lý. Việc giảng dạy đó phát sinh bởi những suy tư về Phúc Âm cũng
như sự hiểu biết những việc trên đời nầy. Phải thấu hiểu những kinh nghiệm giữa
người với người và ngôn ngữ mà họ thông đạt cho nhau. Đó là một trách nhiệm lớn
lao đối với Giáo Hội.
Đặc biệt những vị mục tử
phải quảng đại gieo vãi, cho dẫu chính những người khác gặt hái công lao của
mình:
“Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang
chờ ngày gặt hái! Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn
đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mầng. Thật vậy, câu
tục ngữ: “kẻ nầy gieo, người kia gặt” quả là đúng! Thầy sai anh em đi gặt những
gì chính anh em đã không phải vất vả và làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả;
còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.” (Gio
4, 35-38)
Như chúng ta biết, khoa dạy
giáo lý không chỉ sử dụng những khái niệm trừu tượng mà thôi. Dĩ nhiên những
khái niệm đó cần thiết, bởi vì khi chúng ta đề cập tới những thực thể siêu
hình, không thể tránh được những khái niệm triết lý.
Tuy nhiên khoa giáo lý đặt
để những biểu tượng và ký hiệu đức tin vào vị trí đầu tiên của con người và sự
gặp gỡ với con người. Khoa giáo lý luôn luôn là tình yêu và trách nhiệm, một
thứ trách nhiệm phát sinh từ tình yêu đối với những người gặp gỡ nhau trong
suốt hành trình đức tin.
Cuốn sách mới về “Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo” đã được đệ trình cho tôi chuẩn nhận vào năm
1992, được phát sinh từ ý muốn làm cho ngôn từ của đức tin được con người thời
nay dễ lãnh hội hơn. Chính hình ảnh của vị Mục Tử Nhân Hậu được minh họa như
“biểu trưng” ở bìa sách của tất cả những lần phát hành cuốn “Giáo Lý”
rất có ý nghĩa. Hình vẽ đó lấy từ một tấm mộ bia thuộc Kitô giáo vào thế kỷ thứ
III, được tìm thấy trong những hang toại đạo của Domitille.
Như người ta đã nhận thấy,
bức hình gợi ra ý nghĩa tổng quát của giáo lý: Chúa Kitô là vị Mục Tử Nhân Hậu
hướng dẫn và bảo vệ các tín hữu (con chiên) bằng quyền uy của Ngài (cây gậy),
đã lôi cuốn họ bằng khúc giao hưởng du dương của chân lý (ống sáo) và làm cho
họ được nghỉ ngơi dưới bóng mát của “cây sự sống”, tức Thập Giá cứu chuộc, mở
của Thiên Đàng. (Xem lời bình chú của “biểu trưng” trên bìa sách Giáo
Lý).
Trong bức họa, người ta có
thể thấy được sự kêu mời của vị Mục Tử đối với mỗi con chiên. Đó là một sự mời
gọi đầy kiên nhẫn, bởi vì cần phải có nhiều kiên nhẫn mới tiếp cận mỗi một người cách thích ứng nhất. Cũng phải có khiếu
ăn nói, nghĩa là khả năng nói một ngôn ngữ dễ hiểu đối với những tín
hữu chúng ta. Để được như thế, chúng ta nên khẩn cầu Chúa Thánh Linh.
Đôi khi giám mục tiếp xúc
với những người lớn dễ dàng hơn, bằng cách ngài ban phép lành cho con cái của
họ và lưu lại với họ một ít thời giờ hơn. Điều đó có ích lợi hơn là một diễn
văn dài dòng về sự kính trọng đối với kẻ yếu kém.
Ngày nay, cần nhiều trí
tưởng tượng hơn để học hỏi cách đối thoại về đức tin và về vấn nạn căn bản đối
với con người. Quả thật cần có nhiều người biết yêu mến và suy tư, bởi vì trí
tưởng tượng sống bằng tình yêu và suy nghĩ. Chính trí tưởng tượng nuôi dưỡng tư
duy chúng ta và nung nấu tình yêu chúng ta.
6.- Cơ Quan Bác
Ái (Caritas)
Sự ân cần đối với người
nghèo, theo đúng nghĩa Phúc Âm, cũng thuộc bổn phận vị mục tử. Qua sách Công
Vụ Tông Đồ và trong những Thư của Thánh Phaolô, chúng ta đã biết
những cuộc lạc quyên do các Thánh Tông Đồ tổ chức để chi cấp những thứ cần
thiết cho giới người nghèo.
Tôi muốn gợi lại nơi đây
thí dụ của Thánh Nicolas là giám mục thành Myre ở Tiểu Á vào khoảng thế
kỷ thứ tư. Trong việc sùng kính vị thánh đó mà mục vụ giám mục diễn ra vào một
thời kỳ các Kitô hữu Đông và Tây chưa bị phân rẽ, người ta tìm thấy hai truyền
thống: đông và tây. Ngài được tôn kính bởi truyền thống đông phương cũng như
tây phương.
Cho dẫu có kèm theo nhiều
huyền thoại, khuôn mặt của ngài vẫn còn hấp dẫn đáng chú ý, nhất là bởi lòng
nhân từ của ngài. Đặc biệt chính trẻ em thổ lộ với ngài một cách xác
tín.
Biết bao vấn nạn vật chất
có thể được giải quyết nếu người ta bắt đầu bằng một lời cầu xin với niềm xác
tín! Khi chúng tôi còn con nít, tất cả chúng tôi đều chờ đợi Thánh Nicolas
những quà tặng ngài sẽ mang đến.
Đảng Cộng sản muốn tước
đoạt sự thánh thiện nơi chúng tôi, và để được như vậy, họ đã bày ra “Ông Nội Nước Đá” (“Grand-Père Glace”).
Bất hạnh thay, rất gần đây ở Tây phương, trong bối cảnh kinh tế tiêu thụ, Thánh
Nicolas cũng trở nên phổ thông đại chúng.
Xem như ngày nay người ta
đã quên lòng nhân ái và độ lượng của ngài mà trước tiên là tất cả thước đo của
sự thánh thiện. Quả thật ngài được nổi bật như là giám mục quan tâm đến người
nghèo và những ai có những nhu cầu thiết yếu.
Tôi nhớ lại khi còn tấm bé,
tôi đã có một sự liên hệ cá nhân với ngài. Dĩ nhiên, cũng như mọi trẻ em, tôi
chờ đợi những quà tặng mà ngài sẽ mang tới cho tôi ngày 6 tháng 12. Tuy nhiên,
một sự chờ đợi như thế cũng có một chiều kích tôn giáo.
Cũng như những trẻ em cùng
tuổi với tôi, tôi ấp ủ một lòng sùng kính đối với vị thánh đó, bằng một cách vô
vị lợi, đã ban phát những quà tặng cho nhiều người và khi làm như thế đã biểu
lộ sự ân cần đầy lòng yêu thương đối với họ.
Trong Giáo Hội, phần vụ của
Thánh Nicolas, tức là của những người chăm lo cho những nhu cầu thiết yếu của
kẻ yếu kém, được một định chế lành nghề nhận lãnh trách nhiệm, với danh xưng là
Caritas (Cơ Quan Bác Ái). Đảng Cộng Sản đã bãi bỏ cơ quan đó mà
người bảo hộ, sau thế chiến, là Đức Hồng Y Sapieha. Là người kế vị ngài, tôi đã
cố gắng hoạt động trở lại và yểm trợ cơ quan đó.
Trong lãnh vực nầy, Đức Ông
Ferdynand Machay, cha chính của Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Mông Triệu
Thăng Thiên ở Cracovie, đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Qua sự trung gian của ngài,
tôi làm quen với nữ tì của Chúa là Hanna Chrzanowska mà tôi đã nhắc tới.
Chị là con gái của đại giáo sư Ignacy Chrzanowski, bị bắt ở đầu thế
chiến. Tôi nhớ lại vị giáo sư đó rõ lắm, mặc dù tôi không thể biết nhiều vì
không gần gũi.
Nhờ sự dấn thân của chị
Hanna Chrzanowska mà đã phát sinh và triển nở mục vụ bệnh nhân trong tổng giáo
phận. Chị đã có nhiều sáng kiến, trong đó có chương trình hồi hưu cho những
bệnh nhân ở Trzebinia. Đó là một sáng kiến mang nhiều lợi ích: nhiều người đã
đóng góp vào, kể cả những thanh thiếu niên sẵn sàng giúp đỡ.
Trong Tông Thư nhân dịp đầu
tân thiên niên kỷ, tôi đã nhắc lại với mọi người sự cần thiết phải vun trồng
một tình thương sáng tạo. Tôi đã viết: “Đây
là giờ của trí tưởng tượng mới về lòng
bác ái” (Novo millennio ineunte, số 50). Làm sao, trong bối
cảnh nầy, không thể không gợi lại hình ảnh mà chúng ta đã biết về Mẹ Têrêxa
như là một “nữ thừa sai bác ái” đích
thực?
Ngay từ những ngày đầu tiên
tiếp theo sau cuộc tuyển chọn tôi lên ngai tòa Thánh Phê-rô, tôi đã gặp nữ tu
vĩ đại đó, trong thân hình nhỏ bé mà từ đó Mẹ đã thường đến thăm tôi để thuật
lại những nơi chốn và thời gian mà Mẹ đã thành công trong việc mở ra những nhà
mới là những tổ ấm của sự ân cần đối với những người nghèo hèn nhất.
Sau sự sụp đổ của Đảng Cộng
Sản ở Albanie, tôi có thể thăm viếng đất nước đó. Mẹ Têrêxa cũng có mặt ở đó
nữa. Thật ra Albanie là quê hương của Mẹ. Tôi còn gặp Mẹ nhiều lần nữa, luôn
luôn thu nhặt những chứng tích mới về sự tận tụy say mê của Mẹ vì những người
nghèo hèn nhất trong số những người nghèo.
Mẹ Têrêxa qua đời ở
Calcutta, đã lưu lại một ký ức thâm sâu và một công trình phong phú nơi vô số
con cái thiêng liêng của Mẹ. Khi còn sinh thời, Mẹ đã được nhiều người xem như
một vị thánh. Khi nhắm mắt, Mẹ đã được mọi người công nhận như thế.
Tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi
được phong chân phước cho Mẹ vào tháng 10 năm 2003, khi sắp tới lễ kỷ niệm 25
năm triều đại giáo hoàng của tôi. Lúc bấy giờ tôi đã nói:
“Qua chứng tá của đời sống mình, Mẹ Têrêxa nhắc nhở cho mọi người là sứ
vụ Phúc Âm hóa của Giáo Hội phải trải qua đức bác ái, được nuôi dưỡng bởi lời
cầu nguyện và bởi việc lắng nghe Lời Chúa.
Chúng
ta tìm gặp một biểu tượng hùng hồn của phong cách thừa sai đó nơi hình ảnh biểu
thị vị tân Chân Phước mà một tay nắm chặt tay một em bé trong khi tay kia đang
lần tràng hạt. Chiêm niệm và hành động, Phúc Âm hóa và thăng tiến nhân sinh: Mẹ
Têrêxa loan báo Tin Mừng bằng đời sống hoàn toàn ban tặng cho người nghèo, nhưng
đồng thời cũng thấm nhuần sự cầu nguyện.”
(19-10-2003).
Đó là huyền nhiệm của việc
Phúc Âm hóa qua tình thương đối với con người, phát xuất từ tình yêu đối với
Thiên Chúa. Tiến trình đó bao gồm đức ái mà giám mục phải luôn luôn múc
lấy nguồn cảm hứng trong mỗi một hoàn cảnh can dự của ngài.
CHƯƠNG
IV: TÌNH PHỤ TỬ CỦA GIÁM MỤC
“Tôi quỳ trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc
mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Ep
3, 14-15)
1.- Hợp tác với
giáo dân
Giáo dân có thể thực hiện
ơn gọi của họ giữa trần thế và đạt tới sự thánh thiện, không những bằng cách
dấn thân tích cực cho người nghèo khó, mà còn sinh động hóa xã hội bằng tinh
thần Kitô giáo, qua việc thực thi những bổn phận chuyên môn của họ và sự chứng
tá của một đời sống gia đình gương mẫu.
Không những tôi tưởng tới
những ai đang nắm giữ những chức vụ hàng đầu ở trong xã hội, mà còn tới tất cả
những người biết biến đổi đời sống thường nhật của họ bằng lời cầu nguyện, bằng
cách đặt để Chúa Kitô ở trung tâm điểm hoạt động của họ. Chính Ngài đã lôi cuốn
tất cả mọi người về với Ngài, làm thỏa mãn “lòng dạ khao khát sự công chính
của họ” (Xem Mt 5, 6).
Đó không phải là bài học
rút ra từ phần kết luận của dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu hay sao (Lc
10, 34-35)? Sau khi chính mình đã săn sóc trước tiên cho kẻ bị thương, người
Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu hướng đến người chủ quán để người nầy tiếp tục săn sóc
cho anh ta. Làm sao chủ quán có thể săn sóc cho kẻ bị thương mà không có người
Sa-mari-ta-nô nhân hậu?
Thật vậy, trong khi ở trong
bóng tối, ông chủ quán thực hiện một phần lớn công tác. Tất cả mọi người có thể
hành động như ông ta, thực thi bổn phận của họ trong tinh thần phục vụ. Hết mọi
công việc đều hiến tặng một cơ hội – trực tiếp nhiều hay ít – để giúp đỡ những
ai cần đến.
Thông thường điều đó được kiểm
chứng một cách hoàn toàn đặc biệt qua công tác của giới bác sĩ, giáo sư, chủ xí
nghiệp, ít nhất là trong trường hợp những người đó không nhắm nghiền mắt lại
khi đứng trước nhu cầu của kẻ khác.
Cũng thế, một nhân công,
thợ thuyền, nông phu có thể tìm được nhiều cách thế để phục vụ người thân cận,
cho dẫu khi phải đối diện với những khó khăn cá nhân, đôi khi thật nặng nề.
Việc thực thi một cách trung thành những bổn phận chuyên môn của mình đã là một
sự thực hành tình thương đối với người khác và đối với xã hội rồi.
Về phần mình, giám mục được
kêu gọi không những chính mình phải cổ võ những sáng kiến xã hội của Kitô giáo
thuộc loại đó, mà còn cho phép để trong Giáo Hội của mình, nảy nở những công
tác được kẻ khác gợi lên. Ngài chỉ phải lưu tâm là để cho mọi việc được thực
thi trong tình bác ái và lòng trung thành với Chúa Kitô là “Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”
(Dt 12, 2) mà thôi.
Nên khuyến khích người khác
đã đành, nhưng cũng cho phép bất cứ ai biểu lộ thiện chí muốn được ở lại trong
ngôi nhà chung là Giáo Hội. Với tư cách là giám mục, tôi đã yểm trợ nhiều sáng
kiến của giáo dân. Những sáng kiến đó rất đa dạng: chẳng hạn Văn Phòng Mục Vụ
Gia Đình, những cuộc gặp gỡ nghiên cứu cho các chủng sinh và sinh viên y khoa
gọi là “Kler-med”, tức Học Viện Gia Đình.
Trước thế chiến, Công
Giáo Tiến Hành rất sống động, với bốn ngành: nam, nữ, thanh nam, thanh nữ.
Hiện nay Công Giáo Tiến Hành đang hồi sinh ở Ba-lan.
Trước kia tôi cũng là chủ
tịch ủy ban tông đồ giáo dân của Hội Đồng Giám Mục Ba-lan. Tôi đã yểm trợ tạp
chí định kỳ Công giáo Tygodnik Powszechny và tôi đã cố gắng khuyến khích
nhóm người nầy. Điều đó đặc biệt cần thiết lúc bấy giờ. Tôi thấy đến với tôi
những biên tập viên, những nhà nghiên cứu, những bác sĩ, những nghệ sĩ…Đôi khi
họ đi vào cách lén lút, bởi vì chúng tôi đang ở vào thời kỳ độc tài Cộng
Sản.
Người ta cũng tổ chức những
hội nghị chuyên đề: căn nhà gần như luôn luôn đầy ắp người ra kẻ vào,
tràn đầy sức sống. Và các nữ tu Thánh Tâm phải lo nuôi ăn chừng ấy người…Tôi
cũng tiếp cận với nhiều sáng kiến mới và đa dạng mà trong đó tôi nhận ra sinh
khí của Thánh Thần Chúa.
Ngược lại ở Roma, tôi chỉ
gặp gỡ phong trào “Chemin néocatéchuménal” (“Hành Trình Tân Tòng Mới”)
cũng như “Opus Dei” (“Dòng Chủ Nghiệp”) mà tôi đã nâng lên Phủ
Doãn Tông Tòa vào năm 1982. Đó là hai thực thể giáo sĩ đòi buộc một sự dấn thân
rất lớn về phía giáo dân. Hai sáng kiến đó phát sinh ở Tây-ban-nha là một xứ sở
mà qua lịch sử đã biết bao lần nảy sinh những sự thối thúc của Chúa Quan Phòng
đối với sự đổi mới tâm linh.
Vào tháng 10 năm 2002, tôi
vui mầng ghi vào sổ bộ các Thánh ngài Josémaría Escrivá de Balaguer, vị
sáng lập Opus Dei là một linh mục nhiệt thành, một tông đồ đối với giáo dân của
thời đại mới.
Suốt những năm thi hành sứ
vụ giám mục của tôi ở Cracovie, tôi luôn cảm thấy sự hiện diện linh thánh của
những thành viên thuộc phong trào “Công Tác Đức Mẹ” – “Focolarini”.
Tôi cảm phục hoạt đông tông đồ năng động của họ nhằm làm sao Giáo Hội luôn trở
nên “mái ấm và học đường của sự hiệp
thông” ngày càng tăng trưởng. Kể từ khi tôi được gọi lên ngai tòa Roma, tôi
đã tiếp đón chị Chiara Lubich nhiều lần, với nhiều người đại diện thuộc
nhiều ngành khác nhau của Phong Trào Focolarini.
“Hiệp Thông và Giải
Phóng” là một phong trào khác phát sinh từ sự sống động của Giáo Hội ở quốc
gia Ý. Vị khởi xướng phong trào là Đức Cha Luigi Giussani.
Thật biết bao sáng kiến ở
trong giới giáo dân mà tôi đã tiếp cận trong suốt những năm tháng đó. Chẳng hạn
ở Pháp, tôi liên tưởng tới phong trào “Tổ Ấm” (“Arche”) cũng như “Đức Tin và Ánh Sáng” của Jean Vanier.
Còn nhiều sáng kiến khác
nữa mà tôi không thể ghi ra hết ở đây vì danh sách quá dài. Thật đủ cho tôi để
nói lên rằng tôi đã hỗ trợ và những sáng kiến đó luôn hiện diện trong lời cầu
nguyện của tôi. Tôi đặt nhiều hy vọng nơi những sáng kiến nói trên, ước mong
bằng cách đó, được thực hiện lời mời gọi trong Phúc Âm: “Cả các anh nữa,
hãy đi vào vườn nho của tôi” (Mt 20, 4).
Về đề tài nầy, tôi đã viết
trong Tông Huấn “Christifideles laici” (“Kitô hữu giáo dân”): “Lời mời gọi không chỉ nhắm vào các mục tử,
các linh mục và nam nữ tu sĩ, mà còn mở rộng tới tín hữu giáo dân nữa vì chính
họ cũng được Chúa đích thân mời gọi. Họ nhận lãnh từ Chúa sứ vụ đối với Giáo
Hội và đối với trần thế” (số 2).
2.- Hợp tác với
các hội dòng
Tôi luôn giao hảo tốt và
hợp tác với các hội dòng. Ở Ba-lan, có lẽ Cracovie là tổng giáo phận tập trung
nhiều hội dòng nhất – nam cũng như nữ. Nhiều dòng phát sinh tại đó, nhiều dòng
khác tới định cư ở đây, chẳng hạn dòng các Nữ Tu Thánh Felix đến từ
những vùng đất thuộc vương quốc Ba-lan xưa kia.
Giờ đây tôi hướng tâm tư về
với Chân Phước Honorat Kosminski là vị sáng lập nhiều cộng đoàn nữ tu
mặc thường phục – hoa trái của lòng nhiệt thành mục vụ ở tòa cáo giải. Về
phương diện đó, ngài là một thiên tài. Dưới sự hướng dẫn của ngài có Chân Phước
Maria Angela Truskowska là vị sáng lập dòng Nữ Tu Thánh Félix. Chân
Phước Truskowska được mai táng trong nhà thờ của dòng ở Cracovie.
Điều cần nhắc nhở là ở
Cracovie, những dòng tu đông nhất là những dòng cổ xưa, bắt nguồn từ thời Trung
Cổ như dòng Phan-xi-cô và dòng Đa-minh hay vào thời kỳ Phục Hưng
như dòng Tên hay dòng Khất Sĩ. Các tu sĩ những dòng đó nói chung
có những cha giải tội nổi tiếng, ngay cả đối với các linh mục. (Ở Cracovie, các
linh mục hay xưng tội với các cha dòng Khất Sĩ).
Vào thời kỳ quốc gia Ba-lan
bị phân chia, nhiều dòng đã định cư ở tổng giáo phận Cracovie, bởi vì không thể
bành trướng trong vương quốc Ba-lan, họ đổ dồn vào vùng đất lúc bấy giờ là cộng
hòa Cracovie mà ở đó người ta có thể hưởng một sự tự do tương đối.
Chứng cớ hiển nhiên nhất về
những tiếp xúc tốt đẹp giữa tôi với các hội dòng là việc Đức Giám Mục Albin
Malysiak thuộc dòng Thừa Sai. Ngài là một linh mục chánh xứ nhiệt tình của
miền Cracovie-Nowa Wies, trước khi được bổ nhiệm giám mục. Chính tôi đã tiến cử
ngài cùng với Đức Cha Stanislaw Smolenski và cũng chính tôi đã tấn phong
cả hai vị.
Các hội dòng không bao giờ
làm cho đời sống tôi trở nên khó khăn. Tôi có liên hệ tốt đẹp với tất cả các
hội dòng, vì nhận thấy nơi họ một sự hỗ trợ quan trọng cho mục vụ giám mục. Tôi
cũng nghĩ tới những nguồn trữ lượng lớn lao về năng lực tâm linh của các hội
dòng chiêm niệm.
Ở Cracovie, có hai dòng Cát-Minh
(ở đường Kopernika và Lobzowska). Còn có các nữ tu của Thánh Claire
(Clarisses), các nữ tu của Thánh Đa-minh, các nữ tu dòng Thăm Viếng
(Visitandines) và các nữ tu dòng Thánh Biển Đức (ở Staniatki). Đó là
những trung tâm cầu nguyện lớn lao: cầu nguyện và thống hối và cả dạy giáo lý
nữa.
Tôi nhớ lại có lần đã ngỏ
lời với các nữ tu dòng kín: “Ước mong
chấn song sắt nầy liên kết các chị với thế giới và không chia cách các chị. Các
chị hãy bao trùm mặt địa cầu bằng chiếc áo choàng cầu nguyện của các chị!”
Tôi xác tín rằng các chị thân yêu đó, sống rải rắc trên khắp địa cầu, luôn ý
thức là họ sống cho thế giới và không ngừng phục vụ Giáo Hội hoàn vũ bằng sự tự
hiến, đời sống thinh lặng và sự cầu nguyện thâm sâu.
Bất cứ giám mục nào cũng có
thể tìm ở nơi họ một sự hỗ trợ lớn lao. Hơn một lần, tôi đã có kinh nghiệm đó,
khi phải đối diện với những vấn đế nan giải, tôi đã xin những hội dòng chiêm
niệm khác nhau hỗ trợ tôi bằng lời cầu nguyện. Tôi cảm thầy quyền lực của sự
can thiệp đó, và nhiều lần tôi đã cám ơn những người hội họp nhau trong những
phòng nhỏ cầu nguyện đã giúp đỡ tôi vượt lên trên những hoàn cảnh tuyệt vọng,
xét theo bản tính con người.
Các nữ tu Ursulines
có một ký túc xá ở Cracovie. Mẹ Angela Kurpisz luôn luôn mời tôi giảng
cấm phòng cho các nữ sinh. Tôi năng lui tới dòng nữ tu Ursulines áo tím ở Jaszczurówka
(Zakopane). Hằng năm tôi được hưởng lòng hiếu khách của
họ.
Có một tập tục như sau: nửa
đêm ba mươi Tết dương lịch, tôi dâng Thánh Lễ nơi dòng nữ Phan-xi-cô ở
Cracovie. Sáng mồng một Tết dương lịch, tôi tới dòng các nữ tu Ursulines ở
Zakopane, rồi đi trượt tuyết.
Thông thường vào thời kỳ
đó, trời đổ tuyết nhiều. Một cách tổng quát, tôi ở lại nơi các nữ tu nầy cho
tới ngày 6 tháng giêng. Vào ngày đó, tôi ra đi lúc xế trưa, để kịp dâng Thánh
Lễ lúc 6 giờ chiều ở nhà thờ chính tòa Cracovie. Sau đó, có cuộc gặp gỡ ở Wawel
để trao đổi quà Giáng Sinh.
Tôi nhớ lại lần kia, trong
khi đi trượt tuyết, có lẽ với cha Józef Rozwadowski (giám mục tương lai
ở Lódz), cả hai chúng tôi bị lạc trong miền phụ cận thung lũng Chocholowska.
Kế đó, chúng tôi phải chạy “như điên” – theo như thành ngữ thông dụng – để tới
kịp giờ.
Thường khi, ngay cả trong
những ngày tĩnh tâm, tôi đi tới Pradnik Czerwony, nơi dòng các nữ tu
Thánh Albert (Albertines). Tôi cảm thấy rất thoải mái ở đây. Tôi lui tới
Rzaska, vùng phụ cận Cracovie. Tôi là bạn thân của các tiểu muội dòng Charles
de Foucauld và tôi hợp tác với họ.
Như đã nhấn mạnh trên đây,
tôi đã trải qua nhiều ngày ở đan viện Biển Đức Tyniec. Chính tôi đã cấm
phòng ở đó. Tôi biết cha Piotr Rostworowski rất nhiều. Tôi cũng đã nhiều
lần xưng tội với cha. Tôi cũng biết cha Augustyn Jankowski là một nhà
nghiên cứu Thánh Kinh và bạn đồng sự trong ngành giáo dục. Cha thường gởi cho
tôi những sách mới.
Tôi đi đến Tyniec và ở nơi
các cha dòng Thánh Romuald (Camaldules) ở Bielany trong những
ngày tĩnh tâm. Khi tôi còn là linh mục trẻ, tôi đã hướng dẫn những cuộc cấm
phòng cho các giáo sư đại học thuộc giáo xứ Saint-Florian. Tôi nhớ lần
kia, ban đêm xuống nhà thờ: rất đỗi ngạc nhiên, tôi thấy nhiều sinh viên cầu
nguyện và theo chỗ tôi biết, họ đã quyết định thay phiên nhau chầu liên tục
suốt đêm.
Các dòng tu phục vụ Giáo
Hội và cũng phục vụ giám mục nữa. Thật khó mà không đánh giá cao chứng tá đức
tin của họ, căn cứ trên những lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, cũng
như nếp sống lấy nguồn cảm hứng từ lề luật của các vị Thánh nam nữ sáng lập
dòng. Chính nhờ một sự trung tín như thế mà những hội dòng khác nhau có thể duy
trì đặc sủng khởi nguyên và làm cho sinh hoa kết quả xuyên qua nhiều thế
hệ.
Người ta cũng không thể
quên gương bác ái huynh đệ là khởi nguồn của mỗi cộng đoàn tu trì. Do bản tính
con người, thỉnh thoảng có thể nảy sinh một đôi vấn đề, nhưng một giải pháp
luôn luôn có thể tìm ra nếu giám mục biết lắng nghe cộng đoàn tu trì, tôn trọng
quyền tự trị hợp pháp của họ và nếu cộng đoàn tu sĩ đến lượt mình, biết công
nhận thực sự nơi giám mục là người có trách nhiệm tối hậu về mục vụ trên địa
hạt giáo phận.
3.- Các linh
mục
Trong tổng giáo phận
Cracovie, những ơn gọi đông hơn và có nhiều năm, thật dồi dào đặc biệt. Chẳng
hạn sau tháng 10 năm 1956, những đơn xin nhập chủng viện gia tăng rõ rệt. Cũng
xảy ra như thế vào thời gian kỷ niệm một ngàn năm nước Ba-lan nhận phép thánh
tẩy. Hình như đó là một định luật, cứ sau những biến cố lớn lao, số ơn gọi lại
gia tăng. Quả thật, những ơn gọi nảy nở trên đất mùn của đời sống cụ thể dân
Chúa.
Đức Hồng Y Sapieha đã nói:
đối với giám mục, chủng viện là “con ngươi” (“pupilla oculi”),
cũng như nhà tập đối với cha bề trên hội dòng vậy. Điều đó thật dễ hiểu: những
ơn gọi là tương lai của giáo phận hay của dòng tu và sau cùng là của Giáo
Hội.
Riêng cá nhân tôi, tôi chăm
lo các chủng viện một cách đặc biệt. Ngay hôm nay đây, hằng ngày tôi vẫn cầu
nguyện cho tất cả các chủng viện ở Roma và một cách tổng quát hơn, cho hết mọi
chủng viện ở trong nước Ý, Ba-lan và trên thế giới. Tôi cầu nguyện một cách đặc
biệt cho chủng viện Cracovie. Chính từ nơi đó tôi đã xuất thân và tôi muốn ít
nhất là đền ơn bằng cách đó.
Khi còn là giám mục
Cracovie, tôi đã theo dõi các ơn gọi với một sự chú ý đặc biệt. Vào khoảng cuối
tháng sáu, tôi được thông báo số những người xin được nhận vào chủng viện cho
năm kế tiếp. Sau đó, khi họ sống ở trong chủng viện, tôi đã gặp gỡ từng người
một. Tôi đã trò chuyện với từng người, hỏi thăm tin tức gia đình họ và cùng với
họ, nhận thức ơn gọi của họ. Tôi cũng mời những chủng sinh xem lễ sáng trong
nhà nguyện của tôi rồi dùng điểm tâm. Đó là cơ hội rất tốt để tìm hiểu
họ.
Đêm vọng Giáng Sinh, tôi
hay dùng bữa ăn tối ở chủng viện hoặc mời các chủng sinh tới tòa tổng giám mục,
ở đường Franciszkanska. Họ không về với gia đình để vui mừng trong các ngày lễ
và bằng một cách nào đó, tôi muốn tưởng thưởng họ vì sự hy sinh
nầy.
Tất cả những điều đó có thể
thực hiện được khi tôi còn ở Cracovie. Tại Roma, điều đó khó hơn, bởi vì các
chủng sinh ở đây đông đúc hơn. Tuy nhiên, đích thân tôi đã thăm viếng tất cả và
tùy dịp thuận tiện, tôi đã mời các vị bề trên của họ tới Vatican.
Giám mục không thế bỏ lỡ cơ
hội trình bày cho giới trẻ lý tưởng cao đẹp của thiên chức linh mục. Quả tim
người trẻ có thể hiểu biết “tình yêu điên rồ” đòi buộc sự tận hiến bản thân
mình. Không có tình yêu nào lớn hơn Tình Yêu với chữ Y viết hoa! Trong cuộc
hành hương sau cùng của tôi ở Tây-ban-nha, tôi đã thổ lộ điều nầy với giới
trẻ:
“Tôi được phong chức linh mục khi hai mươi sáu tuổi. Kể từ đó, năm mươi
sáu năm trôi qua. Khi nhìn lui lại và nhớ tới những năm dài đó trong cuộc đời
tôi, tôi có thể cam đoan rằng thật đáng để tự hiến dâng đời mình vì cớ Chúa
Kitô và qua tình yêu đối với Ngài, hy sinh để phục vụ con người. Thật đáng để
hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm của Chúa và vì anh em mình!” (Madrid, 3
tháng năm 2003). Giới trẻ đã hiểu sứ điệp của tôi và đã đồng thanh la vang lên
như một điệp khúc: “Thật đáng! Thật đáng!”
Sự ân cần đối với những ơn
gọi cũng biểu lộ trong việc chăm lo việc chọn lựa đúng đắn những ứng sinh lãnh
chức linh mục. Giám mục phó thác cho các cộng sự viên của ngài, như là những
người đào luyện ở trong chủng viện, thi hành nhiều trách nhiệm liên hệ đến tác
vụ đó, nhưng trách nhiệm lớn lao nhất đối với việc đào tạo linh mục vẫn thuộc
phần vụ của ngài.
Thật sự chính giám mục chọn
lựa và kêu gọi nhân danh Chúa Kitô, khi ngài tuyên bố trong nghi lễ truyền
chức: “Nhờ sự hộ trì của Chúa Giêsu Kitô
là Chúa Cứu Chuộc chúng ta, chúng tôi chọn anh em làm linh mục” (Sách Lễ
Roma, Phong Chức linh mục).
Đó là một trách nhiệm lớn
lao. Thánh Phaolô đã cảnh cáo Timothée: “Anh
đừng vội đặt tay trên ai” (1Tm 5, 22). Lời cảnh cáo đó không
phát sinh bởi sự nghiêm ngặt đặc biệt nhưng do quan điểm sơ đẳng nhất thuộc về
trách nhiệm đối với một hiện thực có giá trị siêu đẳng, được trao phó vào tay
chúng ta. Chính vì sự tự hiến và huyền nhiệm của phần rỗi mà phải ấn định những
đòi hỏi bắt buộc đối với chức linh mục.
Tôi muốn nhắc lại ở đây
Thánh Józef Sebastian Pelczar (1842-1924), giám mục giáo phận Pzemysl,
mà tôi được dịp phong hiển thánh vào ngày sinh nhật thứ tám mươi ba của tôi,
cùng với Thánh Urszula Ledóchowska, đã được tôi nhắc nhở trên đây. Thánh
giám mục Pelczar được biết đến ở Ba-lan, đặc biệt bởi những tác phẩm của ngài.
Tôi sung sướng được nhắc lại ở đây quyển sách của ngài với nhan đề: “Suy
niệm về đời sống linh mục”.
Tác phẩm nầy được phát hành
ở Cracovie khi ngài còn là giáo sư đại học Jagellon. (Một ấn bản mới nhất được
ra đời cách nay vài tháng.) Quyển sách đó là thành quả đời sống tâm linh phong
phú của ngài và đã có một ảnh hưởng sâu đậm trên nhiều thế hệ linh mục Ba-lan,
đặc biệt vào thời đại của tôi. Theo một cách nào đó, đời sống linh mục của tôi
cũng được nhào nắn bởi tác phẩm khổ hạnh nầy.
Tarnów
và thành phố Przemysl bên cạnh là hai trong nhiều giáo phận, xét theo tỷ
lệ trên thế giới, có nhiều ơn gọi nhất. Trong giáo phận Tarnów, đức giám mục là
Đức Cha Jerzy Ablewicz, bạn tôi. Ngài đến từ Przemysl, thuộc di sản
thiêng liêng của Thánh Józef Pelczar.
Họ là những mục tử chân
chính, đặt lên hàng đầu những ràng buộc trước hết đối với chính họ, rồi đối với
những linh mục và chủng sinh. Tôi thiết tưởng đó là bí quyết của việc có nhiều
ơn gọi trong những giáo phận đó. Những lý tưởng cao đẹp và có nhiều ràng buộc
sẽ lôi cuốn giới trẻ.
Tôi luôn ấp ủ vào lòng sự
hợp nhất giữa “linh mục đoàn” (“presbyterium”). Để được tiếp xúc
dễ dàng với các linh mục, liền sau Công Đồng Vatican II, tôi lo thiết lập hội
đồng linh mục (năm 1968) để thảo luận những chương trình liên quan tới sinh
hoạt các linh mục đảm trách các linh hồn. Theo định kỳ trong năm, được tổ chức
trong những phân bộ khác nhau thuộc tổng giáo phận những cuộc gặp gỡ để bàn tới
những vấn đề cụ thể mà các linh mục nêu lên.
Qua cách sống của mình,
giám mục chứng tỏ “mô hình Chúa Kitô”
không phải lỗi thời, cho dẫu ngay cả trong những điều kiện thực tế ngày nay.
Người ta có thể nói được một giáo phận phản ảnh cách thức hành xử của vị giám
mục.
Những nhân đức của ngài –
như khiết tịnh, thực hành đức khó nghèo, tinh thần cầu nguyện, đức tính giản
dị, lương tâm nhạy cảm – theo một nghĩa nào đó, được khắc ghi vào con tim các
linh mục. Những người nầy, đến lượt họ, chuyển đạt những giá trị đó cho các tín
hữu đã được giao phó. Và chính nhờ thế, giới trẻ được khích lệ đáp lại một cách
đại độ tiếng gọi phát ra từ Chúa Giêsu.
Khi đề cập đến vấn đề nầy,
tôi không thể không nhớ tới những người đã rời bỏ chức linh mục. Giám mục cũng
không thể quên họ được: họ cũng được quyền có một chỗ trong quả tim người cha.
Thảm kịch của họ đôi khi tỏ lộ những bất cẩn trong vấn đề đào luyện linh
mục.
Cũng nằm trong việc đào
luyện linh mục đó là sự cảnh cáo can đảm trong tình huynh đệ, khi xét thấy cần
và về phần linh mục, sẵn sàng đón nhận một sự cảnh cáo như thế. Chúa Giêsu đã
nới với các tông đồ: “Nếu người anh
em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà
thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.”
(Mt 18, 15).
4.- Ngôi nhà giám
mục
Những cơ hội gặp gỡ người
khác không chỉ thực hiện qua các cuộc viếng thăm mục vụ và những sự can dự công
khai khác. Trong ngôi nhà số 3, đường Franciszkanska, cửa được rộng mở cho tất
cả mọi người. Giám mục là mục tử. Vì vậy, ngài phải tiếp xúc với mọi người,
sống cho mọi người và phục vụ mọi người. Mọi người luôn được tiếp xúc thẳng với
tôi. Cổng vào mở sẵn cho tất cả họ.
Dinh giám mục là trung tâm
của nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau, của những khóa họp khoa học. Chính đó cũng là
trung tâm diễn ra “những cuộc họp dành
cho các gia đình”. Một trong các phòng ốc được sắp xếp để người ta tham
khảo các vấn đề về gia đình.
Lúc bấy giờ là thời kỳ mà
mọi cuộc tụ tập của giáo dân dù quan trọng thế nào đều bị chính quyền xem như
hoạt động chống lại nhà nước. Ngôi nhà giám mục trở nên nơi trú ẩn.
Tôi đã mời đủ hạng người:
những nghiên cứu gia, triết gia, những nhà nghiên cứu khoa học nhân văn. Cũng
chính ở đó diễn ra những cuộc hội họp thường xuyên với các linh mục. Nhiều lần
phòng khách dùng làm phòng họp. Như đã nhắc đến, Viện Thần Học Gia Đình và các
đại chủng viện “Kler-med” cũng diễn ra ở đó. Người ta có thể nói được ngôi nhà
đó “đầy sinh khí”.
Gắn liền với ngôi nhà tổng
giám mục Cracovie là nhiều kỷ niệm liên hệ tới khuôn mặt của vị tiền nhiệm vĩ
đại của tôi, hiện đang còn lưu lại trong ký ức nhiều thế hệ linh mục như là
chứng tá không thể sánh kịp về mầu nhiệm tình phụ tử. Vị “hoàng tử dũng cảm”,
chính đó là danh xưng người ta thường gọi Đức Tổng Giám Mục Adam Stefan
Sapieha như thế.
Ngài đã trải qua hai trận
thế chiến và thời kỳ chiếm đóng với tước hiệu đó. Chắc chắn ngài đã có một chỗ
đặc biệt trong lịch sử ơn gọi của tôi. Chính ngài đã đón tiếp sự triển nở ban
đầu của ơn gọi đó. Tôi đã đề cập tới điều đó trong quyển sách “Ơn gọi của
tôi: Tặng phẩm và huyền nhiệm”.
Đức Hồng Y hoàng tử Sapieha
là một nhà quý tộc Ba-lan theo đúng nghĩa danh xưng đó. Ngài sinh ra ở Krasiczyn,
vùng phụ cận Przemysl. Tôi cố ý tới đó một lần để ngắm xem lâu đài mà ngài đã
sinh ra. Ngài trở thành linh mục giáo phận Lvov. Vào thời đại Đức Piô X, ngài
phục vụ ở Vatican, trong vai trò bí thư. Trong thời gian đó, ngài đã giúp ích
rất nhiều cho Ba-lan.
Vào năm 1912, ngài được bổ
nhiệm giám mục và được Đức Piô X tấn phong trực tiếp cùng chỉ định ngôi tòa
Cracovie. Đức Cha Sapieha đã tiếp nhận tổng giáo phận Cracovie cũng năm đó, ít
lâu trước khi Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ.
Trong thế chiến, ngài đã
thành lập ủy ban giám mục Cracovie để giúp đỡ những nạn nhân bị tai họa chiến
tranh, thường được gọi là “ủy ban hoàng
tử giám mục”. Cùng với thời gian, ủy ban đó mở rộng hoạt động cho đến đỗi
bao trùm toàn cõi đất nước. Đức Cha Sapieha tích cực hoạt động một cách lạ
thường trong những năm khói lửa, và như thế ngài đưọc cả nước hết sức tôn
trọng.
Ngài chỉ trở thành hồng y
sau Đệ Nhị Thế Chiến. Từ thời kỳ Olesnicki, đã có những hồng y ở Cracovie là
các Đức Tổng Giám Mục Danajewski và Puzyna. Tuy nhiên, Đức Cha Sapieha xứng
đáng hơn tất cả với tước hiệu “Hoàng Tử
dũng cảm”.
Vâng, Đức Hồng Y Sapieha
đối với tôi là một mẫu mực thực sự, bởi vì trước hết ngài là một mục tử. Trước
khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, ngài đã tấu trình với Đức Thánh Cha là ngài muốn
từ bỏ trọng trách thuộc tổng giáo phận Cracovie để hưu trí. Nhưng Đức Piô XII
không đồng ý. Đức Thánh Cha đã trả lời ngài: “Hiện nay chúng ta đang gặp phải chiến tranh, người ta cần tới Hiền
Huynh.” Đức Hồng Y Sapieha đã qua đời trong chức vị hồng y trên ngai tòa
Cracovie vào lúc được tám mươi hai tuổi.
Trong bài giảng Thánh Lễ an
táng, Đức Hồng Y giáo chủ Wyszynski đã nêu lên những câu hỏi thật có ý nghĩa.
Ngài nói:
“Các anh em linh mục thân mến, khi chúng tôi nhìn xem anh em, chúng tôi
là những người đã đón tiếp anh em và là bạn hữu của anh em. Anh em là
những người đang tụ họp như là một vòng cung chắc nịch bằng những quả tim bao
quanh quan tài nầy đang chứa đựng thi hài của con người mảnh khảnh đó, một con
người không thể so sánh với anh em được về tầm vóc lẫn sức lực. Hởi các linh
mục Cracovie, tôi tha thiết muốn hỏi anh em, để tăng trưởng kinh nghiệm của tôi
và để đào sâu sự minh triết mà một mục tử cần đến:
Anh
em yêu mến điều gì nơi ngài? Điều gì nơi ngài đã chinh phục quả tim anh em? Anh
em đã thấy điều gì nơi ngài? Tại sao anh em đã gắn bó với tâm hồn đó, cũng như
toàn thể nước Ba-lan? Quả thật ở đây người ta có thể nói tới tình yêu của linh
mục đoàn (presbyterium) giáo
phận đối với đức tổng giám mục của mình.”
(Ksiega Sapiezynska,
Cracovie 1986, tr. 776).
Quả đúng như thế, cuộc lễ
an táng đó vào tháng bảy năm 1951 là một biến cố phi thường xảy ra vào thời
Staline: một đám tang dài đi từ đường Franciszkanska tới Wawel, với một đơàn
người chắc nịch bước đi, trong đó có các linh mục, những tu sĩ và giáo dân. Họ
bước đi và chính quyền không dám quấy rầy đoàn người đi theo quan tài. Họ cảm
thấy bất lực khi đối diện biến cố đó.
Người ta có thể tưởng tượng
vì lẽ đó, họ đã có thể tạo ra vụ kiện hồi tố đối với Đức Hồng Y Sapieha,
sau vụ kiện đối với triều chính thuộc tổng giáo phận Cracovie. Đảng Cộng Sản
không dám đụng tới ngài khi còn sống, mặc dù chính ngài đã dự kiến điều đó, đăc
biệt khi họ đã bắt bớ Đức Hồng Y Mindszenty, giáo chủ Hung-gia-lợi, nhưng họ
không có can đảm làm như vậy.
Chính vào thời đại của ngài
mà tôi vào chủng viện: trước hết tôi là chủng sinh, sau đó trở thành linh mục.
Đối với ngài, tôi có một sự tín nhiệm rất lớn và có thể nói được, tôi yêu mến
ngài cũng như các linh mục khác vậy. Người ta thường thấy viết trong các sách
rằng, bằng một cách nào đó, Đức Hồng Y Sapieha đã chuẩn bị cho tôi, điều đó có
thể đúng. Đó cũng là một trách nhiệm của vị giám mục: chuẩn bị những ai có thể
thay thế mình, tùy hoàn cảnh.
Các linh mục đánh giá ngài
cao, có thể vì ngài là một hoàng tử, nhưng họ yêu mến ngài trước tiên bởi vì đó
là một người cha, vì ngài đầy lòng ân cần đối với con người. Và chính đó là
điều đáng kể nhất: một giám mục phải là một người cha.
Thật vậy, không người đàn
ông nào biểu lộ trọn vẹn tình phụ tử, bởi vì điều đó chỉ thể hiện trọn vẹn nơi
Thiên Chúa là Cha. Nhưng chúng ta tham dự một cách nào đó vào tình phụ tử của
Chúa. Tôi đã biểu thị chân lý đó trong bài suy niệm về sự huyền nhiệm của người
cha nhan đề là “Những tia sáng của tình phụ tử”.
5.- Tình phụ tử
theo gương Thánh Giuse
Mục vụ giám mục dĩ nhiên là
một trọng trách, nhưng giám mục phải chiến đấu bằng tất cả nghị lực để đừng trở
thành một “công bộc”. Ngài không bao
giờ quên mình là một người cha. Như tôi đã nói, hoàng tử Sapieha được
yêu mến rất nhiều, bởi vì ngài là một người cha đối với các linh mục.
Khi tôi nghĩ tới một người
có thể được xem như người giúp đỡ hay mẫu mực cho tất cả những ai được kêu gọi
tham gia vào tình phụ tử – trong đời sống gia đình hay trong đời sống linh mục
và hơn thế nữa là trong sứ vụ giám mục – chính Thánh Giuse đã tới trong
trí óc tôi.
Đối với tôi, việc tôn kính
Thánh Giuse cũng được gắn liền với kinh nghiệm của tôi ở Cracovie. Đường Poselska,
gần dinh giám mục, có các nữ tu dòng Thánh Bernard. Trong ngôi thánh đường của
họ, được đích xác cung hiến cho Thánh Giuse, ở đó có chưng bày Mình Thánh Chúa
ngày đêm. Trong những lúc rảnh rỗi, tôi đến đó để cầu nguyện và ánh mắt tôi
thường hướng về bức tượng tuyệt đẹp của người cha được coi là cha của Chúa
Giêsu, rất được tôn kính trong ngôi thánh đường đó.
Cũng một lần kia, tôi đã
giảng cấm phòng cho các luật gia. Tôi luôn ưa thích tưởng tới Thánh Giuse trong
bối cảnh Thánh Gia Thất: Chúa
Giêsu, Mẹ Maria, Thánh Giuse. Tôi đã kêu cầu cả ba Đấng hộ phù, khi phải
đối diện với nhiều vấn nạn khác nhau. Tôi hiểu một cách dễ dàng sự hợp nhất và
tình yêu đã hòa hợp nhau trong Thánh Gia Thất: ba con tim, một tình yêu. Một cách đặc biệt, tôi đã phó thác cho
Thánh Giuse mục vụ gia đình.
Ở Cracovie, còn có một ngôi
thánh đường khác được cung hiến cho Thánh Giuse, đó là thánh đường Podgórze.
Tôi đã lui tới đó trong những cuộc thăm viếng mục vụ của tôi.
Nguyện đường Thánh Giuse ở Kalisz
cũng trang trọng lắm. Ở đó thường quy tụ những nhóm hành hương tạ ơn, có các
linh mục đi theo. Họ là những cựu tù nhân ở Dachau. Trong trại tù Đức Quốc Xã
đó, một nhóm người bị lưu đày đã phó thác mình cho Thánh Giuse và họ đã được
cứu thoát.
Khi được về lại Ba-lan,
hằng năm họ bắt đầu đi hành hương để tạ ơn Thánh Giuse ở nguyện đường Kalisz và
họ luôn mời tôi cùng tháp tùng với họ. Ở giữa họ, có Đức Tổng Giám Mục Kazimierz
Majdanski, Đức Giám Mục Ignacy Jez, cũng như Đức Hồng Y Adam
Koslowiecki, thừa sai ở Phi châu.
Thiên Chúa Quan Phòng đã
chuẩn bị Thánh Giuse làm tròn vai trò người cha của Chúa Giêsu Kitô. Trong Tông
Huấn tôi dành cho Ngài “Redemptoris Custos” (“Đấng Bảo Trợ Chúa Cứu
Thế”), tôi đã viết: “Căn cứ theo
những văn bản Phúc Âm, việc hôn nhân của Mẹ Maria làm nền tảng pháp lý cho tình
phụ tử của Thánh Giuse. Chính vì để đảm bảo sự hiện diện của một người cha nơi
Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse làm chồng Mẹ Maria. Do đó, tình
phụ tử của Thánh Giuse – sự liên hệ đặt để Ngài rất gần gũi với Chúa Kitô, cứu
cánh của mọi lựa chọn và của mọi tiền định – được thông qua bởi việc hôn nhân với Mẹ Maria” (số 7).
Thánh Giuse được kêu gọi
làm chồng rất thanh sạch của Mẹ Maria, chính để phục vụ trong vai trò người cha
đối với Chúa Giêsu. Tình phụ tử của Thánh Giuse, cũng như tình mẫu tử của Rất
Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, trước hết mang một đặc tính Kitô học.
Tất cả những đặc ân của Mẹ
Maria xuất phát bởi sự kiện Mẹ là Mẹ Chúa Kitô. Cũng giống như thế, hết mọi đặc
ân của Thánh Giuse phát xuất bởi sự kiện Ngài có trọng trách phục vụ Chúa Kitô
trong tư cách người cha.
Chúng ta biết Chúa Kitô ngỏ
lời với Thiên Chúa bằng “Abba” (“Cha”), một tiếng dịu dàng thân
mật mà con cái trong nước của Ngài ngỏ với người cha của họ như vậy. Có lẽ Ngài
cũng ngỏ với Thánh Giuse, bằng cách dùng cũng một tiếng đó, như những đứa trẻ
khác.
Không biết có thể nói hơn
nữa về huyền nhiệm của tình phụ tử loài người hay không? Trong tư cách con
người, chính Chúa Kitô đã có kinh nghiệm về tương quan dòng hệ với Thánh Giuse.
Sự đối diện với Thánh Giuse như là người cha được lồng vào trong sự mạc khải mà
tiếp theo đó Chúa Kitô đã gọi Thiên Chúa là Cha. Đó là một sự huyền nhiệm thâm
sâu.
Với tư cách Thiên Chúa,
Chúa Kitô đã có kinh nghiệm riêng về tình phụ tử Thiên Chúa và sự liên hệ giữa
Chúa Ba Ngôi. Trong tư cách con người, ngài có kinh nghiệm về dòng hệ nhờ Thánh
Giuse. Về phần mình, Thánh Giuse ban tặng cho trẻ nhỏ Giêsu lớn lên bên cạnh
mình sự hỗ trợ quân bình thuộc dương tính, sự sáng suốt nhận định những vấn nạn
và lòng quả cảm.
Ngài đã làm trọn vai trò
của mình với những đức tính của người cha tuyệt vời nhất trong các người cha,
múc lấy sức mạnh trong suối nguồn tuyệt đỉnh “là nguồn mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3, 15).
Và cùng một trật, đối với những gì liên hệ đến thực tế nhân sinh, Thánh Giuse
đã dạy bảo nhiều điều cho Con Thiên Chúa. Và ngài đã xây dựng một mái ấm gia
đình trên trần thế để hiến tặng cho Người Con đó.
Cuộc đời Chúa Giêsu đối với
Thánh Giuse là một sự khám phá liên tục về chính ơn gọi của ngài để làm người
cha. Ngài đã trở thành người cha một cách phi thường mà không phải là nguồn gốc
làm nên thân thể của Người Con đó. Phải chăng đó là sự thực hiện tình phụ tử đã
được đề xuất như là mẫu mực đối với tất cả chúng ta là linh mục và giám
mục?
Và kỳ thực, tất cả những gì
tôi đã thi hành trong mục vụ của tôi thì tôi đã sống điều đó như là một sự thể
hiện tình phụ tử đó: rửa tội, giải tội,
cử hành Thánh Thể, giảng dạy, khuyên bảo, khuyến khích…tất cả những điều đó
luôn luôn đối với tôi là một sự thực thi chính tình phụ tử đó.
Cần phải suy nghĩ một cách
đặc biệt về mái ấm gia đình mà Thánh Giuse đã xây đắp cho Con Thiên Chúa khi đề
cập tới vấn đề độc thân của linh mục và giám mục. Quả thật đời sống độc thân
cho phép có thể thực hiện một cách trọn vẹn hình thức tình phụ tử đó: một thứ phụ tử trong trắng, hiến dâng trọn
vẹn cho Chúa Kitô và Đức Mẹ Đồng Trinh. Thoát khỏi mọi ràng buộc cá nhân
đối với đời sống gia đình, linh mục có thể tự
hiến hết con tim mình cho sứ vụ mục tử.
Vì vậy người ta hiểu được
sự cương quyết theo đó Giáo Hội thuộc nghi lễ La-tinh đã bảo vệ truyền thống
độc thân đối với các linh mục của mình, chống lại những áp lực mà qua bao thế
kỷ, đã biểu lộ khi nầy hay khi khác. Quả thật đó là một truyền thống với nhiều
đòi hỏi, nhưng chứng tỏ một sự phong phú đặc biệt, vì đã mang lại nhiều hoa
trái thiêng liêng.
Tuy nhiên cũng có lý do vui
mầng khi nhận thấy các linh mục lập gia đình trong Giáo Hội Công Giáo Đông
phương đã cống hiến những chứng tá tuyệt vời về lòng nhiệt thành thi hành mục
vụ. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu chống lại Cộng Sản, các linh mục lập gia
đình thuộc Giáo Hội Đông Phương cũng can trường không kém các linh mục độc
thân. Như Đức Hồng Y Josyf Slipyj đã nhận xét trước kia, khi đối đấu với
các đảng viên Cộng Sản, họ đã chứng tỏ một sự can đảm cũng như các linh mục độc
thân vậy.
Vả lại, cần phải nhấn mạnh
đến những lý do thần học sâu xa hỗ trợ vấn đề độc thân linh mục. Thông Điệp “Sacerdotis
caelibatus” (“Tư Tế độc thân”) ban hành năm 1967 bởi vị tiền nhiệm
đáng kính của tôi, được tóm gọn như sau (Xem số 19-34):
- Trước hết có một động
cơ thuộc Kitô học: khi được làm trung gian giữa Chúa Cha và nhân loại, Chúa
Kitô đã sống độc thân để tự hiến trọn mình phục vụ Thiên Chúa và loài người. Ai
quyết định thi hành sứ vụ của Chúa Kitô thì cũng được kêu gọi chia sẻ sự hiến
tặng đó.
- Tiếp đến có một động
cơ thuộc Giáo Hội học: Chúa Kitô đã yên mến Giáo Hội, tự hiến trọn vẹn
chính mình cho Giáo Hội để làm cho Giáo Hội trở nên hiền thê sáng lạn, thánh
thiện và không tì vết của Ngài. Qua việc lựa chọn đời sống độc thân, thừa tác
viên được thánh hiến đã chọn tình yêu đó của Chúa Kitô đối với Giáo Hội làm
tình yêu của mình và từ đó rút ra một sức mạnh siêu nhiên để có khả năng sinh
sản dồi dào về mặt thiêng liêng.
- Cuối cùng có một động
cơ thuộc cánh chung học: khi kẻ chết sống lại, như Chúa Giêsu đã nói, “người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng
sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22, 30). Đời sống độc
thân của linh mục tiên báo thời cánh chung của phần rỗi sẽ đến cùng dự đoán một
cách nào đó sự viên mãn của Nước Trời, và như thế xác quyết những giá trị siêu
đẳng đó một ngày kia sẽ chói lọi nơi hết mọi con cái của Chúa.
Trong ý hướng tranh cãi về
vấn đề độc thân, người ta thường đưa ra luận cứ sự đơn độc của đời sống linh
mục và giám mục. Căn cứ theo kinh nghiệm của tôi, tôi bác khước một cách mạnh
mẽ một luận cứ như vậy. Riêng cá nhân tôi, không
bao giờ tôi cảm thấy cô đơn.
Ngoài ý thức thân cận với
Chúa Giêsu, ngay cả trên bình diện nhân linh, tôi luôn luôn có nhiều người
chung quanh. Tôi đã xây đắp nhiều mối liên hệ thân tình với các linh mục – các
cha quản hạt, các cha chánh xứ và phó xứ – cùng với nhiều giáo dân thuộc mọi
giai tầng.
6.- Sống với dân
chúng
Còn phải nghĩ tới mái ấm
gia đình mà Thánh Giuse đã xây đắp cho Con Thiên Chúa, khi nói tới bổn phận làm
cha của giám mục, đó là sống với những ai đã được giao phó. Quả thật mái ấm gia
đình của giám mục là giáo phận. Không những vì ngài phải ở đó, làm việc ở đó,
nhưng trong một ý nghĩa thâm sâu hơn: mái
ấm gia đình của giám mục là giáo phận
bởi vì chính đây là nơi mà mỗi ngày ngài phải thể hiện lòng trung thành của
ngài đối với Giáo Hội, Hiền Thê của ngài.
Khi đối diện với những sự
lơ là dai dẳng trong lãnh vực đó, Công Đồng Trente đã nhấn mạnh
và xác định nghĩa vụ đối với giám mục phải định xứ trong giáo phận mình. Cũng
một trật, Công Đồng đã biểu lộ một trực cảm thâm sâu: giám mục phải ở với Giáo Hội của mình trong mọi thời điểm quan trọng.
Nếu không có một lý do chính đáng, giám mục không được rời giáo phận trong thời
gian quá một tháng.
Như thế ngài hành xử như
một người gia trưởng tốt lành, thường xuyên ở với những người thuộc về mình và
khi phải xa lìa họ, cảm thấy một sự luyến tiếc cùng ao ước trở về sống giữa họ
càng sớm càng tốt.
Khi nhắc lại điều đó, tôi
nhớ tới khuôn mặt của vị giám mục trung thành ở Tarnów, Đức Cha Jerzy
Ablewicz. Các linh mục trong giáo phận đều biết ngài không tiếp ai ngày thứ
sáu. Quả thật, vào ngày đó, ngài đi bộ hành hương đền thánh Đức Mẹ của giáo
phận ở Tuchów. Ngài vừa đi vừa soạn bài giảng cho Thánh Lễ Chúa nhật.
Người ta biết ngài chỉ đi
ra ngoài giáo phận vì miễn cưỡng mà thôi.
Ngài luôn luôn ở giữa những
người thuộc về ngài, trước hết bằng lời
cầu nguyện, sau đó bằng những sinh hoạt. Nhưng trước nhất bằng lời cầu
nguyện.
Sự huyền nhiệm của tình phụ
tử chúng ta được triển nở chính nhờ lời cầu nguyện. Trong tư cách là những con
người của đức tin, bằng lời cầu nguyện, chúng ta hiện diện trước Mẹ Maria và
Thánh Giuse để khấn cầu các Ngài hộ phù và như thế, cùng với các Ngài và với
tất cả nhũng ai được Chúa giao phó, chúng ta xây đắp tổ ấm cho Con Thiên Chúa
là Giáo Hội Thánh của Ngài.
7.- Nhà nguyện ở
số 3, đường Franciszkanska
Nguyện đường ở dinh tổng
giám mục Cracovie đối với tôi có một ý nghĩa rất đặc biệt. Chính ở đó tôi đã
được phong chức linh mục bởi Đức Hồng Y Sapieha ngày 1 tháng 11 năm 1946, cho
dù nơi thường được phong chức là nhà thờ chính tòa. Quyết định của Đức Giám Mục
gởi tôi du học ở Rome đã ảnh hưởng đến nơi chốn và ngày giờ tôi được phong chức
linh mục.
Thánh Phao-lô, từ đó cho
đến nay là tông đồ thành thạo, đã viết cho Timothée vào cuối đời ngài: “Hãy luyện tập sống đạo đức; vì luyện tập
thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi
Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức”
(1Tm 4, 7-8).
Nguyện đường trong dinh
giám mục, gần cho đến đỗi chỉ cần vói tay thì tới, là một đặc ân cho bất cứ một
giám mục nào, nhưng điều đó cùng một trật trở nên một cam kết lớn lao đối với
ngài. Nhà nguyện cũng gần để trong đời sống giám mục, tất cả mọi chuyện –
giảng dạy, lấy những quyết định, thi hành mục vụ – được phát sinh dưới
chân Chúa Kitô ẩn mình trong Phép Thánh Thể.
Về điều đó, riêng cá nhân
tôi đã có thể nhận xét những tập quán như thế nào của Đức Tổng Giám Mục
Cracovie, hoàng tử Sapieha. Đức Hồng Y Giáo Chủ Wyszynski, trong bài giảng tang
lễ ở Wawel, đã nói về ngài bằng những ngôn từ nầy:
“Giữa những khía cạnh cuộc sống của ngài, có một điều làm tôi suy nghĩ
rất nhiều. Lần kia, khi kết thúc một ngày làm việc, trong những khóa họp của
hội đồng giám mục đôi khi nhọc nhằn biết bao, mọi người mệt mỏi vội vã trở về
phòng, con người không hề biết mệt đó, trái lại, đi vào nhà nguyện lạnh lẽo của
mình và ở lại đó với Chúa trong bóng tối của đêm trường. Trong thời gian bao
lâu? Tôi không rõ. Trong những giờ làm việc khuya trong dinh tổng giám mục,
không bao giờ tôi được nghe những bước chân của Đức Hồng Y trở về từ nhà nguyện.
Tuy
nhiên, tôi biết một điều là với tuổi già, ngài được quyền nghỉ ngơi. Nhưng Đức
Hồng Y đã dùng cái cài bằng vàng để kẹp lại sự nhọc nhằn của một ngày dài làm
việc và gắn vào viên kim cương của lời cầu nguyện. Ngài đúng là một người cầu
nguyện”
(Ksiega sapiezynska, Cracovie
1986, tr. 776).
Tôi phải cố gắng bắt chước
một gương mẫu không thể sánh kịp. Trong nhà nguyện riêng của tôi, không những
tôi cầu nguyện, nhưng tôi còn ngồi và viết lách nữa. Chính ở đó tôi đã viết
sách, trong đó có bản chuyên khảo “Personne et Acte” (“Con Người và
Hành Động”). Tôi tin chắc nguyện đường là nơi phát xuất một sự cảm hứng đặc
biệt. Đó là một đặc ân lớn lao có thể cư ngụ và làm việc trong khung cảnh sự Hiện Diện đó. Một sự Hiện Diện hấp
dẫn, như một nam châm cực mạnh.
Người bạn thân thiết của
tôi là André Frossard, giờ đây đã ly trần, trình bày một cách sâu đậm
sức mạnh và vẻ đẹp của sự Hiện Diện đó, trong quyển sách của ông “Dieu
existe, je L’ai rencontré” (“Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”).
Để vào trước Mình Thánh Chúa cách thiêng liêng, không phải luôn luôn cần thiết
đi vào nhà thờ thực sự. Tôi luôn có một sự nhận thức ở nội tâm là chính Chúa
Kitô mới là chủ ngôi nhà giám mục và chúng ta, những giám mục, chỉ là những
người tạm thời thuê nhà mà thôi. Điều đó đúng ở đường Franciszkanska trong gần
hai mươi năm và cũng đúng như thế ở tại Vatican.
CHƯƠNG
V: TẬP THỂ TÍNH GIÁM MỤC
“Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người
sai các ông đi rao giảng.” (Mc 3, 14)
1.- Giám mục
trong giáo phận mình
Đối với tôi, Công Đồng
Vatican II là một khích lệ lớn lao để tăng cường hoạt động mục vụ của tôi. Thật
vậy, kể từ nay, mọi việc phải bắt đầu từ đó.
Ngày 3 tháng 6 năm 1963 Đức
Thánh Cha Gioan XXIII băng hà. Chính ngài đã triệu tập Công Đồng và Công
Đồng được khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962. Tôi được tham dự ngay từ buổi
đầu. Khóa đầu tiên khai mạc vào tháng 10 và bế mạc ngày 8 tháng 12. Tôi đã tham
dự các khóa họp với các nghị phụ, trong tư cách giám mục phó của tổng giáo phận
Cracovie.
Sau khi Đức Gioan XXIII
băng hà, vào ngày 21 tháng 6 năm 1963, mật nghị hồng y đã bầu tân giáo hoàng là
Đức Tổng Giám Mục Milan, tức Đức Hồng Y Giovanni Battista Montini, với danh
hiệu Phao-lồ VI. Vào mùa thu năm đó, Công Đồng tiếp tục khóa hai và tôi
cũng có mặt, cũng một chức vị.
Ngày 13 tháng giêng năm
1964, tôi được bổ nhiệm làm tổng giám mục Cracovie. Sự bổ nhiệm của tôi được
công bố ít lâu sau đó và ngày 8 tháng 3, vào Chúa nhật “Laetare”, tôi đã
tiến vào nhà thờ chính tòa Wawel cách trọng thể.
Tôi nhớ lại, khi bước vào
ngưỡng cửa nhà thờ chính tòa, Giáo Sư Franciszek và Đức Cha Bohdan
Niemczewski đã đón tiếp tôi. Họ dẫn tôi vào trong nhà thờ chính tòa và ở đó
tôi phải ngồi vào ngai giám mục đã để trống sau khi Đức Hồng Y Sapieha và Đức
Tổng Giám Mục Baziak qua đời.
Tôi không nhớ lại chính xác
bài diễn văn tôi đọc lúc bấy giờ, nhưng tôi còn nhớ đó là những tâm tư đầy xúc
động liên quan đến nhà thờ chính tòa Wawel cũng như di sản văn hóa của ngôi
thánh đường đó mà tôi đã gắn bó “mãi mãi”, như tôi đã nhấn mạnh trên đây.
2.- Dây pallium
Tôi cũng nghĩ tới dấu chỉ
sâu kín và cảm động của dây pallium mà tôi nhận lãnh trong cùng năm 1964
đó. Trên toàn thế giới, bằng dấu chỉ hiệp nhất với Chúa Kitô Mục Tử Nhân Hậu và
với vị đại diện của Ngài để chu toàn trọng trách của Thánh Phê-rô, các tổng
giám mục mang trên vai dấu chỉ đó, được đan dệt bằng lông cừu làm phép ngày lễ Thánh Agnès.
Trong cương vị giáo hoàng,
nhiều lần tôi đã trao lại dây đó cho những tân tổng giám mục, vào dịp lễ hai
Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lồ. Biểu tượng đẹp đẽ biết bao!
Dưới hình dáng dây pallium,
chúng ta có thể nhận ra hình ảnh con chiên mà Vị Mục Tử Nhân Hậu mang trên vai
để giải cứu và nuôi dưỡng nó. Qua biểu tượng đó, trước tiên đã hiện rõ điều hợp
nhất tất cả chúng ta, trong tư cách giám mục: đó là sự ân cần và trách nhiệm
đối với dân chúng đã được giao phó cho chúng ta. Chính trên nền tảng của sự ân
cần và trách nhiệm đó mà chúng ta phải vun trồng và bảo vệ sự hợp nhất.
Kể từ ngày 8 tháng 3 năm
1964 là ngày tôi nhận lãnh tổng giáo phận Cracovie một cách long trọng, tôi đã
tham gia Công Đồng, nhưng kể từ đó với tư cách tổng giám mục tổng giáo phận và
cứ như thế cho đến ngày Công Đồng bế mạc vào ngày 8 tháng 12 năm 1965.
Kinh nghiệm đối với Công
Đồng, những cuộc gặp gỡ trong đức tin với các giám mục thuộc Giáo Hội hoàn vũ
và cùng một trật, trách nhiệm mới được giao phó đối với Giáo Hội Cracovie, đã
cho phép tôi hiểu sâu sắc hơn vị thế của giám mục trong Giáo Hội.
3.- Giám mục
trong Giáo Hội địa phương của ngài
Vị thế mà Chúa nhân từ đã
phân định cho giám mục trong Giáo Hội như thế nào? Ngay từ đầu, căn cứ
vào sự kiện giám mục được hòa nhập vào sự kế tục các tông đồ, trải dài trước
mắt họ là Giáo Hội hoàn vũ.
Ngài được sai đi cho
toàn thế giới, và chính vì lý do đó, ngài trở thành dấu chỉ về Công Giáo
tính của Giáo Hội. Tôi đã nhận thức chiều kích hoàn vũ đó của Giáo Hội kể từ
khi tôi biết đọc lên những lời tuyên xưng đức tin: “Tôi tin kính Giáo Hội
duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền.”
Rõ ràng chính cộng đồng
hoàn vũ đó đã thu nhận nơi mình những chứng tá phát sinh từ nhiều không gian,
thời gian và những nhân vật được Thiên Chúa lựa chọn cùng hợp nhất với nhau “từ A-dong, từ Abel là người Công Chính cho
đến người được lựa chọn sau cùng” (Lumen Gentium, số 2).
Những chứng tá và những
liên kết đó được nhận thức một cách hùng hồn trong phụng vụ tấn phong giám mục,
đến cả việc nhắc nhở sự nguyên vẹn của lịch sử cứu độ, với hạn kỳ kết thúc là
sự hợp nhất mọi người trong Nước Thiên Chúa.
Hết mọi giám mục, trong khi
mang trên mình trách nhiệm của Giáo Hội hoàn vũ, cũng được đặt để ở trung tâm
điểm của một Giáo Hội đặc biệt, tức cộng đoàn mà Chúa Kitô đã giao phó cho
ngài, để rồi qua mục vụ giám mục của ngài, được thể hiện một cách luôn trọn hảo
hơn huyền nhiệm Giáo Hội của Chúa Kitô, dấu chỉ phần rỗi cho tất cả chúng ta.
Trong Tông Hiến Lumen
gentium, chúng ta đọc được:
“Giáo Hội của Chúa Kitô đó hiện diện thật sự trong hết mọi hội đồng hợp
pháp của các tín hữu địa phương. Họ hợp nhất chặt chẽ với các mục tử của họ,
cũng được gọi là những Giáo Hội trong Tân Ước […]
Trong
hết mọi cộng đoàn quây quần chung quanh bàn thờ, dưới mục vụ thánh của Đức Giám
Mục, được tỏ lộ biểu tượng của đức ái và của sự ‘hợp nhất Nhiệm Thể Chúa Kitô
mà ngoài đó ra không thể có được sự cứu độ’.
Trong
những cộng đoàn đó, cho dẫu thông thường chỉ nhỏ bé và nghèo nàn hoặc sống rải
rác, Chúa Kitô vẫn hiện diện, do bởi Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo
và tông truyền, họp lại với nhau” (số 26).
Huyền nhiệm của ơn gọi giám
mục trong Giáo Hội hệ tại bởi sự kiện ngài vừa hiện diện trong một cộng đoàn
hữu hình đặc biệt mà ngài đã được giao phó, cùng một trật ngài cũng ở trong
Giáo Hội hoàn vũ. Cần thiết phải hiểu rõ sự liên kết đặc biệt đó.
Hiển nhiên đó là một sự
giản lược và cuối cùng là một sự không thấu hiểu được gây nên bởi huyền nhiệm
theo đó giám mục đại diện Giáo Hội hoàn vũ trong cộng đoàn giáo phận – đối với
tôi đó là Cracovie – và đồng thời ngài đại diện cộng đoàn giáo phận trên bình
diện Giáo Hội hoàn vũ, cũng giống như các đại sứ đại diện quốc gia của họ và
những cơ quan quốc tế.
Giám mục là dấu chỉ của sự
hiện diện Chúa Kitô trong trần thế. Và đó là một sự hiện diện đưa đến việc gặp
gỡ giữa những con người với nhau ở bất cứ nơi nào. Chúa đã gọi họ đích danh, đã
vực họ dậy, đã yên ủi họ bằng việc loan báo Tin Mừng và tập họp họ chung quanh
cùng một bàn tiệc.
Do đó giám mục thuộc về
trần gian trọn vẹn và về Giáo Hội hoàn vũ, ngài sống ơn gọi của mình, xa cách
những thành phần khác trong giám mục đoàn, để được liên kết chặt chẽ với những
người mà ngài qui tụ trong Giáo Hội đặc thù của ngài nhân danh Chúa Kitô.
Cùng một trật, chính vì
những người mà ngài qui tụ, ngài trở nên biểu tượng của sự vượt thoát tình
trạng đơn độc của họ, bởi vì ngài làm cho họ liên hệ với Chúa Kitô. Và ở trong
Chúa Kitô, họ cũng liên hệ với hết những ai đã được Chúa chọn trước khi tạo
dựng vũ trụ, cũng như với những người ngày nay Chúa đang kết hợp lại trên toàn
thế giới, và với những người Ngài sẽ tập hợp sau họ trong Giáo Hội của Ngài,
cho đến những kẻ được kêu gọi trong giờ sau hết.
Hết thảy mọi người được
hiện diện trong Giáo Hội địa phương qua mục vụ và biểu tượng của giám mục.
Giám mục thi hành mục vụ
của mình với tinh thần trách nhiệm thực sự khi ngài biết dấy lên nơi tín hữu
của ngài một tình cảm hiệp thông mãnh liệt với chính ngài và qua bản thân ngài,
với hết mọi tín hữu của Giáo Hội trên khắp hoàn vũ.
Chính tôi đã có kinh nghiệm
về sự hiệp nhất thân tình đó trong cuộc sống của tôi ở Cracovie, cùng với những
linh mục, các dòng tu và giáo dân. Xin Chúa thưởng công bội hậu cho họ!
Thánh Augustinô,
khi van xin sự giúp đỡ và hiểu biết, thường có thói quen ngõ lời với tín hữu
như sau:
“Đa số là Kitô hữu mà không cần phải là giám mục. Họ đến với Chúa bằng
một con đường có lẽ dễ dàng hơn và chắc chắn họ bước đi với một nhịp điệu thanh
thoát như mang lên mình một gánh nhẹ nhàng.
Về
phần chúng tôi, chúng tôi là Kitô hữu, vì vậy chúng tôi sẽ phải trả lẽ với Chúa
về chính cuộc đời chúng tôi. Vả lại chúng tôi là giám mục, do đó chúng tôi sẽ
phải trả lẽ với Chúa về sự quản lý của chúng tôi”
(Bài Giảng 46, 1, 2:
Giáo Phụ Học La-tinh: 38, 271).
Đó là huyền nhiệm về sự gặp
gỡ thần bí của những người “thuộc mọi
dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9) với Chúa
Kitô hiện diện trong giám mục giáo phận mà chung quanh ngài quây quần Giáo Hội
địa phương, trong một thời điểm lịch sử nhất định. Dũng lực biết bao mối tương
quan đó! Chúa Kitô liên kết và hàn gắn chúng ta bởi những mối ràng buộc tuyệt
diệu biết bao!
Tôi đã có kinh nghiệm đó
trong thời gian Công Đồng nhóm họp. Một cách đặc biệt, tôi đã có kinh nghiệm về
tập thể tính giám mục: toàn thể giám mục
đoàn cùng với Thánh Phê-rô! Tôi đã sống lại kinh nghiệm đó một cách hết sức
đặc biệt trong những buổi Tĩnh Tâm mà tôi thuyết giảng vào năm 1976 cho giáo
triều Roma, hợp nhất chặt chẽ chung quanh Đức Phao-lồ VI. Tôi sẽ trở lại đề tài
nầy dưới đây.
4.- Tập thể tính
giám mục
Nên hướng tư tưởng trở về
lúc ban đầu. Do thánh ý của Chúa và Thầy chúng ta, mục vụ tông đồ đã được thiết
lập. Cộng đồng “những kẻ Ngài muốn”
(Mc 3, 13) tăng trưởng chung quanh Ngài. Ở giữa cộng đồng đó được đào
luyện những thành viên khác nhau với nhân cách vững mạnh, đứng đầu là Thánh
Phê-rô.
Trong hàng ngũ đệ tử và bạn
hữu Chúa Kitô, bất cứ một tân giám mục
nào được đưa vào đều qua lời mời gọi và sự tấn phong. Đó là giám mục đoàn!
Sự tham gia vào cộng đoàn đức tin, chứng tá, yêu thương và trách nhiệm đó là
một quà tặng mà chúng ta cùng nhau nhận lãnh khi được mời gọi và được tấn
phong. Quà tặng đó lớn lao biết bao!
Đối với mỗi người trong
chúng ta là giám mục, sự hiện diện của những người khác tạo nên một sự hỗ trợ
được diễn tả bằng sự liên kết qua lời cầu nguyện và thừa tác vụ, qua chứng tá
sự chia sẻ những thành quả của mục vụ giám mục.
Về quan điểm đó, những cuộc
gặp gỡ và những liên hệ của tôi với các giám mục qua các cuộc thăm viếng “ad
limina Apostolorum” đã mang lại cho tôi ngày hôm nay một sự an ủi thật đặc
biệt. Tôi hết sức ao ước những gì mà ân sủng Chúa thực hiện qua con tim, khối
óc và bàn tay mỗi vị giám mục được mọi người biết đến và yêu mến.
Hiện nay những phương tiện
truyền thông trở nên dễ dàng khiến có thể gặp gỡ thường xuyên hơn và hiệu quả
hơn. Điều đó giúp tất cả chúng ta là những giám mục của Giáo Hội Công giáo truy
tầm những phương cách để củng cố tập thể tính giám mục, nhất là bằng sự hợp tác
có trách nhiệm trong các hội đồng giám mục địa phương và qua sự trao đổi kinh
nghiệm trong đại gia đình Giáo Hội trên toàn thế giới.
Nếu các giám mục gặp gỡ
nhau và chia sẻ những buồn vui cũng như những ưu tư của họ, chắc chắn điều đó
sẽ giúp họ củng cố “linh đạo hiệp thông”
như tôi đã đề cập tới trong Tông Thư “Ngàn Năm Thứ Ba Đang Tới” (“Novo
millenio ineunte”) (số 43-45).
Ngay trước khi được chọn
lên ngai tòa Thánh Phê-rô, tôi đã gặp gỡ nhiều giám mục trên toàn thế giới, dĩ
nhiên gặp thường hơn các giám mục những quốc gia Âu châu gần nhất. Đó là những
cuộc gặp gỡ nhằm hỗ trợ nhau.
Một số cuộc gặp gỡ đó, nhất
là với các giám mục sống trong những quốc gia dưới ách thống trị độc tài Cộng
Sản, đôi khi thật cảm động. Chẳng hạn tôi hồi tưởng tang lễ Đức Hồng Y Stefan
Trochta, trong nước Tiệp Khắc trước đây, khi chính quyền Cộng Sản ngăn trở
sự tiếp xúc với Giáo Hội địa phương hoặc ngay cả việc làm cho những cuộc gặp gỡ
đó không thể thực hiện được.
Trước khi các Đức Hồng Y
quyết định tôi phải là người ngồi vào ngai tòa Thánh Phêrô, cuộc gặp gỡ sau
cùng của tôi với các giám mục một quốc gia lân bang đã xảy ra ở Đức quốc, nơi
mà cùng với Đức Giáo Chủ Wyszynski, chúng tôi đã thực hiện một cuộc thăm
viếng mục vụ vào tháng chín năm 1978. Đó cũng là một biểu tượng quan trọng về
sự hòa giải giữa những quốc gia liên hệ.
Tất cả những cuộc gặp gỡ đó
đã được tiếp nối một cách phi thường và mãnh liệt qua những cuộc gặp gỡ thường
nhật của tôi với các giám mục thuộc nhiều phần đất khác nhau trên thế giới đã
cho phép tôi được thực hiện từ khi tôi được nhắc lên ngai tòa Thánh
Phê-rô.
Những cuộc thăm viếng “ad
limina Apostolorum” là một cách diễn tả đặc biệt tập thể tính giám mục.
Theo nguyên tắc, cứ năm năm một lần (đôi khi trễ hơn), các giám mục trên toàn
thế giới lần lượt đến Vatican và người ta tính ra hơn hai ngàn giáo phận. Ngày
nay chính tôi đón tiếp họ.
Trước đây, vào thời Đức
Phao-lồ VI, chính Đức Thánh Cha đón tiếp tôi. Tôi rất thích những cuộc gặp gỡ
như thế với Đức Phao-lồ VI. Tôi đã học hỏi nhiều điều nơi ngài, đặc biệt về
diễn tiến của những cuộc gặp gỡ đó.
Tuy nhiên dần dần, tôi đã
soạn thảo sơ đồ của riêng tôi: trước hết, tôi đón tiếp riêng mỗi vị giám mục,
kế đó tôi mời cả nhóm dùng một bữa ăn và sau cùng, chúng tôi dâng Thánh Lễ
chung vào buổi sáng hôm sau và chúng tôi có cuộc gặp gỡ chung.
Tôi đã rút tỉa nhiều điều
hữu ích từ những cuộc gặp gỡ của tôi với các giám mục. Tôi có thể nói một cách
đơn giản là nhờ các ngài “tôi hiểu biết
Giáo Hội” hơn. Tôi phải thực hiện điều đó một cách thường xuyên bởi vì, qua
các giám mục, tôi luôn học được nhiều điều mới mẻ. Qua những cuộc đàm đạo với
các ngài, tôi hiểu biết tình hình Giáo Hội trên những phần đất khác nhau của
thế giới: ở Âu châu, Á châu, Mỹ châu, Phi châu và Đại Dương châu.
Chúa đã cho tôi sức khỏe
cần thiết để có thể thăm viếng nhiều quốc gia – tôi có thể nói được là phần lớn
các quốc gia. Những cuộc du hành đó mang một sắc thái quan trọng đặc biệt, bởi
vì sự lưu lại có tính cách cá nhân tại một quốc gia, dù vắn vỏi đi nữa, cho
phép thấu hiểu nhiều điều. Mặt khác, nhờ những cuộc gặp gỡ đó, tôi có thể tiếp
xúc trực tiếp với dân chúng và điều đó mang lại lợi ích lớn lao trên bình diện
giữa các cá nhân với nhau cũng như trên bình diện giáo sĩ.
Đối với Thánh Phao-lồ cũng
thế, ngài du hành không ngừng. Chính vì thế, khi người ta đọc những gì ngài đã
viết cho các cộng đoàn khác nhau, người ta có cảm tưởng như ngài ở gần họ, như
thể ngài hiểu rõ những cá nhân sinh sống ở những nơi đó cùng với những khó khăn
của họ. Chính điều đó có giá trị qua mọi thời đại, kể cả thời đại chúng ta.
Tôi luôn yêu thích những
cuộc tông du. Với tôi, rõ ràng trọng trách đó đã được ban cho vị giáo hoàng bởi
chính Chúa Kitô, theo một nghĩa nào đó. Ngay khi còn là giám mục giáo phận,
những cuộc thăm viếng mục vụ làm tôi ưa thích và tôi xét thấy rất quan trọng để
tìm hiểu điều gì xảy ra nơi các giáo xứ, để hiểu biết giáo dân và gặp gỡ họ
cách trực tiếp.
Thăm viếng mục vụ ngày nay
trở thành một quy phạm của giáo luật, trong thực tế đã được gợi ý bởi kinh
nghiệm của cuộc sống. Ở đây, mẫu mực chính là Thánh Phao-lồ. Thánh Phê-rô cũng
thế, nhưng trước tiên là Thánh Phao-lồ.
5.- Các nghị phụ
Trong phiên họp đầu tiên
của Công Đồng, khi tôi còn là giám mục phụ tá tổng giáo phận Cracovie, tôi được
dịp cám ơn Đức Hồng Y Giovanni Battista Montini đối với quà tặng quí giá
và độ lượng mà tổng giáo phận Milan đã trao tặng cộng đoàn Thánh Florian ở
Cracovie: Ba quả chuông mới (một quà tặng tượng trưng nhưng gây xúc cảm biết
bao, nhất là vì danh xưng gắn vào ba quả chuông đó: “Mẹ Trinh Vương”, “Thánh
Ambroise-Charles Borromée” và “Thánh Florian”).
Quà tặng đã được yêu cầu
bởi cha Tadeusz Kurowski, bề trên cộng đoàn Thánh Florian. Đức Hồng Y
Montini là người luôn tỏ ra ân cần đối với dân Ba-lan, đã biểu lộ một con tim
cởi mở rất lớn đối với dự án đó và ngài cũng tỏ ra am hiểu tường tận về sự quan
tâm của tôi mà lúc bấy giờ chỉ là một giám mục trẻ.
Những giám mục đồng sự
người Ý, có thể nói được là đóng vai trò chủ nhà đối với Công Đồng và đối với
Tòa Thánh Vatican nói chung, luôn luôn làm tôi ngạc nhiên về sự thân tình và về
cảm thức của họ đối với thế giới.
Trong khóa họp đầu tiên của
Công Đồng, tôi có được một kinh nghiệm tuyệt vời về phổ quát tính của Giáo Hội
qua những sự tiếp xúc giữa tôi với các giám mục Phi châu mà sự hiện diện của
các ngài khá đông. Các ngài ngồi nhiều chỗ khác nhau trong Vương Cung Thánh
Đường Thánh Phê-rô mà ở đó, như đã biết, đang diễn ra công tác của Công Đồng.
Ở giữa các ngài, có những
thần học gia lỗi lạc và những mục tử nhiệt tình. Họ có nhiều điều để cống hiến.
Trong ký ức tôi, một vị nổi bật nhất là Đức Cha Raymond-Marie Tchidimbo,
tổng giám mục Conakry. Ngài bị đau khổ nhiều vì ông tổng thống Cộng Sản của
quốc gia ngài và cuối cùng ngài phải bị lưu đày.
Tôi có nhiều mối liên hệ
thường xuyên và thân tình với Đức Hồng Y Hyacinthe Thiandoum, một vị có
một nhân cách đặc biệt. Còn một khuôn mặt lỗi lạc khác nữa, đó là Đức Hồng Y Paul
Zoungrana. Cả hai ngài thuộc văn hóa Pháp nên nói ngôn ngữ đó thông thạo
như tiếng mẹ đẻ. Tôi kết giao một mối thân tình với hai vị giáo sĩ đó khi tôi ở
ngôi nhà dành cho giáo sĩ Ba-lan.
Tôi cảm thấy rất thân cận
với Đức Hồng Y người Pháp là Gabriel-Marie Garonne. Ngài lớn hơn tôi hai
mươi tuổi. Ngài đối xử với tôi một cách thân tình, có thể nói được là trong
tình bạn. Ngài được cất nhắc lên tước vị hồng y đồng thời với tôi và sau Công
Đồng, ngài trở thành tổng trưởng Bộ Giáo Dục Công Giáo. Hình như ngài cũng đã
tham dự Mật nghị Hồng Y.
Một giáo sĩ người Pháp khác
mà tôi đã có những liên hệ thân tình, đó là thần học gia Dòng tên Henri de
Lubac mà chính tôi đã cất nhắc lên tước vị hồng y nhiều năm sau đó. Công
Đồng là thời gian ưu đãi để làm quen với các giám mục và những thần học gia,
đặc biệt ở trong những ủy ban khác nhau.
Khi đề cập tới sơ đồ 13 (về
sau trở thành Tông Hiến về Giáo Hội trong thế giới ngày nay “Gaudium et spes” – “Vui Mầng và Hy Vọng”)
và khi nói về nhân cách, cha de Lubac đến gặp tôi và nói: “Vâng, vâng, vâng, theo chiều hướng đó.”
Ngài đã khích lệ tôi như thế và chính đó là một việc đặc biệt quan trọng đối
với tôi, bởi vì tôi tương đối còn trẻ.
Tôi còn liên kết tình bạn
với các giáo sĩ người Đức. Với Đức Hồng Y Alfred Bengsch, trẻ hơn tôi
một tuổi. Với những Đức Hồng Y Joseph Hoffner ở Cologne, Đức Hồng Y Joseph
Ratzinger – tất cả các ngài là những giáo sĩ đã được chuẩn bị về thần học
một cách đặc biệt.
Cách riêng tôi nhớ tới Giáo
Sư Ratzinger, lúc bấy giờ rất trẻ. Trong tư cách chuyên viên thần học, ngài đã
tháp tùng Đức Hồng Y Joseph Frings, tổng giám mục Cologne, tham dự Công
Đồng. Sau đó ngài được bổ nhiệm tổng giám mục Munich bởi Đức Phao-lồ VI là vị
đã cất nhắc ngài lên tước vị hồng y.
Ngài đã hiện diện trong Mật
Nghị Hồng Y giao phó cho tôi mục vụ của ngai tòa Thánh Phê-rô. Khi Đức Hồng Y Franjo
Seper qua đời, tôi đã xin ngài kế tục đảm nhận trọng trách tổng trưởng
Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin. Tôi cảm tạ Chúa về sự góp mặt và giúp đỡ của Đức Hồng
Y Ratzinger. Ngài là một người bạn rất đáng tin cậy.
Buồn thay! Chỉ còn sống sót
trên cõi đời nầy một số ít giám mục và hồng y đã tham dự Công Đồng Vatican II
(11 tháng 10 năm 1962 – 8 tháng 12 năm 1965). Đó là một biến cố đặc biệt thuộc
về Giáo Hội và tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi tham dự từ ngày đầu cho đến ngày
cuối.
6.- Hồng Y Đoàn
Theo một nghĩa nào đó,
trung tâm điểm của Hội Đồng Giám Mục Thế Giới là Hồng Y Đoàn bao quanh Đấng Kế
Vị Thánh Phê-rô và nâng đỡ ngài trong chứng tá đức tin trước toàn thể Giáo Hội.
Tôi đã được ghi danh vào Hồng Y Đoàn năm 1967.
Đặc biệt Hội Nghị Hồng Y thể
hiện nguyên tắc hợp tác và củng cố hỗ tương trong đức tin mà trên đó được xây
dựng toàn bộ công tác thừa sai của Giáo Hội. Sứ vụ của Thánh Phê-rô đã được
Chúa Giêsu phân định như sau: “Phần
anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc
22, 32).
Ngay từ những thế kỷ đầu,
các Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô tìm sự cộng tác của giám mục đoàn, linh mục đoàn và
phó tế đoàn. Họ chịu trách nhiệm với các ngài trong kinh thành Roma và các giáo
phận lân cận (được gọi là “các giáo phận quanh Roma”). Người ta bắt đầu gọi họ
là “viri cardinales”.
Dĩ nhiên, qua các thế kỷ,
những hình thức của một sự hợp tác như thế đã được biến đổi. Nhưng ý nghĩa chủ
yếu – một biểu tượng đối với Giáo Hội và đối với thế giới – thì không thay đổi.
Bởi vì trách nhiệm mục vụ
của Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô trải dài trên khắp thế giới, do đó dần dần xuất
hiện đúng lúc trong thế giới Kitô giáo, những “viri cardinales”. Họ đã
trở nên thân cận với Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô với trách nhiệm và sự kiện luôn
sẵn sàng để làm chứng tá cho đức tin kể cả việc phải đổ máu ra, nếu cần. (Chính
vì thế áo các ngài nhuộm màu đỏ, như máu các thánh tử đạo).
Tôi cảm tạ Chúa về sự hỗ
trợ như thế và về sự chia sẻ trách nhiệm trong việc quản trị Giáo Hội mà các
Đức Hồng Y thuộc giáo triều Roma và trên thế giới đã cống hiến cho tôi một cách
độ lượng.
Khi các ngài càng sẵn sàng
để hỗ trợ cho kẻ khác thì các ngài càng làm vững mạnh niềm tin của họ và do đó,
các ngài cũng có thể đương đầu với trách nhiệm lớn lao trong việc lựa chọn Đấng
sẽ đảm nhận Trọng Trách của Thánh Phê-rô, được thể hiện dưới tác động của Chúa
Thánh Linh.
7.- Các hội nghị
giám mục
Cuộc đời giám mục của tôi
trong thực tế đã bắt đầu với việc công bố việc triệu tập Công Đồng. Như đã
biết, thể chế hội nghị giám mục thế giới được thiết lập bởi Đức Thánh Cha Phao-lồ
VI ngày 15 tháng 9 năm 1965, là thành quả của Công Đồng. Trải qua nhiều
năm, nhiều hội nghị khác cũng được thực hiện. Vị tổng thư ký được giao phó một
trọng trách lớn để đặc trách những hội nghị đó.
Trước tiên là Đức Hồng Y Wladyslaw
Rubin mà những tang thương ngài phải trải qua trong cuộc thế chiến đã kết
thúc ở Roma là nơi ngài đã tới đó qua ngã Liban. Đức Phao-lồ VI đã giao cho
ngài việc thành lập văn phòng tổng thư ký. Đó không phải là một công việc dễ
dàng.
Tôi đã tìm cách hỗ trợ
ngài, trong khả năng có thể được, nhất là bằng việc đưa ra nhiều ý kiến hữu
ích. Về sau, nhiệm vụ của ngài được đảm trách bởi Đức Hồng Y Josef Tomko
là người được Đức Hồng Y Jan Pieter Schotte kế tục.
Như tôi đã nói, những hội
nghị thì nhiều. Ngoài những hội nghị diễn ra dưới triều đại của Đức Thánh Cha
Phao-lồ VI, còn có những hội nghị về gia đình, bí tích hòa giải và thống hối,
vai trò giáo dân trong đời sống Giáo Hội, việc đào tạo linh mục, đời sống thánh
hiến, giám mục đoàn. Ngoài ra còn có những hội nghị có tính cách đặc biệt: hội
nghị nước Hòa Lan, hội nghị kỷ niệm hai mươi năm bế mạc Công Đồng II và hội
nghị đặc biệt về Liban.
Cũng có những hội nghị mang
tính cách lục địa: những hội nghị giám mục Phi châu, Mỹ châu, Á châu, Đại Dương
châu và hai hội nghị giám mục Âu châu. Mục đích nhắm tới là xuyên qua mọi lục
địa trước thiên niên kỷ, để Giáo Hội hiểu rõ hơn bằng cách nắm bắt được những
vấn nạn ngõ hầu chuẩn bị cho năm thánh 2000. Chương trình đó đã được thực hiện.
Giờ đây phải nghĩ tới hội nghị mới với chủ đề bí tích Thánh Thể.
Trong đời sống giám mục của
tôi, tôi đã có cơ hội tiếp cận với kinh nghiệm hội nghị: quả thật đã có hội
nghị rất quan trọng của tổng giáo phận Cracovie, được tổ chức nhân dịp kỷ niệm
chín trăm năm ngày sinh nhật Thánh Stanislas. Hiển nhiên đó là một hội
nghị hoàn toàn có tính cách giáo phận. Hội nghị đó đã không diễn ra trong viễn
kiến của Giáo Hội hoàn vũ, nhưng nằm trong viễn tượng khiêm tốn hơn của Giáo
Hội địa phương.
Dẫu thế, một hội nghị giáo
phận vẫn có tầm mức quan trọng đáng kể đối với một cộng đoàn tín hữu khi hằng
ngày phải trải qua những vấn nạn như nhau, gắn liền với việc thực hành đức tin
trong những hoàn cảnh xã hội và chính trị rõ rệt.
Công việc của hội nghị
Cracovie nhằm hội nhập vào đời sống cộng đoàn địa phương những điều mà Công
Đồng đã nói tới. Tôi đã lập chương trình cho hội nghị đó vào những năm
1972-1979, bởi vì Thánh Stanislas – như tôi đã nói – là giám mục từ 1072 đến
1079. Tôi muốn làm sống lại những năm tháng đó chín trăm năm sau.
Kinh nghiệm quan trọng nhất
là công việc của những nhóm hội nghị rất đa dạng và đầy cam kết. Đó là một hội
nghị mục vụ đích thực: hết thảy các giám mục, linh mục và giáo dân cùng sát
cánh làm việc bên nhau. Tôi đã kết thúc hội nghị đó trong tư cách giáo hoàng,
nhân cuộc thăm viếng Ba-lan đầu tiên của tôi.
8.- Cuộc Tĩnh Tâm
đối với giáo triều Roma, trong triều đại Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI
Tôi không bao giờ quên được
cuộc Tĩnh Tâm thật đặc biệt đó. Từ cuộc Tĩnh Tâm như thế nảy sinh một sự thực
tập là quà tặng lớn lao của Chúa đối với những ai thực hành được. Đó là thời
gian người ta buông bỏ những điều còn lại để gặp gỡ Chúa và bắt đầu lắng nghe
một mình Ngài.
Chắc chắn điều đó tạo nên
cơ hội hữu ích đặc biệt đối với những “người cấm phòng”. Chính vì thế mà người
ta không nên làm áp lực trên người đó, nhưng nên đánh thức ở nơi họ một sự ao
ước ở bên trong có được một kinh nghiệm như vậy.
Thật vậy, đôi khi người ta
có thể nói với một người nào đó: “Hãy đến
nhà dòng Camaldoli hay nhà dòng
Biển Đức ở Tyniec, để gặp lại chính
mình”. Nhưng theo nguyên tắc một sự tiến hành như thế phải là thành quả của
sự ước muốn nội tâm.
Giáo Hội trong tư cách là
một định chế, khuyên bảo các linh mục một cách đặc biệt nên có những cuộc tĩnh
tâm (Giáo Luật, điều 276, tiết 2, mục 4). Nhưng qui phạm giáo luật chỉ
là một yếu tố thêm vào sự ao ước phát xuất từ trong con tim.
Tôi đã nhắc lại là nhiều
lần chính tôi đã có những cuộc tĩnh tâm ở đan viện Biển Đức Tyniec. Nhưng tôi
cũng năng lui tới nhà dòng Camaldoli ở Bielany, chủng viện Cracovie và
Zakopane. Từ khi tôi ở Roma, tôi đã tham dự cuộc Tĩnh Tâm với giáo triều trong
tuần lễ đầu Mùa Chay.
Trong những năm gần đây,
những cuộc Tĩnh Tâm đó luôn được hướng dẫn bởi những vị thuyết giảng khác nhau.
Nhiều vị thật đáng khâm phục về phương diện hình thức lẫn nội dung, đôi khi cả
vì sự khôi hài của họ.
Chẳng hạn đó là trường hợp
cha Dòng Tên Tomas Spidlik, người Tiệp Khắc. Chúng tôi đã cười rất nhiều
qua những bài thuyết trình của ngài và điều đó cũng hữu ích cho chúng tôi nữa.
Ngài đã biết trình bày với một tinh thần dí dỏm những chân lý sâu sắc và như
thế, ngài đã biểu lộ một tài năng vĩ đại.
Những cuộc Tĩnh Tâm đó đã
trở lại trong ký ức tôi khi tôi trao mũ hồng y cho cha Spididlik trong thượng
hội nghị hồng y sau cùng.
Những vị thuyết giảng thì đa
dạng và thông thường thật ưu tú. Chính tôi đã mời Đức Cha Ablewicz và đó
là vị giáo sĩ Ba-Lan duy nhất, ngoài tôi ra, đã đến thuyết giảng Tĩnh Tâm ở
Vatican.
Riêng cá nhân tôi đã thuyết
giảng Tĩnh Tâm ở Vatican trước Đức Phao-lồ VI và các cộng sự viên của ngài. Có
một vấn đề khi chuẩn bị. Đầu tháng 2 năm 1976, Đức Cha Wladyslaw Rubin
đã gọi điện thoại cho tôi báo tin là Đức Thánh Cha Phao-lồ VI xin tôi giảng
Tĩnh Tâm vào tháng 3. Như vậy chỉ còn hai mươi ngày để tôi soạn bài giảng và
chuyển dịch.
Tựa đề mà tôi đưa ra cho
những buổi suy tư đó là: “Biểu Tượng của sự Mâu Thuẫn”. Tựa đề đó không
được đề nghị nhưng đã xuất hiện sau cùng, như là tổng hợp những gì mà tôi có ý
muốn trình bày. Sự thật đó không phải là một chủ đề, nhưng theo một ý nghĩa, đó
là lời chủ yếu mà hội tụ về đó những gì tôi đã trình bày trong những bài thuyết
giảng khác nhau.
Tôi nhớ lại những ngày đã
dành ra để soạn thảo. Có hai mươi đề tài để chuẩn bị. Tôi phải xác định những
đề tài đó và soạn thảo một mình. Để có sự yên tĩnh cần thiết, tôi đi tới miền
Zakopane, ngụ tại nhà dòng các nữ tu Thánh Ursula (Ursulines), mặc tu phục màu
xám ở Jaszczurówska. Tôi đã viết những bài suy niệm cho đến trưa, đi trượt
tuyết ban chiều và buối tối tiếp tục viết nữa.
Cuộc gặp gỡ đó với Đức
Phao-lồ VI trong bối cảnh cuộc Tĩnh Tâm, thật đặc biệt quan trọng đối với tôi,
bởi vì làm cho tôi ý thức về sự nhanh nhẹn cần thiết phải có đối với giám mục
khi nói về đức tin của mình ở nơi nào mà Chúa đòi hỏi phải làm. Về điều đó, hết
mọi giám mục cần phải có, ngay cả Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô, như Đức Phao-lồ VI
lúc bấy giờ đã cần đến sự sẵn sàng của tôi.
9.- Việc thực thi
Công Đồng
Công Đồng là một biến cố
lớn lao và đối với tôi, là một kinh nghiệm khó quên. Từ Công Đồng trở về, tôi
được phong phú thêm lên. Một khi về lại Ba-lan, tôi đã viết một quyển sách
trong đó tôi trình bày những hướng đi đã chín mùi trong tôi qua những khóa họp
Công Đồng.
Qua các trang giấy, có thể
nói được tôi đã tìm cách đúc kết nội dung những giáo huấn của Công Đồng và tôi
đã lấy tựa đề: “Nguồn Gốc của sự Đổi Mới. Nghiên Cứu về sự Thực Thi Công
Đồng Vatican II”. Sách đó đã được xuất bản ở Cracovie năm 1972 bởi Hiệp Hội
Thần Học Ba-lan (PTT).
Sách đó cũng muốn trình bày
như một lời cảm tạ đối với những gì mà ân sủng Chúa, qua sự nhóm họp của Công
Đồng, đã tác dụng trên cá nhân tôi, trong tư cách giám mục. Quả thật, Công Đồng
Vatican II đã thảo luận một cách đặc biệt những nghĩa vụ giám mục.
Công Đồng Vatican I đã bàn
luận về quyền tối cao của giáo hoàng. Đặc biệt Công Đồng Vatican II dừng lại nơi
các giám mục. Để nhận ra điều đó, chỉ cần có trong tay những văn kiện Công
Đồng, nhất là Tông Hiến Tín Lý “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”).
Giáo huấn thâm sâu của Công
Đồng đối với giám mục đoàn dựa trên sự qui chiếu về ba chức năng (munus)
của Chúa Kitô: ngôn sứ, tư tế và vương
giả. Tông Hiến “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”) đề cập
đến điều đó ở những số 24-27.
Nhưng những văn bản khác
của Công Đồng cũng qui chiếu về ba chức năng (“tria munera”) nói trên,
trong đó nên chú ý đặc biệt đến sắc lệnh “Christus Dominus” (“Chúa
Kitô”) làm nổi bật một cách chính xác trách nhiệm mục vụ của các giám mục.
Khi tôi từ Roma về lại
Ba-lan, đã bùng nổ vấn đề liên quan đến thông điệp thời danh của các giám mục
Ba-lan gởi cho các giám mục Đức quốc. Trong thông điệp đó, các giám mục Ba-lan
tuyên bố đồng ý tha thứ, nhân danh đồng bào của mình, về những điều thiệt hại
phải chịu do quân đội Đức Quốc Xã gây nên, trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Cùng
một trật, các ngài xin tha thứ về những lỗi lầm mà quân đội Ba-lan đã vi phạm
đối với dân chúng Đức quốc.
Tiếc thay! Thông điệp đó đã
gây ra nhiều cuộc bút chiến, nhiều điều ngộ nhận, nhiều điều vu khống. Cử chỉ
hòa giải đó mà trong thực tế đã có tính cách quyết định, như đã tỏ lộ thời gian
sau đó, nhằm bình thường hóa những mối quan hệ giữa dân chúng Đức quốc và
Ba-lan, đã làm phật ý chính quyền Cộng Sản rất nhiều.
Hậu quả là họ trở nên cứng
rắn đối với Giáo Hội. Điều đó không tạo thành bối cảnh tốt đẹp nhất cho những
cuộc lễ lạt mừng ngàn năm Ba-lan được nhận lãnh bí tích thánh tẩy bắt đầu ở
Gniezno vào tháng tư năm 1966.
Ở Cracovie, những lễ lạt đã
xảy ra vào dịp lễ kính thánh Stanislas ngày 8 tháng 5. Ngay hôm nay đây, còn
sống động trong ký ức tôi hình ảnh đoàn lũ dân chúng đông đảo đi kiệu từ Wawel
đến Skalka. Chính quyền không dám quấy rối đám người đông đảo và kỷ luật đó.
Trong những cuộc lễ lạt
mừng ngàn năm đó, những sự căng thẳng gây nên bởi thông điệp của các giám mục
được giảm bớt và hầu như biến mất và người ta có thể theo đuổi việc giảng dạy
môn giáo lý thích hợp dựa trên ý nghĩa ngàn năm đón nhận Tin Mừng trong đời
sống quốc gia.
Thông thường cuộc rước kiệu
“Mình Thánh Chúa” (“Corpus Domini”) hằng năm là một cơ hội tốt
đẹp để rao giảng. Trước thế chiến, cuộc rước kiệu trọng thể để tôn vinh Mình
Máu Thánh Chúa Kitô khởi hành từ nhà thờ chính tòa Wawel và đi đến Rynek
Glówny, ngang qua những đường sá và công viên trong thành phố.
Trong thời gian chiếm đóng,
viên toàn quyền người Đức là Hans Frank đã cấm cuộc rước kiệu như thế.
Về sau, vào thời Cộng Sản, chính quyền chấp nhận một cuộc rước kiệu ngắn hơn:
từ nhà thờ chính tòa Wawel cho tới sân gần nhất của lâu đài hoàng gia.
Chỉ vào năm 1971 cuộc rước
kiệu mới có thể đi qua bên kia đồi Wawel như trước. Bấy giờ tôi tìm cách sắp
xếp những đề tài suy niệm ở mỗi bàn thờ khác nhau trên hành trình rước kiệu,
làm thế nào để có thể trình bày trong bối cảnh giáo lý về Phép Thánh Thể, những
khía cạnh khác nhau của chủ đề lớn lao về “tự do tôn giáo” rất thời sự
vào thời điểm đó.
Trong những mô hình khác
nhau của việc sùng kính đạo đức có tính cách bình dân đó, tôi thiết tưởng được
ẩn tàng một câu trả lời cho một vấn nạn đôi khi được phơi bày ra ánh sáng liên
quan đến ý nghĩa của truyền thống được thể hiện qua những cuộc biểu dương, cho
dẫu trên bình diện địa phương. Tựu trung, câu trả lời khá đơn giản: sự hòa điệu giữa các con tim tạo nên một sức
mạnh.
Đâm rễ sâu trong những gì
là cổ kính, hùng dũng, sâu sắc và cùng một trật, rất thân thiết trong con tim,
sẽ tạo nên một sức mạnh nội tâm phi thường. Nếu sự đâm rễ sâu đó cũng gắn liền
với mãnh lực táo bạo của trí tưởng tượng và tư duy con người, không còn lý do
gì để phải lo sợ cho tiền đồ đức tin và những tương giao giữa con người với con
người trong lòng dân tộc.
Chính ở trong sự phong phú
của truyền thống mà nền “văn hóa” thực sự được vun bồi để củng cố mối
thân tình giữa các công dân và cho phép họ có ý thức là mình thuộc về một đại
gia đình để chống đỡ và tăng cường cho niềm xác tín của mình.
Đặc biệt ngày nay, trách
nhiệm lớn nhất của chúng ta, trong lãnh vực toàn cầu hóa, bao gồm việc phát huy
những truyền thống lành mạnh, nâng đỡ lòng dũng cảm của quần chúng trong vấn đề
tư duy, một viễn kiến hướng về tương lai, cũng như lòng kính trọng và quí mến
đối với những gì thuộc về quá khứ.
Chính quá khứ được tiếp nối
trong con tim người đời qua những ngôn từ của người xưa, những ký hiệu thời cổ,
những hoài niệm và tập quán kế thừa từ nhiều thế hệ đã qua.
10.- Các giám mục
Ba-lan
Trong thời gian tôi thi
hành mục vụ ở Cracovie, những mối liên hệ thân tình đã nối kết tôi với các giám
mục ở Gorzów. Đó là ba đức cha: Wilhelm Pluta, Jerzy Stroka và Ignacy
Jez. Tôi xem các ngài như những bạn hữu chân tình. Chính vì thế tôi đã đi
tìm gặp các ngài, ngay cả ngoài những vấn đề liên quan đến việc phục vụ.
Với Đức Cha Stroka,
chúng tôi đã quen biết nhau trong thời gian còn ở Cracovie khi ngài làm giám
đốc chủng viện Silésie. Trong chủng viện đó, chính tôi là giáo sư: tôi dạy đạo
đức học, thần học luân lý căn bản và luân lý xã hội.
Với ba vị tôi vừa nhắc đến,
Đức Cha Ignacy Jez hiện đang còn sống. Ngài có tài thiên phú về tính hài
hước: ngài biết phát biểu bằng cách nói khôi hài, chẳng hạn như về tên của ngài
là Jez (trong ngôn ngữ Ba-lan tiếng đó có nghĩa là “cái vòng” hay “tóc xoắn”).
Với tư cách là giám mục
thường trú, ở trong tổng giáo phận của tôi, tôi có vài giám mục phụ tá như các
Đức Cha Julian Groblicki, Jan Pietraszko, Stanislaw Smolenski và Albin
Malysiak. Chính tôi đã tấn phong hai vị sau nầy.
Tôi rất thích Đức Cha Albin
vì tính năng động của ngài. Tôi còn nhớ đến ngài khi ngài còn là cha xứ Nowa
Wies, một trong những khu vực ở Cracovie. Đôi khi tôi thích gọi ngài bằng biệt
danh là “Albin nhiệt tình”
Đức Giám Mục Jan
Pietraszko là một nhà thuyết giảng tuyệt vời, một người làm cho cử tọa hứng
khởi. Đức Hồng Y Franciszek Macharski, người kế vị tôi ở Cracovie, đã
khởi động vụ án phong thánh cho ngài năm 1994. Vụ án đó giờ đây đang ở giai
đoạn cứu xét tại Roma.
Tôi cũng nhớ rất rõ hai vị
giám mục phụ tá kia: trong nhiều năm, chúng tôi đã tìm cách cùng nhau phục vụ
Giáo Hội thân yêu Cracovie của chúng tôi, trong tinh thần hiệp thông huynh đệ.
Trong thành phố lân cận là
Tarnów, có Đức Cha Jerzy Ablewicz mà tôi đã nhắc đến. Tôi đến thăm ngài
thường xuyên: thật ra chúng tôi sinh cùng thời – ngài chỉ hơn tôi một tuổi.
Đức Giám Mục ở Czestochowa
– Đức Cha Stefan Barela, luôn đối xứ với tôi rất thân tình. Trong bài
giảng Thánh Lễ kỷ niệm hai mươi lăm năm phong chức linh mục của tôi, tôi đã
nói:
“Chức vụ giám mục như một khám phá bổ túc, một khám phá mới về chức linh
mục. Tuy nhiên điều khám phá mới đó cũng được thực hiện trên căn bản cùng một
tiêu chuẩn: trước tiên người ta phải hướng về Chúa Kitô, Mục Tử độc nhất và
Giám Mục của mọi tâm hồn và cũng hướng về Chúa Kitô một cách thâm sâu hơn, hăng
say hơn và đòi hỏi hơn.
Điều
đó thực hiện được bằng cách hướng đến các linh hồn, những linh hồn bất tử, được
chuộc lại bằng giá Máu Chúa Kitô. Hướng về các linh hồn có thể không có tính
cách tức thời như trong công việc hằng ngày của một linh mục trong giáo xứ – cha chánh xứ hay cha phó xứ. Ngược lại, đó
là một tầm nhìn rộng lớn hơn, bởi vì trước mặt giám mục mở ra cộng đồng Giáo
Hội toàn vẹn.
Trong
lương tâm chúng tôi là những giám mục của Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là nơi
gặp gỡ của toàn thể gia đình nhân loại, là nơi hòa giải, xích lại gần nhau bất
chấp mọi trở ngại, xích lại gần nhau bằng đối thoại, xích lại gần nhau bằng cái
giá của sự đau khổ.
Có
thể điều đó đúng với chúng tôi – những giám mục Ba-lan thời đại Công Đồng
Vatican II – chúng tôi phải trả giá bằng sự đau khổ hơn là qua việc đối thoại”
(Kalendarium Zycia Karola Wojtyly, Cracovie 1983,
tr. 335-336).
Chính ở Silésie mà Đức Cha Hertbert Bednorz thi
hành mục vụ và trước ngài có Đức Cha Stanislaw Adamski. Đức Cha Bednorz
được bổ nhiệm làm giám mục phó. Khi tôi được bổ nhiệm tổng giám mục, tôi đã đi
thăm hết các giám mục trong tổng giáo phận và cũng vì vậy tôi đã đến
Chúng tôi với các giám mục ở Silésie rất thông hiểu nhau.
Tôi gặp gỡ các ngài thường xuyên vào Chúa nhật cuối cùng của tháng năm tại
nguyện đường Đức Bà Piekary. Nhà thờ chính tòa tại đây được thiết lập
vào thế kỷ XVII là một nơi sùng kính Đức Trinh Vương Maria, Mẹ Công Chính và
Tình Thương.
Tại nguyện đường Đức Bà Piekary chính vào ngày đó, tuôn về
những đoàn người hành hương thuộc nam giới. Đức Cha Bednorz thường mời
tôi thuyết giảng. Chúa nhật cuối tháng năm tạo nên môt biến cố đặc biệt: đó là
cuộc hành hương của những công nhân mỏ. Họ biểu thị một chứng tá khác thường
trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba-lan.
Những người tham dự nghe giảng thường kèm theo những tràng
pháo tay nổ dòn khi nghe những điều trình bày tỏ rõ sự đối kháng về những đường
hướng đang bàn cãi nằm trong chính sách chính phủ đang theo đuổi, liên quan đến
vấn đề tôn giáo hay phong hóa, chẳng hạn việc nghỉ ngơi vào Chúa nhật. Về vấn
đề đó, ở Silésie, một câu nói của Đức Cha Bednorz
đã trở thành châm ngôn đối với dân chúng: “Chúa
nhật thuộc về Thiên Chúa và thuộc về chúng ta nữa.”
Sau Thánh Lễ, Đức Cha Bednorz
thường có thói quen ngõ lời với tôi như sau: “Vậy thì chúng con đợi tới năm sau để nghe một bài giảng khác tương tự.”
Đối với tôi, dân chúng ở Piekary đã nêu lên một chứng tá tuyệt vời bằng cuộc
hành hương vĩ đại của họ. Tự bản chất chứng tá đó nói lên điều gì đặc biệt khác
thường.
Chiếm một chỗ rất đặc biệt trong quả tim của tôi, đó là
Đức Hồng Y Andrzej Maria Deskur, hiện nay là chủ tịch danh dự Hội Đồng
Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội. Tôi đã cất nhắc ngài lên tước vị hồng y ngày
25 tháng 5 năm 1985. Kể từ lúc khởi đầu triều đại giáo hoàng của tôi, ngài luôn
hỗ trợ tôi rất nhiều, đặc biệt qua những đau khổ cũng như những ý kiến chỉ bảo
của ngài.
Trong khi nhắc tới các giám mục, tôi không thể không trưng
dẫn Thánh bổn mạng của tôi là Thánh Charles Borromée. Khi tôi nhớ tới
khuôn mặt của ngài, tôi bị xúc động bởi sự trùng hợp do những biến cố và mục
vụ.
Ngài là giám mục
Tôi có thể nói được, suốt những năm triều đại giáo hoàng
của tôi, việc thực thi công đồng luôn ở hàng đầu trong tâm tưởng của tôi. Tôi
luôn kinh ngạc về sự trùng hợp đó và cảm thấy thích thú bởi sự dấn thân dũng
cảm của vị thánh đó: Sau công đồng, Thánh Charles hiến trọn cuộc đời giám mục
cho những cuộc thăm viếng mục vụ trong giáo phận ngài, lúc bấy giờ có khoảng
tám trăm giáo xứ.
Tổng giáo phận Cracovie trước đây nhỏ hơn, tuy nhiên tôi
không thể thực hiện hết các cuộc thăm viếng đã được bắt đầu. Giáo phận Roma
hiện nay được giao phó cho tôi cũng lớn nữa: có 333 giáo xứ. Cho tới nay tôi đã
thăm viếng 317 giáo xứ. Như vậy còn lại 16 giáo xứ phải thăm viếng.
CHƯƠNG VI: THIÊN CHÚA VÀ LÒNG CAN ĐẢM
“Nầy con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 7)
1.- Mạnh mẽ trong đức tin
Tôi còn ghi khắc trong ký ức tôi những lời nói của Đức
Hồng Y Stefan Wyszynski ngày 11 tháng 5 năm 1946: “Làm giám mục là mang lên mình cái gì có quan
hệ với thánh giá, bởi vì Giáo Hội đặt để thánh giá trên ngực giám mục. Trên
thánh giá, phải chết cho chính bản thân mình; nếu không như thế thì không có sự
viên mãn của chức tư tế. Vác thánh giá lên mình không phải dễ dàng, cho dẫu
thánh giá được làm bằng vàng và được nạm ngọc.”
Mười năm sau, ngày 16 tháng 3 năm 1956, Đức Hồng Y còn
nói: “Giám mục có bổn phận phải hành
động, không những bằng lời nói, bằng phụng vụ, mà còn bằng việc chấp nhận đau
khổ nữa.”
Đức Hồng Y Wyszynski đã trở lại với những tư tưởng đó vào
một dịp khác. Ngài nói: “Đối với một giám
mục, thiếu dũng cảm là khởi đầu của sự thất bại. Ngài có thể tiếp tục là tông
đồ không? Bởi vì đối với một tông đồ, làm chứng cho chân lý là điều thiết yếu.
Và điều đó luôn đòi buộc sự dũng cảm.” (Zapiski wiezienne, Paris,
1982, tr. 251).
Những lời nói sau đây cũng của ngài nữa:
“Nhược điểm lớn nhất
của tông đồ là sự sợ hãi. Đó là sự yếu kém về đức tin trong quyền lực của Thầy
Chí Thánh. Chính sự yếu kém đó đánh thức dậy sự sợ hãi. Và sự sợ hãi bức bách
con tim cùng bóp nghẹt cổ họng. Lúc bấy giờ tông đồ không còn tuyên xưng đức
tin nữa. Họ còn là tông đồ không?
Những tông đồ rời bỏ Thầy mình
khiến các tên đao phủ bạo dạn thêm lên. Người nào im hơi lặng tiếng khi đối
diện với kẻ địch thù vì một lý do nào đó thì làm cho kẻ thù địch mạnh dạn thêm
lên. Sự sợ hãi của tông đồ là đồng minh trước tiên đối với những kẻ thù nghịch.
Công việc hàng đầu nằm trong sách lược của những kẻ nghịch đạo là ‘bằng sự sợ
hãi, bắt buộc người ta phải im hơi lặng tiếng’.
Sự khủng bố mà hết mọi chính thể
độc tài sử dụng được đo lường bằng sự sợ hãi của các tông đồ. Sự im lặng chỉ
mang tính cách nghĩa khí tông đồ khi không xoay mặt đi trước kẻ vả mình. Đó là
điều mà Chúa Kitô đã làm khi Ngài im lặng. Nhưng qua dấu chỉ đó, Ngài chứng tỏ
sức mạnh của Ngài. Chúa Kitô không để cho người khác làm Ngài khiếp sợ. Sau khi
đi ra giữa đám đông, Ngài đã dũng cảm nói với họ: ‘Chính tôi đây’.”
(Tài liệu đã trích dẫn, tr. 94).
Quả thật, người ta không thể xây lưng lại với chân lý,
cũng không thể ngưng loan báo hay che giấu, ngay cả đối với chân lý khó khăn mà
sự biểu lộ kèm theo một sự đau khổ lớn lao. “Các ông sẽ biết sự thật và sự
thật sẽ giải phóng các ông” (Gio 8, 32) – đó là trách nhiệm của
chúng ta và cũng một trật là điểm tựa của chúng ta!
Như thế, không có khoảng trống dành cho việc đành phải làm
theo, cũng không có phương sách cơ hội chủ nghĩa thuộc cách xử sự khôn khéo của
người đời. Phải làm chứng tá cho chân lý, ngay cả phải trả giá bằng việc bị bắt
bớ, cho đến phải đổ máu mình ra, như chính Chúa Kitô đã làm và giám mục Stanislas
ở Szczepanów là một trong những vị tiền nhiệm của tôi đã làm trong thời đại của
ngài.
Chắc chắn chúng ta sẽ phải đương đầu với nhiều thử thách.
Không có gì lạ thường hết. Điều đó thuộc về đời sống đức tin. Ở trong vài
trường hợp, những thử thách chỉ nhẹ nhàng, ở những trường hợp khác thì khó khăn
hơn nhiều và ngay cả bi đát nữa.
Trong những thử thách, chúng ta cảm thấy đơn độc, nhưng
không bao giờ ân sủng của Chúa bỏ rơi chúng ta, ân sủng của một đức tin chiến
thắng. Chính vì thế, chúng ta có thể cương quyết dự kiến vượt lên trên mọi thử
thách một cách khải hoàn, ngay cả những thử thách cam go nhất.
Vào năm 1987, ở Westerplatte thuộc Gdansk, khi đề
cập đến điều đó với giới trẻ Ba-lan, tôi đã nhắc tới nơi chốn đó như là một
biểu tượng hùng hồn của lòng trung tín trong thời điểm bi thương. (Westerplatte
là một bán đảo ở về phía bắc thành phố lịch sử
Chính ở nơi đó, vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, một nhóm binh
sĩ trẻ tuổi người Ba-lan gồm 180 người, trong khi chiến đấu chống lại tàu thiết
giáp của quân đội xâm lăng Đức quốc xã là Schleswig-Holstein mà vũ lực
và những phương tiện chiến đấu trổi vượt rõ rệt, đã đương đầu với thử thách vô
bờ bến đó bằng cách cung hiến một chứng tá hiển hách của lòng quả cảm, kiên trì
và trung tín. Trận đánh đó đã mở màn cho Đệ Nhị Thế Chiến.
Tôi đã dẫn chứng điều đó, bằng cách mời gọi trước tiên
những người trẻ suy nghĩ chín chắn về tương quan giữa ‘sống hơn lên’ và
‘có nhiều hơn lên’, và tôi đã cảnh báo họ: “Đừng bao giờ chỉ nhằm thắng thế để ‘có được nhiều hơn’. Bởi vì lúc bấy giờ con người có thể đánh mất
điều cao quí nhất: đó là tình nhân loại, lương tâm và phẩm cách của mình.”
Trong viễn tượng đó, tôi đã khuyến khích họ: “Chúng con phải yêu sách điều đó nơi chính
bản thân chúng con, cho dẫu người khác không yêu sách chúng con điều đó.”
Và tôi đã khai triển thêm: “Hởi các bạn trẻ, mỗi một người trong chúng con cũng phải tìm cho ra một
‘Westerplatte’ trong cuộc đời mình. Một chiều kích về những bổn phận phải đảm
đương và phải chu toàn. Một lý do chính đáng mà người ta không thể không chiến
đấu. Một bổn phận, một nghĩa vụ mà người ta không thể miễn trừ, không thể trốn
tránh. Nói tóm lại, có một thứ tự thuộc những chân lý và những giá trị cần phải
‘duy trì’ và ‘bảo vệ’: ở trong mình và chung quanh mình. Vâng: phải bảo vệ cho
mình và cho kẻ khác” (Ngày 12 tháng 7 năm 1987).
Con người luôn luôn cần những gương mẫu để bắt chước. Nhất
là họ cần đến ngày nay, trong thời đại chúng ta đang bị lôi cuốn bởi biết bao
sự xúi biểu thất thường và trái ngược.
2.- Các thánh ở Cracovie
Nhắc tới những gương mẫu nên bắt chước, không thể quên các
thánh. Các thánh và các chân phước là quà tặng lớn lao biết bao đối với mỗi
giáo phận! Tôi thiết nghĩ, đối với hết thảy các giám mục, thật cảm động lạ
thường khi nêu lên gương mẫu những người nam và người nữ cụ thể, những người
nổi bật bởi đức tính anh hùng, nuôi dưỡng bởi đức tin. Sự xúc động gia tăng khi
những người đó đã sống những thời điểm gần gũi chúng ta.
Tôi vui mầng đã dấn thân vào những vụ án phong thánh cho
những Kitô hữu lỗi lạc gắn liền với tổng giáo phận Cracovie. Tiếp theo sau đó,
với tư cách là giám mục Roma, tôi đã có thể công bố những nhân đức anh hùng của
họ và khi các vụ án đã hoàn tất, họ được ghi tên vào sổ bộ các chân phước và các
thánh.
Trong thế chiến, khi tôi làm nhân công tại xưởng máy
Solvay ở gần Lagiewniki, tôi nhớ lại đã nhiều lần đến bên phần mộ nữ tu Faustina,
lúc bấy giờ chưa là chân phước. Tất cả những gì ở nơi chị thật đặc biệt, bởi vì
không thể dự kiến nơi một thiếu nữ cũng giản dị như chị. Làm sao lúc bấy
giờ tôi có thể tưởng tượng được là tôi sẽ phong chân phước cho chị trước và rồi
sau đó phong thánh nữa?
Sau khi vào tu ở một đan viện tại Varsovie, chị được
chuyển về
Nữ tu Faustina qua đời năm
1938. Kể từ đó, khởi đầu từ Cracovie, việc sùng kính đó đã đi vào quỹ đạo lớn
của những biến cố có tầm vóc quốc tế.
Khi trở thành tổng giám
mục, tôi đã giao phó cho một linh mục là giáo sư Ignacy Rózycki xem xét
những bản viết của chị. Ban đầu ngài từ khước. Rồi cuối cùng, ngài đã chấp nhận
và nghiên cứu tường tận những tài liệu sẵn có. Sau cùng, ngài tuyên bố: “Đó là một nhà thần bí tuyệt diệu.”
Sư huynh Alber – thầy
Adam Chmielowski – đã chiếm một chỗ đặc biệt trong ký ức của tôi và hơn
thế nữa, trong con tim của tôi. Thầy phải chiến đấu trong cuộc nổi loạn tháng
giêng mà một viên đạn đã làm thầy bị thương nặng ở chân. Kể từ thời gian đó,
thầy bị tàn phế và phải mang chân giả.
Đối với tôi, thầy là một
khuôn mặt đáng kính phục. Tôi đã gắn bó với thầy rất nhiều về mặt tinh thần.
Tôi đã viết một vở bi kịch về thầy với tựa đề “Sư huynh của Chúa”.
Nhân cách của thầy đã hấp
dẫn tôi. Tôi thấy nơi thầy một gương mẫu thích hợp với tôi: thầy đã buông bỏ
nghệ thuật để trở nên kẻ phục vụ những người nghèo – những “kẻ mặt mày lem
luốc” như thời đó người ta thường gọi những người ăn xin. Tiểu sử của thầy đã
giúp tôi rất nhiều trong việc từ bỏ nghệ thuật và kịch nghệ để vào tu học ở
chủng viện.
Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh
Cầu các thánh của đất nước Ba-lan, trong đó cũng có ghi tên thánh Albert. Trong
các thánh ở Cracovie, tôi cũng nhớ tới thánh Jacek Odrowaz là một vị
thánh lớn của thành phố đó.
Thánh tích của ngài đặt để
trong thánh đường các cha Đa-minh. Tôi rất năng đến nguyện đường đó. Thánh Jacek là một vị thừa sai vĩ đại: từ
Gdansk, ngài đã di chuyển về hướng đông, cho tới Kiev.
Trong nhà thờ các cha dòng
Phan-xi-cô, cũng có phần mộ chân phước Aniela Salawa, một gia nhân tầm
thường. Tôi đã phong thánh ở Cracovie ngày 13 tháng 8 năm 1991. Cuộc đời của
ngài là chứng cớ cho thấy công việc của một gia nhân, được hoàn tất trong tinh
thần đức tin và hy sinh, có thể đưa tới sự thánh thiện. Tôi thường thăm viếng
ngôi mộ của ngài.
Các thánh Cracovie, tôi xem
các ngài như những vị bảo hộ tôi. Tôi có thể kể ra một danh sách thật dài:
thánh Stanislas, thánh nữ hoàng Hedwig, thánh Gioan Katy,
thánh Casimir hoàng tử của vua và những vị khác. Tôi tưởng tới các ngài
và cầu xin các ngài cho đất nước tôi.
Các thánh nam nữ tử đạo
“Lạy Thánh Giá Chúa
Kitô, con xin tán tụng,
tán tụng Thánh Giá Ngài luôn mãi!
Từ Thánh Giá Chúa phát ra quyền năng và sức mạnh,
ở nơi Thánh Giá Chúa là sự chiến thắng.”
(Krzyzu Chrystusa)
Tôi không bao giờ đeo thánh
giá trên ngực một cách thờ ơ. Đó là một cử chỉ mà tôi thường kèm theo một lời
cầu nguyện. Từ hơn bốn mươi lăm năm nay, thánh giá được để trên ngực tôi, bên
cạnh quả tim tôi.
Yêu mến thánh giá có nghĩa
là yêu mến sự hy sinh. Các thánh tử đạo là những mẫu mực đối với tình yêu đó,
chẳng hạn Đức Cha Michal Kozal, được tấn phong giám mục ngày 15 tháng 8
năm 1939, hai tuần lễ trước khi Đệ Nhị Thế Chiến khai mào.
Ngài đã không bỏ rơi đoàn
chiên của ngài trong cuộc xung đột, cho dẫu người ta có thể thấy trước cái giá
mà ngài phải trả đối với điều đó. Ngài đã hy sinh mạng sống mình trong trại tập
trung Dachau mà ở đó ngài đã trở thành mẫu mực và sự hỗ trợ tinh thần cho những
linh mục bị làm tù binh như ngài.
Vào năm 1999, tôi đã có dịp
phong thánh một trăm lẻ tám vị tử đạo là những nạn nhân của Đức Quốc Xã trong
đó có ba giám mục: Đức Cha Antoni Julian Nowowiejski, tổng giám mục
Plock, vị phụ tá của ngài là Đức Cha Leon Wetmanski và Đức Cha Wladyslaw
Goral ở Lublin.
Cùng với các ngài cũng được
nâng lên vinh dự bàn thờ những linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân. Một sự kết
hợp như thế trong đức tin, trong yêu thương và trong sự tử đạo giữa những mục
tử cùng đoàn chiên tề tựu xung quanh thánh giá Chúa Kitô thật có ý nghĩa đặc
biệt.
Linh mục Ba-lan – Thánh Maximilien
Kolbe – là một gương mẫu được nhiều người biết đến về sự hy sinh bởi tình
yêu trong trại tập trung Auschwitz, tự hiến mạng sống mình cho một tù nhân khác
mà ngài không quen biết. Tù nhân đó là một người cha gia đình.
Còn có các vị tử đạo khác,
gần gũi chúng ta hơn trong thời gian. Tôi muốn gợi lại với nhiều xúc động những
cuộc gặp gỡ của tôi với Đức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận. Trong
năm thánh đáng ghi nhớ 2000, ngài đã giảng Tĩnh Tâm tại Vatican.
Khi cảm ơn ngài về những
bài suy niệm, tôi đã nói: “Chính ngài là
chứng nhân Thánh Giá trong những năm dài ngục tù ở Việt-nam. Ngài đã thường kể
lại những sự kiện và những giai đoạn trong thời gian đau khổ của ngài ở trong
nhà tù. Và như thế, ngài đã xác tín một cách thật an ủi rằng, khi tất cả đều
sụp đổ chung quanh chúng ta và cũng có thể ở trong chúng ta nữa thì Chúa Kitô
là nơi nương tựa bất diệt” (ngày 18 tháng 3 năm 2000).
3.- Thánh Stanislas
Ở
trong sâu kín của những khuôn mặt rạng rỡ thuộc các vị Thánh Ba-lan, bằng đôi
mắt con tim, tôi thấy nổi bật lên hình bóng vĩ đại của vị giám mục tử đạo là
Thánh Stanislas. Như đã nhắc nhở, tôi đã dành trọn một bài thơ mà trong
đó tôi đã gợi lại sự tử đạo của ngài. Khi đọc bài thơ đó thì hầu như nhìn vào
một tấm kiếng soi lịch sử của Giáo Hội ở Ba-lan. Đây là vài đoạn của bài thơ
đó:
1
Tôi
muốn mô tả Giáo Hội – Giáo Hội của tôi
khai
sinh cùng thời với tôi,
nhưng
không chết đi với tôi –
và
tôi không chết với Giáo Hội
vì
Giáo Hội luôn trổi vượt lên tôi –
Giáo
Hội: chiều sâu và đỉnh cao của bản thể tôi.
Giáo
Hội: gốc rễ tôi bám trụ
trong quá khứ và trong tương lai,
Bí Tích của sự sống tôi trong
Thiên Chúa là Cha.
Tôi muốn mô tả Giáo Hội – Giáo Hội
của tôi
gắn liền với đất đai xứ sở tôi
(đã có chép: “tất cả những
gì con ràng buộc dưới đất
sẽ được ràng buộc ở trên trời”) –
và đất đai xứ sở tôi gắn liền với
Giáo Hội tôi.
Đất đai xứ sở tôi ở lưu vực sông
Vistule
với những chi lưu nước trào dâng
vào mùa xuân,
khi tuyết tan trong rặng núi
Carpates.
Giáo Hội gắn liền với đất đai xứ
sở tôi
bởi vì những gì ràng buộc ở đó
phải được ràng buộc trên trời.
2
Có một người mà ở nơi họ
đất đai xứ sở tôi biết được ràng
buộc trên trời.
Có người đó, những người đó…
Ở thời nào, cũng có…
Nhờ họ, đất đai xứ sở thấy chính
mình
trong bí tích của một cuộc sống
mới.
Đất đai xứ sở là quê hương tôi:
bởi vì ở đó nhà Cha đã được cưu
mang,
ở đó nhà Cha đã được phát sinh.
Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi
qua một người với danh xưng Stanislas,
danh xưng được viết trong biên
niên sử xa xưa nhất
bởi lưỡi kiếm của hoàng đế
Boleslas.
Nhà vua đã viết tên đó trên nền đá
hoa nhà thờ chính tòa
khi dòng máu đào phun ra.
3
Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi
qua tên gọi
nhờ đó dân chúng nhận lãnh thánh
tẩy lần thứ hai,
một thánh tẩy bằng máu; để rồi sau
đó được tùng phục,
và không chỉ một lần,
thánh tẩy của nhiều thử
thách khác nhau –
thánh tẩy ước muốn mà ở trong đó
nhận ra hơi thở vô hình của Chúa
Thánh Thần –
qua một Tên Gọi
cắm trên mô đất của sự tự do con
người
ngay cả trước khi có tên gọi
Stanislas.
4
Trên mô đất của sự tự do con người
đã nảy sinh Mình và Máu
bị đâm thâu bởi lưỡi kiếm nhà vua
ở chính con tim phát ra lời rao
giảng của bậc tư tế,
bị đâm thâu ở đáy sọ,
bị đâm thâu ở trong thân mình còn
sống…
Mình và Máu lúc bấy giờ chưa có
thời giờ sinh ra –
lưỡi kiếm đã đâm thâu tới chất kim
loại chén rượu lễ
và bánh thánh.
5
Có lẽ hoàng đế đã nghĩ: ngày hôm
nay từ nhà ngươi
sẽ không còn nảy sinh Giáo Hội nữa
–
sẽ không còn nảy sinh dân tộc nghe
lời rao giảng
vì bị chịu hình phạt cả mình và
máu;
Sẽ nảy sinh từ thanh kiếm, từ
thanh kiếm của ta
mà giữa lưng chừng thanh kiếm,
sẽ xé tan những lời nói nhà ngươi;
sẽ phun ra dòng máu tuôn đổ…
Có thể nhà vua đã nghĩ như thế.
Nhưng hơi thở vô hình của Thần Trí
Chúa
sẽ cùng một lúc củng cố
lời rao giảng bị chặt đứt và thanh
kiếm:
cột xương sống bị chặt đứt,
đôi bàn tay đẫm máu…
Ngài phán: cùng nhau từ đây trở đi
chúng
con sẽ bước đi,
không
gì sẽ có thể chia lìa các con!
Tôi
muốn mô tả Giáo Hội của tôi mà trong đó,
qua
bao thế kỷ,
lời
rao giảng và máu đào cùng nhau sánh bước,
được
hợp nhất bởi hơi thở vô hình của Thần Trí Chúa.
6
Cỏ lẽ
Satnislas đã nghĩ: lời nói của ta
sẽ
cảm động nhà vua và sẽ hoán cải nhà vua;
ở
trước cửa nhà thờ chính tòa,
nhà
vua sẽ tới như hối nhân,
nhà
vua sẽ tới, bị hao mòn vì chay trường,
bị
xâu xé bởi chuỗi tiếng nói nội tâm…
Nhà
vua sẽ tới gần bàn thánh Chúa,
như
đứa con hoang đàng.
Lời
rao giảng đã không cải hoán được,
Máu
Đào sẽ hoán cải –
đối
với vị giám mục,
có
thể chưa kịp có thời giờ suy nghĩ:
hãy
xa khỏi ta chén đắng nầy.
7
Trên
mô đất tự do chúng ta thanh kiếm rơi xuống,
trên
mô đất tự do chúng ta máu đào đổ xuống.
Trong
hai điều đó, điều gì sẽ thắng thế?
Thế
kỷ đầu đang hồi kết thúc
và
thế kỷ thứ hai bắt đầu.
Hãy
nắm VẬN MỆNH trong bàn tay chúng ta,
VẬN
MỆNH của một thời điểm sẽ đến.
4.- Thánh địa
Đã từ lâu, tôi ôm ấp trong lòng điều
ao ước được thực hiện một cuộc hành hương trên những bước đường của tổ phụ Abraham,
bởi vì tôi đã đi hành hương nhiều nơi trên mọi phần đất thế giới. Đức Phao-lồ
VI đã đến Thánh Địa khi ngài khởi hành lần đầu tiên.
Tôi muốn thực hiện chuyến đi đó vào
năm thánh 2000. Sẽ phải bắt đầu từ Ur ở Chaldée, trên phần đất Irak hiện nay mà
từ đó, đã rất nhiều thế kỷ, Thánh tổ phụ Abraham đã ra đi, đáp lại tiếng gọi
của Chúa (xem Sáng Thế Ký 12, 1-4).
Rồi tôi sẽ có thể tiếp tục đi đến
Ai-cập, theo những vết chân tổ phụ Môi-sen là đấng đã hướng dẫn dân
Do-thái ra khỏi miền đất đó và đã đến dưới chân núi Sinai để nhận lãnh Mười
Điều Răn như là nền tảng giao ước với Thiên Chúa.
Lúc bấy giờ tôi có thể thực hiện cuộc
hành hương của tôi ở Thánh Địa, bắt đầu từ nơi Truyền Tin. Rồi tôi đi đến
Bethléem là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, và ở những nơi gắn liền với cuộc
đời và sứ vụ của Ngài.
Nhưng cuộc hành trình của tôi đúng ra
đã không thực hiện được như tôi dự định. Tôi không thể thực hiện giai đoạn đầu,
theo những vết chân tổ phụ Araham. Chỉ đó là nơi độc nhất mà tôi không thể tới,
bởi vì chính quyền Irak không cho phép.
Vì vậy tôi tới Ur ở Chaldée
bằng tâm trí, trong một buổi lễ được tổ chức theo ý đó trong sảnh đường Phao-lồ
VI. Ngược lại, tôi đã đến được Ai-cập, ở chân núi Sinai, nơi mà Thiên
Chúa đã mạc khải Thánh Danh Ngài cho ông Môi-sen. Tôi đã được các đan sĩ Chính
Thống Giáo tiếp đón. Các thầy rất hiếu khách.
Kế đó tôi đến Bethléem, rồi Nazareth
và cuối cùng ở Jérusalem. Tôi đã đến Vườn Cây Dầu, rồi Nhà
Biệt Ly và dĩ nhiên là Núi Sọ ở Golgotha. Đó là lần thứ hai tôi đi
viếng Thánh Địa. Tôi đã đến đó lần đầu trong tư cách tổng giám mục Cracovie,
trong thời gian Công Đồng.
Ngày cuối cùng của cuộc hành hương
năm thánh 2000, tôi đã dâng Thánh Lễ gần mộ Chúa Kitô, với vị quốc vụ khanh Tòa
Thánh là Đức Hồng Y Angelo Sodano và với những thành viên khác của phủ Quốc Vụ
Khanh.
Còn nói gì hơn nữa? Chuyến đi đó thật
vĩ đại, một kinh nghiệm lớn lao. Thời gian quan trọng nhất của suốt cuộc hành
hương chắc chắn là trạm dừng chân trên đỉnh Núi Sọ, đỉnh núi Chúa bị
đóng đinh và gần Ngôi Mộ Chúa cũng là nơi Ngài đã phục sinh. Những tâm tư của
tôi trào dâng trong xúc động, cũng như lần tôi thăm viếng Thánh Địa đầu tiên.
Lúc bấy giờ tôi đã viết:
“Hỡi nơi chốn, nơi chốn của
Thánh Địa – đã chiếm một chỗ như thế nào trong tôi! Do đó tôi không thể dẫm lên
đất đó dưới bàn chân tôi, tôi phải quì gối. Và như thế ngày nay chứng thật đất
đó là nơi gặp gỡ. Tôi quì xuống – và như thế tôi đã đóng ấn.
Đất đó sẽ tồn tại ở đây với
dấu ấn của tôi – đât đó sẽ tồn tại, sẽ tồn tại – và tôi sẽ mang đất đó theo
tôi, tôi sẽ biến đất đó ở trong tôi thành một nơi chứng tích mới. Tôi ra đi như
một chứng nhân để làm chứng tá qua nhiều thế kỷ.”
(Hành hương Thánh Địa - 3.
“Những căn tính”).
Nơi Cứu Rỗi! Không nói được nhiều
hơn: “Tôi sung sướng được đi tới đó.”
Có điều gì hơn thế nữa: đó là dấu ấn của sự đau khổ tột độ, dấu ấn của sự chết
cứu độ, dấu ấn của sự Phục Sinh.
5.- Abraham và Chúa Kitô: “Lạy Chúa, nầy Con đây, Con đến thực thi thánh ý
Ngài.”
Đấng tổ phụ
của đức tin và lòng can đảm từ ngài tuôn ra phải thể hiện nơi mỗi người chúng
ta điêu nầy là “vâng nghe tiếng Chúa
gọi và ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11, 8).
Tác giả thư gởi giáo đoàn Do-thái đã viết những lời đó khi nói về ơn gọi của tổ
phụ Abraham, nhưng cũng liên hệ đến hết mọi ơn gọi của con người, kể cả
ơn gọi rất đặc biệt nhất được thể hiện trong sứ vụ giám mục: lời kêu gọi được
trở nên những người đầu tiên trong đức tin và đức ái.
Chúng ta đã
được tuyển chọn và kêu gọi để ra đi, và không phải chúng ta ấn định mục
tiêu cho cuộc hành trình. Chính Đấng đã truyền lệnh cho chúng ta ra đi,
thực hiện điều đó: Thiên Chúa thành tín, “Thiên Chúa của Giao Ước”.
Gần đây tôi
đã trở về với khuôn mặt của tổ phụ Abraham qua một bài suy niệm có tính cách
thi ca. Tôi trích dẫn ra đây một đoạn:
Thưa
tổ phụ Araham –
Đấng
đã đi vào trong lịch sử loài người,
chỉ
mong ước qua ngài được tỏ lộ huyền nhiệm
ẩn
giấu từ khi vũ trụ được tạo thành,
huyền
nhiệm đó còn xưa hơn cả vũ trụ!
Nếu
hôm nay chúng ta đi tới những nơi đó,
mà
xưa kia tổ phụ Abraham đã từ đó ra đi,
nơi
ngài đã nghe Tiếng Chúa,
nơi
đã thực hiện lời hứa,
chính
là để người ta dừng chân nơi ngưỡng cửa –
để
tới được lúc khởi đầu của Giao Ước.”
(Ở xứ
của núi Moriyya)
Trong những suy niệm về ơn gọi giám
mục mà tôi trình bày hôm nay, tôi cũng muốn trở về với khuôn mặt Abraham là cha
chúng ta trong đức tin, và nhất là cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Kitô Cứu
Thế mà về thể xác, là “con cái
Abraham” (xem Mt 1, 1), nhưng đồng thời cũng hiện hữu “trước khi có Abraham, bởi vì Ngài Hằng Hữu”
(xem Gio 8, 58).
Từ cuộc gặp gỡ đó, ánh sáng chiếu
giãi trên huyền nhiệm ơn gọi chúng ta trong đức tin, và trên hết mọi trách
nhiệm cùng lòng can đảm cần thiết tương ứng.
Người ta có thể nói đó là một huyền
nhiệm với hai bộ mặt. Trước tiên là huyền nhiệm về những gì, nhờ ơn Chúa, đã
xảy đến trong lịch sử loài người. Và huyền nhiệm về tương lai, tức niềm hy vọng:
đó là huyền nhiệm về ngưỡng cửa, mà mỗi người trong chúng ta, căn cứ vào cũng
một ơn gọi, phải vượt qua và được nâng đỡ bởi đức tin, không thối lui trước bất
cứ điều gì, bởi vì biết mình đã đặt để niềm tin vào ai (xem 2Tm 1, 12).
Trong huyền nhiệm đó, được liên kết
một cách chặt chẽ, không thể phân cách, tất cả những gì đã xảy ra ngay từ
ban đầu, những gì đã đến từ trước khi tạo thành vũ trụ và những gì còn
phải đến về sau nữa.
Như thế đức tin, trách nhiệm và lòng
can đảm của mỗi người chúng ta được ghi khắc trong huyền nhiệm của sự thành tựu
kế hoạch Thiên Chúa. Đức tin, trách nhiệm và lòng can đảm của mỗi người trong
chúng ta xem ra cần thiết, bởi vì tặng phẩm của Chúa Kitô cho thế giới có thể
được biểu lộ một cách phong phú toàn diện.
Không những một đức tin được duy trì
trong ký ức di sản nguyên vẹn của những huyền nhiệm Thiên Chúa, mà còn là một
đức tin có can đảm mở ra và tỏ bày một cách luôn mới mẽ di sản đó trước những
người mà Chúa Kitô đã sai môn đệ của Ngài đến với họ.
Đó là một trách nhiệm không chỉ giới
hạn trong việc bảo toàn những gì đã được giao phó mà còn có can đảm đem hết khả
năng mình ra để tăng trưởng thêm lên (xem Mt 25, 14-30).
Khởi từ tổ phụ Abraham, đức tin của
mỗi con cái ngài bao gồm việc vượt thoát liên tục những gì thân thiết, những gì
đặc thù, những gì thân quen để mở ra tới một chân trời xa lạ, căn cứ vào chân
lý phổ quát và vào tương lai chung cho tất cả mọi người ở nơi Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta được mời gọi tham gia
vào tiến trình vượt thoát khỏi phạm vi thường tình đó, phạm vi thân cận với
chúng ta nhất. Chúng ta được mời gọi hướng về Thiên Chúa ở nơi Chúa Giêsu Kitô
là Đấng đã vượt thoát chính mình, bằng cách “phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,
14), để đem chúng ta về với Ngài bởi Thập Giá.
Chúa Kitô muốn nói với chúng ta: trung
tín theo tiếng gọi Chúa Cha, con tim mở rộng với hết mọi người gặp
gỡ; hành trình mà trên đó không có được một nơi “gối đầu” (Mt 8,
20) và cuối cùng Thập Giá nhờ đó người ta đạt tới chiến thắng của sự phục
sinh.
Chính Chúa Kitô là Đấng can đảm đi về
phía trước và “không dừng lại” trước khi mọi việc được hoàn tất, trước
khi “lên cùng Cha của Ngài cũng là
Cha của chúng ta nữa” (Gioan 20, 17), Đấng “vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và
như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13, 8).
Do đó đức tin chính là sự kiện con
người không ngừng mở ra đối với sự kiện Thiên Chúa tuôn tràn không dứt trên thế
giới loài người. Đó là hành trình con người đi tới Thiên Chúa, một Thiên Chúa
mà về phần Ngài, đem những con người xích lại với nhau.
Lúc bấy giờ người ta đạt tới điều mà
tất cả những gì đặc thù đối với mỗi cá nhân trở nên đặc điểm chung cho mọi
người và những gì thuộc kẻ khác cùng một trật trở thành của tôi.
Chính đó là nội dung chứa đựng trong
những lời người cha nói với người con trưởng trong dụ ngôn “đứa con hoang đàng”: “Tất cả những gì của cha đều là của con”
(Lc 15, 31). Thật có ý nghĩa khi chính những lời nói đó được lặp lại
trong lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu như là những lời Chúa Con ngỏ với Chúa
Cha: “Tất cả những gì của Con đều là
của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Gio 17, 10).
Trong khi sắp xảy đến điều mà Ngài
nhận biết như là “giờ của Ngài”
(xem Gio 7, 30; 8, 20; 13, 1), chính Chúa Kitô đã nói về tổ phụ Abraham
một cách thật ngạc nhiên biết bao đối với những người nghe Ngài: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui
mầng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Gio
8, 56).
Như vậy niềm vui của tổ phụ Abraham
là gi? Phải chăng ngài đã đoán thấy tình yêu và lòng dũng cảm mà “con ngài”
xét vế mặt xác thịt, là Chúa Giêsu và là Đấng Cứu Chuộc, phải “đi
đến cùng để thực thi ý Cha” (xem Dt 10, 7)?
Rõ ràng chính trong những biến cố của
cuộc Khổ Nạn Chúa Kitô mà chúng ta tìm thấy sự quy chiếu cảm động nhất về huyền
nhiệm tổ phụ Abraham, khi ngài được hỗ trợ bởi đức tin, đã rời bỏ quê hương và
trẩy đi xa đến một nơi vô định, và nhất là khi con tim bị khắc khoải giày vò,
ngài đã dẫn lên núi Moriyya, đứa con mình hằng bao năm trông đợi và thương mến,
để hiến tế như của lễ hy sinh.
Khi đến “giờ của Ngài”, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ ở cùng Ngài
trong vườn Giết-sê-ma-ni như thánh Phê-rô, Thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan là
những môn đệ được Ngài thương yêu cách đặc biệt: “Đứng dậy! Ta đi nào!” (Mc 14, 42. Ngài không là kẻ
duy nhất phải “đi” để thực thi thánh ý Chúa Cha: các môn đệ cũng phải đi với
Ngài nữa.
Lời mời gọi đó – “Đứng dậy! Ta đi nào!” –
đã ngỏ một cách thật đặc biệt, với chúng ta là những giám mục, những bạn hữu
tiêu biểu nhất của Ngài. Cho dẫu những lời nói đó bao hàm một thời điểm thử
thách, một cố gắng phi thường, một thập giá đớn đau, chúng ta không được để cho
sự sợ hãi thắng thế. Đó là những lời nói cũng chất chứa niềm vui và sự an bình
là thành quả của đức tin.
Trong một trường hợp khác, cũng với
ba môn đệ đó, Chúa Giêsu đã mời gọi họ rõ ràng như sau: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17, 7). Tình yêu Thiên
Chúa không chất chồng trên chúng ta những gánh nặng chúng ta không thể vác nổi.
Ngài không đòi hỏi chúng ta những điều chúng ta không thể đương đầu. Khi Ngài
đòi hỏi, Ngài ban cho sự hỗ trợ cần thiết.
Khi nhắc lại điều đó, tôi muốn đề cập đến nơi chốn mà tình
yêu Chúa Kitô Đấng Cứu Thế đã đưa dẫn tôi, yêu cầu tôi đi khỏi quê hương tôi để
sinh hoa kết quả ở nơi khác, nhờ Ân Sủng của Ngài, một hoa trái được tồn tại
(xem Gio 15, 16).
Lặp lại những lời nói của Thầy Chí Thánh và Chúa chúng ta,
tôi cũng nói lại như vậy với mỗi người trong anh em, thưa Chư Huynh đáng kính
trong Giám Mục Đoàn: “Đứng dậy! Ta đi
nào!” Chúng ta hãy đi trong sự tín thác vào Chúa Kitô. Ngài đồng
hành với chúng ta trên cuộc lữ thứ trần gian, cho đến đích điểm mà chỉ một mình
Ngài biết.
+ Gioan Phaolô II