Tinh thần Assisi
Chính Đức Gioan-Phaolô
II đã dùng thuật ngữ “tinh thần Átxidi” để gọi ngày lịch sử 27-10-1986, khi các
nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn, theo lời mời của ĐGH, đã cùng với ngài về Átxidi
để cầu nguyện cho hòa bình.
Người ta đã coi thường
và chế nhạo công thức này. Phải nhìn nhận rằng thuật ngữ này vừa gợi ý vừa mơ
hồ. Không thiếu người đã ít nhiều minh nhiên dùng thuật ngữ này như một nhãn
hiệu ý thức hệ, mà áp dụng cho việc đối thoại liên tôn theo một tầm nhìn mà
Kitô giáo không thể chấp nhận được, vì từ khước khẳng định Đức Kitô như là Đấng
Cứu độ duy nhất và phổ quát.
Vậy “tinh thần Átxidi”
là gì và không là gì?
Trong thư cách biến cố
hai mươi năm (2006), gửi cho ĐGM Domenico Sorrentini, GM Átxidi -Nocera
Umbra-GualdoTadino, Đức Bênêđitô XVI đã xác định: “Để không mơ hồ về ý nghĩa
của những gì, vào năm 1986, Đức Gioan-Phaolô II muốn thực hiện, và là điều,
theo một thuật ngữ của ngài, thường được gọi là “tinh thần Átxidi”, điều quan
trọng là vào lúc đó người ta chú ý làm sao để cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện
không được đưa đến những lối giải thích chiết trung, dựa trên một quan niệm
tương đối hóa”.
Ngày 17-6-2007, trong
chuyến viếng thăm mục vụ
Ngài nói: “Việc chọn cử
hành cuộc gặp gỡ ấy ở Átxidi được gợi ý bởi chứng từ của thánh Phanxicô như một
con người hòa bình, mà nhiều người nhìn cách thiện cảm, dù từ những quan điểm
văn hóa và tôn giáo khác. Đồng thời, ánh sáng của Vị Thánh Nghèo trên sáng kiến
là một đảm bảo về tính trung thực Kitô giáo, bởi vì đời sống và sứ điệp của
ngài dựa thật rõ ràng trên việc chọn lựa Đức Kitô, khiến phải loại trừ tiên
thiên bất cứ cám dỗ nào về xu hướng dửng dưng tôn giáo, không hề dính dáng gì
đến việc đối thoại liên tôn trung thực”.
Mới đây trong nhật báo Osservatore Romano ngày 6-7-2011, Đức
Hồng Y William Levada, tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, cũng đã nhắc lại các
điểm giáo lý này: “Nói tóm, vấn đề không phải là che giấu niềm tin của mình
nhắm có được một sự hợp nhất bề ngoài, nhưng là tuyên xưng, như Đức
Gioan-Phaolô II và đức thượng phụ đại kết đã làm, rằng hòa bình của chúng ta là
Đức Kitô, và chính vì lẽ đó, con đường hòa bình là con đường của Hội Thánh”.
Rồi ngài nhắc lại thông điệp Redemptoris
Missio của Chân phước Gioan-Phaolô II mà nói rằng: Trong Thông điệp ấy, Đức
Gioan-Phaolô II đã tố giác một não trạng mang dấu ấn là sự dửng dưng, đáng tiếc
là rất phổ biến giữa lòng các Kitô hữu, mà thường đặt nền tảng trên các quan
niệm thần học không chính xác và rất thấm nhuần một chủ trương tương đối hóa về
tôn giáo đưa đến chỗ coi mọi tôn giáo có giá trị như nhau”. Rồi Đức Hồng Y Tổng
trưởng nhắc đến Tuyên ngôn Dominus Deus, do Bộ giáo lý đức tin phát hành vào
năm 2000: Tuyên ngôn này “không chỉ nhắm phi bác ý tưởng về một cuộc chung sống
liên tôn trong đó các ‘tín ngưỡng’ khác nhau được coi như những nẻo đường bổ
túc cho nèo đường căn bản là Đức Giêsu Kitô; sâu xa hơn, tuyên ngôn nhắm đặt
các nền móng giáo lý cho một suy tư về tương quan giữa Kitô giáo và các tôn
giáo”.
Cuối cùng ngài nhắc lại
chủ đề của cuộc hành hương sắp tới về Átxidi, “Các khách hành hương về chân lý,
các khách hành hương về hòa bình” và giải thích rằng “để có thể hy vọng cách
thực tiễn là cùng nhau xây dựng hòa bình, phải lấy tiêu chuẩn ;à chân lý”. Như
Đức giáo hoàng, khi còn là Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin đã nói: “Không thể có
hòa bình nếu không có chân lý, và ngược lại, thái độ mở ra với hòa bình là một
“tiêu chuẩn chân lý” trung thực”.
Vậy Đức Bênêđitô XVI sẽ
đến Átxidi. Theo vết chân vị tiền nhiệm, ngài sẽ đến để biện minh cho nhiệm vụ
chung của các tôn giáo là tìm hòa bình. Sáng kiến của ngài, cũng như của Đức Gioan-Phaolô
II, được đặt theo chiều hướng vững vàng liên kết với chiều kích đối thoại là
một sự chặt chẽ trong việc tuyên xưng đức tin. Chúng ta vui mừng coi Thành này
như là một phòng thí nghiệm và một thánh tượng về hòa bình.
Trong vòng 25 năm nay,
“tinh thần Átxidi” đã lây lan khắp năm châu.
* Cho
Trung Đông
Hôm nay, tại bất cứ
cuộc gặp gỡ liên tôn quốc tế nào, nếu nói đến Trung Đông, là có sự hiện diện của
người Hồi giáo, Kitô hữu và Do Thái; các cộng đồng Do Thái sẵn sàng cộng tác
tại bất cứ nơi đâu. Cuộc đối thoại thường đạt tới chỗ “biến kẻ thù thành bằng
hữu” (sách Talmud coi đây là đặc điểm
cao quý nhất của một anh hùng).
* Cho
châu Á
Năm mươi vị lãnh đạo
đại diện các tôn giáo lớn của châu Á, kể cả Kitô giáo, đã nồng nhiệt đáp lại
lời mời của Đức Gioan-Phaolô II về Átxidi ngày 27-10-1986 để cầu nguyện cho hòa
bình trên thế giới. Trong quá khứ, các tôn giáo thường bị tố cáo là gây ra chia
rẽ, nhưng tại Átxidi, các nhà lãnh đạo tôn giáo đến từ châu Á và các châu lục
khác đã truyền thông một sứ điệp rất khác vào lúc các ngài đang sát cánh bên
nhau, cùng được liên kết trong lời cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Đức Đạt Lai
Lạt ma cầu nguyện bên cạnh Đức Gioan-Phaolô II vào nghi thức kết thúc. Một hậu
duệ của Mahatma Gandhi đã thuộc phái đoàn Ấn Độ, đứng bên những nhà lãnh đạo
Hồi giáo
* Cho
châu Mỹ
Nghĩ tới châu Mỹ là
nghĩ tới hy vọng và táo bạo. Trước khi được bầu làm Tổng Thống Hoa Kỳ, thượng
nghị sĩ Barack Obama đã đặt tên cho quyển sách thứ hai của ông là “Sự táo bạo của niềm hy vọng – các suy tư về việc
tái chinh phục giấc mơ Mỹ” (The
Audacity of Hope: Thoughts on Reclaiming the American Dream, 17-10-2006). Những
gì Đức Gioan-Phaolô II đã làm vào năm 1986 tại Átxidi thì chứa chan hy vọng và
đồng thời táo bạo. Ai có thể tưởng tượng ra là có thể quy tụ những lãnh đạo của
các tôn giáo thế giới tại một nơi duy nhất mà cầu nguyện bên nhau cho hòa bình?
Ai có thể tưởng tượng được rằng một vị lãnh đạo lại có thể thuyết phục tất cả
buông vũ khí trong một ngày? Rất lì và liều! Thật ra một trong những điều Đức Gioan-Phaolô
II đã dạy cho thế giới là đôi khi phải mạo hiểm, đôi khi phải lì và đôi khi
phải liều. Giá trị của sự biện phân của ngài là đã làm chào đời “tinh thần Átxidi”.
Rõ ràng là không được ngừng liều lĩnh nếu muốn có hòa bình.
* Cho
châu Âu
Đây là khoảnh khắc
trung tâm của buổi gặp gỡ lịch sử. Người ta cầu nguyện chung mà không cầu
nguyện chung, để tránh équivoques. Do đó mỗi gia đình tôn giáo luân phiên cầu
nguyện trước những gia đình khác.
Theo Đức Hồng Y
Gianfranco Ravasi, nếu muốn giải thích “tinh thần Átxidi”, ta có thể dùng hình
ảnh thánh Phaolô đã dùng trong ch. 2 của thư Êphêxô: nay không còn ngăn cách
giữa dân Do Thái và Dân Ngoại nữa, cả hai đã thành một. Đức Giêsu đã phá đổ bức
tường ngăn cách, đó chính là “tinh thần Átxidi”, nhưng luôn luôn nhớ rằng mỗi
người vẫn đứng vững trong miền đất của mình. Bởi vì sự phong phú của mỗi tôn
giáo vẫn được duy trì, chứ không có việc loại bỏ lẫn nhau. Từ đây tuôn trào ra
một sứ điệp về sự khiêm nhường, nghèo khó, hiền lành, liên đới, tạo ra một bầu
khí lý tưởng trong đó các khác biệt có thể gặp nhau, mà không ai phải từ chối
căn tính của mình, nhưng đồng thời được thúc đẩy khẳng định căn tính này là
không có thứ kiêu ngạo tạo ra những hàng rào và gây ra những cuộc chiến tranh.
Còn nếu là Átxidi là vì
cách nào đó Átxidi, nhờ có thánh Phanxicô, đã trở thành một thứ biểu tượng phổ
quát về Kitô giáo trung thực. Quả thật, Phanxicô là một Kitô hữu nghiêm túc,
sống một Kitô học không giải thích (sine glosa), nhưng đàng khác cũng sống một
Kitô giáo phong phú, trong đó không còn Do Thái hay Hy Lạp, nghĩa là không còn
quan tâm đến các phân biệt văn hóa nữa, nhưng tìm tối đa gặp gỡ và đối thoại.
Nhìn vào đời sống ngài, ta thấy gương mặt của Phanxicô và của Đức Kitô chồng
vào nhau. Ngài sống điều chính yếu, đó chính là sự nghèo khó. Ngài tìm gặp gỡ,
đối thoại, tìm cách đưa tay ra cho người anh em. Ngài có những kiểu nói chắc
nịch Phúc Âm: “Pace e Bene”. Átxidi là như thánh tượng (icône) của Đối thoại
liên tôn, do Phanxicô đã gặp quốc vương Hồi Giáo al-Kamil. Lời Kinh Đức Hồng Y ĐHY
Jean-Louis Tauran, Chủ tích Hội đồng giáo hoàng Đối thoại liên tôn nói rằng Đối
thoại liên tôn chủ yếu là một sinh hoạt tôn giáo. Tất cả chúng ta đều có bổn
phận “cổ võ sự hiệp nhất và bác ái giữa loài người, và thậm chí giữa các dân
tộc, bằng cách trước tiên cứu xét tất cả những gì loài người có chung với nhau
và đang thúc đẩy họ sống chung định mệnh chung” (Nostra Aetate, s. 1). Chính Đức Bênêđitô XVI đã khẳng định vào đầu
năm: “Ai tiến bước về với Thiên Chúa thì không thể không truyền đạt hòa bình,
ai xây dựng hòa bình, không thể không đến gần Thiên Chúa”.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm