Thánh Phanxicô
Xaviê: Người biết ước muốn và nhận định (lễ kính ngày 03-12)
(dongten.net)
Thánh Phanxicô Xaviê: Người biết ước muốn và nhận định
Philippe Lécrivain,
S.J.[1]
Người dịch: Cosma Hoàng
Văn Đạt, S.J. (
Rạng sáng ngày
3.12.1552, cách nay đúng 450 năm, thánh Phanxicô Xavier đã qua đời trên đảo
Thượng Xuyên, sát cửa biển tỉnh Quảng Đông của Trung Hoa. Lúc ấy, tay ngài đang
cầm một cây nến cháy sáng, do một thanh niên Trung Hoa tên là Antonio, người
bạn đồng hành duy nhất của ngài trao. Cả lục địa mênh mông trước mắt ngài sắp
đón nhận ánh sáng của rạng đông. Khi được tin ở Rôma, cha Polanco, thư ký của
thánh I-nhã, đã viết: ?Thiên Chúa nhân hậu (đã gợi lên nơi cha Phanxicô) những uớc
muốn ấy để ngài được thêm công phúc, nhưng nhất là chính ngài đã muốn bắt chước
Chúa Giêsu chết đi như một hạt lúa được gieo xuống đất, ngay cửa ngõ Trung Hoa,
để những người khác đến gặt hái hoa quả dồi dào hơn?[2]. Cái chết âm thầm lặng lẽ ấy chẳng bao lâu sẽ trở nên như một
chuyện thần kỳ.
Nhưng chúng ta hãy tạm dừng
lại ở đây để, theo gợi ý của cha Xavier Léon-Dufour[3] , dõi bước theo hành trình
của thánh Phanxicô Xavier, đặc biệt ở ba thời điểm quan trọng nhất, tức là khi
ngài rời Ấn Độ đi Maluku, đi Nhật Bản và đi Trung Hoa. Ba lần lên đường này có
thể hiểu được dựa trên các kinh nghiệm thánh Phanxicô Xavier đã trải qua ở
ĐI MALUKU [5]
Vì thánh Phanxicô Xavier
không để lại nhật ký, nên chúng ta chỉ có thể theo bước chân ngài qua những lá
thư ngài gửi cho anh em Dòng Tên ở Châu Á hay cho thánh I-nhã và các bạn ở
Rôma, hoặc cho cha giám tỉnh[6] hay vua Bồ Đào Nha[7]. Đây là những tài liệu khá tản mạn, nhưng không phải là không để lại
những dấu ấn cá nhân đáng kể[8].
Phục vụ một “vua đời tạm” [9]
Vừa đặt chân đến
Cuối cùng, ngài dứt khoát.
Ngày 20.1.1545, ngài viết thư xin vua João III của Bồ Đào Nha nghiêm túc xem
xét lại những mục tiêu đã đề ra ở Châu Á[16]. Nhưng không phải vì giận
người Bồ Đào Nha mà ngài bỏ đi; thư gởi về Rôma sau đó mấy ngày cho thấy những
lý do tích cực hơn và có lẽ cũng sâu xa hơn[17].
Đến với Thiên Chúa bằng một con đường khác
Thánh Phanxicô Xavier đã
hiểu ra: việc phục vụ một vua đời tạm chỉ nhằm mục đích “giúp chiêm ngắm đời sống
vị vua muôn đời”(Lt 91). Phải trải qua kinh nghiệm ngài mới vào được trong khoa sư phạm
ấy: liên kết ý muốn của con người với ý muốn của Thiên Chúa, mục tiêu với phương
tiện của một tình yêu đích thực.
Chúng ta hãy theo ngài.
Ngày 20.9.1542, ngài viết: “Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta ở đời này, để chúng ta phục
vụ Chúa trong mọi sự, như Chúa truyền dạy, và chu toàn thánh ý Chúa ở đời này.”(Bt 15, câu kết). Ngày 15.1.1544, ngài
tiến thêm một bước: “Xin Chúa ban cho chúng ta ơn này là suốt thời gian đang
phải lưu đày, chúng ta cảm nghiệm được, từ bên trong tâm hồn, và chu toàn ý
muốn rất thánh Chúa Người.”(Bt 20, câu kết). Ngày 27.1.1545, ngài bước thêm một bước dài: “Xin Chúa ban cho chúng
ta được biết và nhận ra ý muốn rất thánh thiện của Chúa, và khi đã nhận ra, xin
Chúa ban dồi dào sức lực và ân sủng, để với đức mến, chúng ta chu toàn thánh ý
ngay ở đời này.”(Bt 48, câu kết)[18] .
Kế đến, ngày 7 tháng 4 năm
ấy, ngài viết cho Mansilhas: “Chúa muốn chúng ta luôn sẵn sàng chu toàn thánh ý mỗi khi Người
bày tỏ và cho chúng ta cảm nhận được từ trong lòng. Muốn sống tốt ở đời này,
chúng ta phải làm khách hành hương để đi bất cứ đâu, đến nơi chúng ta có thể
phục vụ Chúa.”(Bt 50,2). Sau khi cho biết ở Malacca[19], vì thiếu người giúp, nên
nhiều người không theo đạo được, ngài kết luận: “Tôi còn nguyên tháng 5
để quyết định.” (Bt 50,3). Ngài đến São Tomé[20] để nhận định. Cha Coelho, cha sở nơi đó, người đã
cho ngài trọ, sau này kể lại: “Ngài có thói quen cứ tối đến là lén đến chòi lá sát đền kính
vị tông đồ. Một đêm, đang khi thầm thĩ cầu nguyện, ngài kêu lên nhiều lần: Thưa
Mẹ, vậy Mẹ không giúp con sao?”[21]. Tối tăm bao trùm trong khi
Chúa Thánh Thần thinh lặng. Nhưng cuối cùng, ngài nhận được ánh sáng. Trong thư
gửi về Goa ngày 8.5.1545, ngài viết: “Luôn sẵn lòng từ bi, đang đã thương nhớ đến tôi, và tôi đã
cảm nhận được an ủi nội tâm mạnh mẽ, nên biết ý Chúa là tôi phải đi
vùng Malacca” (Bt 51,1).
Kết quả, ngài đã đến tận
đảo Môrô, điểm tận cùng của ý Chúa và của “an ủi”. Ngài viết cho anh em Dòng
Tên ở Rôma ngày 20.1.1548: “Tôi nhớ là xưa nay chưa từng được an ủi thiêng liêng lớn lao
và liên tiếp như trên các đảo này, lại ít cảm thấy phải cực nhọc vê phần xác
(…) Thay vì gọi đó là Các Đảo Môrô, có lẽ nên gọi là Các Đảo Hy Vọng Vào Chúa
thì hơn” (Bt 59,4).
GIỮA SÓNG DẬP GIÓ VÙI
Nhờ ơn Chúa, ngay trên quần
đảo Inđônêxia, thánh Phanxicô Xavier đã tận hiến cho Thiên Chúa: “Sau khi đã suy nghĩ, con muốn và ước ao nên giống Chúa, miễn là điều
này giúp con phục vụ và ca ngợi Chúa hơn” (Lt 98). Nhưng ở Malacca, trên bán đảo
Mã Lai, đang khi ngài chờ tàu đi Ấn Độ, có một người Nhật Bản đến gặp ngài (Bt
59,15).
Một lựa chọn đúng và tốt
Kể từ ngày ấy, các hòn đảo
Nhật Bản chiếm một chỗ quan trọng trong tâm trí ngài. Ngày 20.1.1548, ngài viết
cho thánh I-nhã: “Con chưa quyết định dứt khoát là trong
khoảng một năm rưỡi nữa con sẽ phải đi Nhật Bản cùng với một hay hai anh em
trong Dòng, hoặc con sẽ phải gửi hai anh em trong Dòng đến đó. Có điều chắc chắn
là nếu con không đi được, con sẽ gửi người đi. Cho đến nay, con nghiêng về phía
chính con đi hơn. Con đang xin Chúa cho con biết rõ điều nào phù hợp với ý Chúa
hơn”
(Bt 60,4). Cùng hôm ấy, ngài nói rõ ý định của mình trong các thư gửi vua João
III và anh em Dòng Tên ở Rôma. Trong thư trước, ngài đã nghĩ đến việc không ở
lại Ấn Độ nữa: “Tôi chưa quyết định dứt khoát đi Nhật
Bản, nhưng dần dần tôi sẽ biết phải làm gì, vì tôi rất ít tin tưởng là tôi sẽ
được giúp đỡ thực sự ở Ấn Độ, cả để đạo thánh tiến triển cũng như để duy trì
tình trạng đạo như hiện nay” (Bt 61,9). Trong thư sau, ngài có cái nhìn
tích cực hơn về việc ra đi: “Tôi nghĩ (người Nhật
Bản) hiếu học hơn tất cả các dân khác chúng ta từng biết cho đến nay” (Bt 59,16). Ít lâu sau,
ngày 2.4.1548, viết cho ông Diogo Pereira[22], ngài đã dứt khoát: “Tôi rất ước ao và rất vui báo cho ông đôi điều, như với một người bạn
đích thực và tâm phúc của tôi, về chuyến đi Nhật Bản mà tôi dự tính sẽ thực hiện
trong vòng một năm nữa” (Bt 65,1).
Đến ngày 1.2.1459, việc
nhận định kết thúc: ngài sẽ cùng với cha Cosma de Torres khởi hành vào tháng 4.
Ngài viết cho thánh I-nhã: “Ở Nhật Bản, tất cả là
lương dân, không có người Hồi giáo cũng không có người Do Thái, mà lại có đầu
óc tò mò, rất muốn học biết cái mới, cả về Thiên Chúa cũng như về những điều tự
nhiên khác, nên con đã quyết định sẽ đến đó. Con thấy tâm hồn rất phấn khởi.
Con không ngại đi Nhật Bản, vì con cảm nhận trong tâm hồn mình cái gì đó dào
dạt, mặc dầu con hầu như chắc chắn sẽ gặp nhiều nguy hiểm lớn lao hơn những gì
con từng gặp xưa nay” (Bt 70,8.10). Tin chắc là đã được chính Thiên Chúa thúc bách,
ngài nêu lên những lý do (Lt 180-183). Ngài giải thích với thánh I-nhã là ở
Nhật Bản “anh em trong Dòng chúng ta có thể dùng đời
sống làm trổ sinh hoa trái, và sau đó chính họ sẽ tiếp nối” (Bt 70,8). Về điều này,
ngài đã được xác chuẩn: Anjiro, người Nhật Bản ngài đã gặp ở Malacca, cùng với
hai người bạn đã sẵn sàng lên đường. Ngài viết cho thánh I-nhã: “Ở Học viện Đức Tin tại Goa, có ba thanh niên sinh trưởng tại đảo
Nhật Bản ấy. Họ cùng từ Malacca đến đó với con năm 48. Họ đã cho con biết nhiều
điều về khu vực Nhật Bản, và con hiểu dân chúng ở đó có phong hóa tốt, lại rất
thông minh, cách riêng là Phaolô[23] “Trong vòng 8 tháng, Phaolô đã học đọc, viết và nói tiếng Bồ Đào Nha,
và hiện đang tập Linh Thao. Anh ấy tiến rất xa và đi sâu vào những điều thuộc
Đức Tin. Con rất hy vọng, điều này chỉ đặt hết nơi Thiên Chúa, là ở Nhật Bản sẽ
có nhiều người theo đạo” (Bt 71,8). Với cha Simão Rodrigues, ngài nói rõ: “Trong các khu vực này (Ấn Độ), người ta không cần đến tôi lắm nữa,
vì có các cha đến trong năm nay” (Bt 73,3)[24].
Viết cho vua João III,
ngài nói khác: “Kinh nghiệm đã dạy cho tôi biết là Hoàng
Thượng thi hành quyền bính ở Ấn Độ không phải chỉ vì muốn tăng số người tin vào
Đức Kitô: Hoàng Thượng thi hành quyền bính cũng để chiếm hữu của cải vật chất ở
Ấn Độ nữa. Xin Hoàng Thượng thứ lỗi vì tôi nói toạc ra như vậy (?) Tôi không hy
vọng chút nào là những mệnh lệnh hay chỉ thị có lợi cho giáo đoàn mà Hoàng Thượng
gửi đến sẽ được tuân giữ ở Ấn Độ. Chính vì vậy mà tôi đi Nhật Bản, gần như bỏ
trốn, để khỏi mất thêm thời giờ như trước kia đã mất” (Bt 77,2.3). Đến Malacca
vào mùa xuân năm 1549. Ngài biết rõ là những nguy hiểm do bão tố và cướp biển
luôn chờ đợi ngài. Với những ai sợ, ngài trả lời: “Vì Thiên Chúa có quyền trên chúng ta hết thảy, nên tôi không sợ ai,
ngoại trừ Thiên Chúa. Còn những nỗi sợ, những nguy hiểm khác, những đau khổ khác,
mà bạn bè nói tới, tôi kể là số không. Tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa, vì nỗi sợ đối
với các thụ tạo chỉ lớn tới mức Đấng Sáng Tạo ra chúng cho phép là cùng” (Bt 78,2). Nhưng một cuộc
chiến khác đang chờ đợi người “khách hành hương”.
Đương đầu với “thủ lãnh các kẻ thù”
Lúc còn ở Ấn Độ, để khích
lệ cha Henriques đang ở Travancore, ngài đã viết: “Hãy thấy là cha sinh được
nhiều hoa trái ở vương quốc Travancore này hơn cha nghĩ, vì từ khi cha đến đó,
bao nhiêu trẻ em đã được rửa tội và đã qua đời, hiện nay đang sống trong vinh
quang Thiên Đàng (…) Kẻ thù của loài người rất thù ghét cha, và muốn cha tránh
xa xứ ấy, để đừng ai rời bỏ vương quốc Travancore mà lên Thiên Đàng nữa. Ma quỉ
thường nhử những người đang phục vụ Đức Giêsu Kitô là họ sẽ phục vụ Thiên Chúa
được nhiều hơn, với ý xấu là làm cho một linh hồn đang phục vụ Thiên Chúa được
ở nơi này phải áy náy và bối rối, vì vậy bỏ đi nơi khác, thế là nó đuổi được
người ấy ra khỏi nơi họ đang phục vụ được Thiên Chúa” (Bt 68,3)[25]. Mấy tháng sau, đang khi chờ tàu tại Malacca, ngài viết thư gửi anh
em Dòng Tên Ấn Độ: “Kẻ Thù vùng vẫy rất nhiều để ngăn cản
tôi thực hiện chuyến đi này: tôi không biết nó sợ gì trong việc chúng tôi đi
Nhật Bản.” Rồi ngài viết tiếp: “Thực ra, tôi luôn luôn
giữ trước mắt và trước trí khôn tôi điều tôi đã nhiều lần nghe cha I-nhã nói:
những ai muốn thuộc về Dòng này phải chịu gian khổ để thắng được mình và đuổi
xa mọi nỗi sợ là điều ngăn cản người ta tin, cậy và mến Chúa, và muốn được như
vậy, phải sử dụng những phương thế thích đáng” (Bt 85,8.13). Đây chẳng
phải là ngài ám chỉ các qui tắc nhận định sao (Lt 325-327)?
Nhưng mặt biển mới là nơi
thử thách nặng nề. Trên chiếc thuyền gỗ của một nhà buôn Trung Hoa có biệt danh
là Hải Tặc, một bức tượng Thủy Tề
được đặt trang trọng ở mũi thuyền. Thánh Phanxicô Xavier kinh hoàng và khổ sở: “Người ta mang theo một
tượng thần trên thuyền, đặt ngay ở phía trước; anh thuyền trưởng và các kẻ ngoại
khác cầu khẩn cúng bái bức tượng liên tục, và chúng tôi không sao ngăn cản được
họ nhiều lần gieo quẻ để hỏi tượng thần xem chúng tôi có đến Nhật Bản được
không, gió cần cho thuyền chạy có kéo dài không: khi thì họ nói là tốt, khi thì
họ nói là xấu, theo như họ tin (…) Anh em thấy là chúng tôi phải khổ sở thế nào
trong chuyến đò ấy, vì chúng tôi có đi Nhật Bản được hay không là tùy thuộc ý
kiến của ma quỉ và các tôi tớ của nó, mà những người điều khiển và hướng dẫn
con thuyền thì cứ nhất nhất làm theo như ma quỉ nói với họ qua các thẻ”(Bt 90,2.4). Hẳn là ngài nghĩ đến
điều thánh I-nhã viết trong Linh Thao: Luxiphe gửi thuộc hạ đi “bủa lưới và xiềng
xích” khắp nơi (Lt 142). Bão tố
nổi lên, các tai họa dồn dập, và thánh Phanxicô Xavier bị thử thách tận trong
đấy lòng. Chính ngài phải chiến đấu: “Tôi cảm nhận được, biết được bằng chính cảm nghiệm, nhiều
điều liên hệ đến những nỗi kinh hoàng rụng rời do ma quỉ gây ra”(Bt 90,7). Nhưng chính
Thiên Chúa cũng chỉ cho ngài lối thoát: “Phương thuốc tốt nhất cần
dùng trong những hoàn cảnh như vậy là hết sức dũng cảm chống lại Kẻ Thù, đừng
tin tưởng chút nào nơi mình, nhưng đặt hết tin tưởng nơi Thiên Chúa, đặt tất cả
sức mạnh và tất cả hi vọng nơi Người, và nhờ Đấng Bảo Vệ vĩ đại như vậy, chúng
ta trở nên mạnh mẽ; đừng hèn nhát và không chút nghi ngờ việc mình sẽ chiến
thắng” (Bt 90,7). Vậy là ngài
trở nên rất khiêm tốn, thoát ra khỏi chính mình, đặt mình trọn vẹn trong tay
Chúa: ngài đang chiến đấu dưới cờ hiệu của Đức Kitô, “ở một nơi khiêm tốn, xinh
đẹp và dễ thương”, chứ không phải như Luxiphe hay các thuộc hạ của nó “dữ tợn và đáng sợ, ngồi
trên ngai lửa và khói” (Lt 140 và 143).
Bão tố đến rồi đi. Vì có
hải tặc, người chủ thuyền không dám ghé vào Quảng Đông như dự tính, nhưng tiến
thẳng đến Nhật Bản, và mọi chuyện êm xuôi. Trong lá thư đề ngày 29.1.1552, gửi
anh em Dòng Tên ở Rôma, thánh Phanxicô Xavier kể khá kỹ về thời gian ngài lưu
lại trên đất Nhật Bản, đặc biệt là những câu hỏi người ta nêu lên về Thiên Chúa
và việc Sáng Tạo (Bt 96). Nhưng người Nhật Bản vẫn thắc mắc: Tại sao người Trung
Hoa không biết và tin Chúa Giêsu?
HƯỚNG VỀ TRUNG HOA
Trên đường trở lại Ấn Độ,
thánh Phanxicô Xavier dừng chân tại Malacca. Ngài nhận được nhiều thư từ và tin
tức, đặc biệt thư của thánh I-nhã thiết lập Tỉnh Dòng Ấn Độ và đặt ngài làm giám
tỉnh, và tình trạng đáng lo ngại ở Học viện Thánh Phaolô tại Goa. Ngài có nhiều
việc phải lo hơn, nhưng cũng được tự do trong hoạt động tông đồ hơn.
Sức mạnh của lòng yêu mến
Trước khi đi Nhật Bản, thánh
Phanxicô Xavier đã đi thăm một vòng các anh em ở nhiều nơi để thảo luận về công
cuộc truyền giáo và về việc thiết lập hay phát triển các trường học. Riêng về
Học viện Thánh Phaolô ở Goa, mặc dầu ngài thấy cha viện trưởng Antonio Gomes
quá độc đoán, cần phải thuyên chuyển, nhưng ngài chưa dứt khoát. Ngài đã viết
cho thánh I-nhã trong thư ngày 1.2.1549: “Ở đây, anh em trong Dòng
không lấy làm gương sáng lắm trước lệnh do N.[26] mang đến là bắt giam và
trói bằng xiềng xích những ai, theo N., không làm gương sáng lắm ở đây để gửi vể
Bồ Đào Nha”(Bt 70,4)[27]. Rồi ngài tâm sự với thánh I-nhã: “Con nghĩ rằng Dòng Tên
là Dòng yêu mến và hiệp nhất tâm hồn, chứ không phải là ép buộc hay sợ hãi như nô
lệ”(Bt
70,5). Ba năm sau, từ Nhật Bản trở về, ngài thấy tình hình trở nên tệ hại hơn, và
ngài vẫn không thay đổi ý kiến. Cha Antonio Gomes quả là không hiểu gì thánh Phanxicô
Xavier khi muốn biến Học viện Thánh Phaolô ở Goa thành một Học viện Coimbra[28] thứ hai: xây dựng thật lớn
lao, nhưng chỉ nhận học sinh người Bồ Đào Nha[29] . Trái lại, ở Cochin, Dòng Tên cũng có một trường
học, nhưng không có một nhà thờ xứng đáng, ngài đã không ngần ngại tiếp nhận
nhà thờ Madre de Dios, của Hội Từ Thiện Casa da Misericordia, tổ chức tốt nhất của người
Bồ Đào Nha tại Châu Á thời ấy. Trong một thời gian ngắn, ngài thu xếp mọi công
việc đâu vào đó, để rồi lại thực hiện một chuyến đi xa nữa.
Thực ra, ước nguyện của
thánh Phanxicô Xavier không chỉ dừng lại ở việc làm “triển nở” cộng đồng tín hữu
Bồ Đào Nha ở Ấn Độ, nhưng còn muốn góp phần tạo ra những cộng đồng mới: không
còn tranh chấp, kiện tụng, gương xấu, nhưng giữa anh em Dòng Tên và hàng giáo
sĩ triều cũng như dòng, có sự thông cảm và cộng tác; còn những kỳ đà cản mũi
trong Dòng Tên thì bị loại trừ khỏi Dòng (Bt 100 và 101). Đi xa hơn nữa, ngài
ra lệnh cho cha Berze, viện trưởng mới của Học viện Thánh Phaolô: “Trong cách xử sự với các
cha và các anh em, phải rất quí mến, bác ái và khiêm tốn, đừng thô bạo hay gắt
gao…”(Bt
115,1); “Còn về cách giúp (các
tín hữu) thì càng phổ cập hơn càng tốt” (Bt 115,4). Ngài cũng muốn
các tập sinh trong Dòng phải được huấn luyện tử tế bằng việc tập Linh Thao và
thực hiện nghiêm túc các thực nghiệm[30]. Nhưng ngài nhấn mạnh đặc
biệt đến việc anh em trong Dòng phải hiệp nhất với nhau và với bề trên (Bt 117).
Ngài nghĩ cả đến việc được gọi trở về Rôma để gặp thánh I-nhã. Trong thư ngày
29.1.1552, ngài gần như gợi ý với thánh I-nhã: “Cha viết cho con là cha
rất mong được gặp con trước khi lìa khỏi cõi đời này… Đối với đức tuân phục thì
không có gì là không thể được”(Bt 97,3). Thư hồi âm của thánh I-nhã đến Ấn Độ
thì thánh Phanxicô Xavier đã qua đời từ lâu rồi![31].
Chẳng những là một người
dễ gần gũi, mà thánh Phanxicô Xavier còn là một người thích chia sẻ và hiệp
thông nữa. Ngài học được với thánh I-nhã là “mọi điều thiện hảo, mọi
ân huệ đều từ trên cao ban xuống” (Lt 237), nên việc kết hiệp với Thiên Chúa được đặt nền
móng trên việc Người hiện diện khắp nơi. Nhưng đối với thánh Phanxicô Xavier,
kinh nghiệm này rất sống động. Tìm gặp Thiên Chúa trong hiện tại chính là tìm
kiếm Người mọi nơi mọi lúc. Do đó, nơi ngài, việc nhận định được liên kết với
việc mở rộng hoạt động truyền giáo, và muốn tiến bộ trong chiêm niệm phải nhìn
ngắm thế giới này bằng con mắt thiêng liêng. Như trong bài “Chiêm niệm để đạt tới
tình yêu” trong Linh Thao (Lt 230-237), việc “tìm gặp Thiên Chúa trong
mọi sự” được nâng lên thành một
chia sẻ và hiệp thông trong yêu mến, nơi đó con người được mời gọi mở cửa cho
Thiên Chúa, Đấng hoạt động cả bên trong cũng bên ngoài[32].
“Xin đừng bao giờ để con lìa xa Chúa”
Vừa về đến Ấn Độ, thánh
Phanxicô Xavier bày tỏ ngay với thánh I-nhã về ước muốn đi Trung Hoa để phục vụ
Thiên Chúa hơn. Chúng ta đã biết điều gì thúc bách ngài, ở đây chúng ta để
ý đến điểm đặc biệt là các suy nghĩ của ngài rất gần với những điều được trình
bày trong Hiến Chương Dòng Tên[33].
Nguyên tắc hướng dẫn việc lựa chọn hoạt động tông đồ của Hiến Chương Dòng Tên
là trong hoàn cảnh cụ thể, ưu tiên cho hoạt động nào “phục vụ Thiên Chúa hơn
và lợi ích phổ cập hơn”[34]. Đó cũng chính là điều thánh
Phanxicô Xavier đã nghĩ khi viết: “Trong Thiên Chúa, tôi rất hi vọng là một con đường sắp
được mở ra, không chỉ cho anh em trong Dòng, mà còn cho tất cả các dòng khác…” (Bt 96,52). Theo Hiến
Chương Dòng Tên, phải chọn nơi nào người ta sẵn sàng để hoa trái thiêng liêng
trổ sinh hơn. Thánh Phanxicô Xavier quyết định đi Trung Hoa vì người Trung Hoa “có trí khôn sâu sắc” và “hiếu học” hơn người Nhật Bản nhiều
(Bt 96,50). Theo Hiến Chương Dòng Tên, “sự thiện càng phổ cập càng đẹp lòng Thiên Chúa”, nên phải ưu tiên đối
với những người sẽ làm cho sự thiện đến được những người khác nữa, “những người dưới quyền
họ hoặc chịu ảnh hưởng của họ”. Đây cũng chính là điều thánh Phanxicô Xavier nhắm tới: khi
người Trung Hoa đón nhận Đạo Chúa Kitô, họ sẽ giúp cho người Nhật Bản bỏ lòng
tin tưởng nơi các giáo phái từ Trung Hoa truyền sang.
Đã nắm vững những nguyên
tắc hướng dẫn ấy, thánh Phanxicô Xavier chuẩn bị chuyến đi hết sức chu đáo. Ngày
8.4.1552, ngài viết cho vua João III: “Ông Diogo Pereira đi với tư cách là đại sứ (của Tổng Trấn
Bồ Đào Nha tại Ấn Độ), để đòi lại những người Bồ Đào Nha đang bị (chính quyền
Trung Hoa) cầm tù, và cũng để thiết lập quan hệ hòa bình và hữu nghị giữa Hoàng
Thượng và vua Trung Hoa. Về phần chúng tôi, các linh mục Dòng Tên Chúa Giêsu, tôi tớ
của Hoàng Thượng, chúng tôi đi để gây chiến tranh và bất hòa giữa ma quỉ với
những người thờ lạy chúng, thay mặt Thiên Chúa nài van trước là nhà vua, sau là
tất cả dân chúng trong vương quốc, để họ đừng thờ lạy ma quỷ nữa, nhưng thờ lạy
Đấng tạo thành trời đất, vì chính Người đã dựng nên họ, và chính Chúa Giêsu
Kitô đã cứu chuộc họ” (Bt 109,5). Trong lá thư cuối gửi cho thánh I-nhã, thánh Phanxicô
Xavier hạ giọng hơn, như thổ lộ tâm tình, trong đó chúng ta thấy sứ mạng và
chiêm niệm quyện vào nhau: “Mọi người đều nói với con là từ Trung Hoa có thể đi
Giêrusalem được”(Bt 110,12). Sau khi huấn dụ anh em Dòng Tên ở Goa vào đêm thứ năm Tuần
Thánh, ngài rời Goa đi Malacca để theo tàu của ông Pereira đi Trung Hoa. Thật
bất ngờ: hai người con của nhà thám hiểm lỗi lạc Vasco da Gama cùng ở Malacca,
nhưng đối xử với ngài hoàn toàn khác nhau. Người anh là Pedro da Silva da Gama,
trấn thủ trên đất, hết lòng ủng hộ ngài, nhưng người em là Alvaro da Ataida da
Gama, trấn thủ trên biển, nhất định không cho tàu nhổ neo. Ngài phải lấy quyền
Phái Viên Tòa Thánh để ra vạ tuyệt thông, nhưng viên sĩ quan ấy cũng chỉ cho
phép tàu đi mà không có ông Pereira. Mọi sự bỗng nhiên như sụp đổ trước mắt
ngài. Nhưng rồi ngài vẫn đi, “không có một đặc ân nào của ai, hi vọng một người Môrô hay
một kẻ ngoại sẽ chở tôi vào đất liền ở Trung Hoa”(Bt 125,4).
Khoảng đầu tháng 9 năm 1552,
ngài đặt chân lên đảo Thượng Xuyên[35], một hòn đảo vốn hoang
vu đã được các nhà buôn Trung Hoa và Bồ Đào Nha biến thành một thương cảng. Nhờ
các tàu buôn Bồ Đào Nha đi Malacca, thánh Phanxicô Xavier tiếp tục điều hành Tỉnh
Dòng qua thư từ. Trong khi nóng lòng chờ đợi một nhà buôn Trung Hoa đến đón như
đã hẹn, ngài đề ra những phương án khả thi khác: trở về Ấn Độ, theo một phái
đoàn sứ thần Thái Lan để vào Trung Hoa. Nhưng rồi ngài ngã bệnh. Dầu vậy, ngài
vẫn chưa ngã lòng: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được
chúng ta…” (Rm 8,31)[36]. Nhưng ngài không dậy được nữa. Giờ đã đến để ngài dâng lên Thiên Chúa
của lễ tối hậu: “Lạy Chúa, xin thương
nhận… Mọi sự đều là của Chúa, xin Chúa sử dụng tùy ý Chúa. Xin ban cho con tình
yêu và ân sủng của Chúa. Ơn Chúa làm thỏa lòng con” (Lt 234).
Nếu ước nguyện duy nhất
của thánh Phanxicô Xavier là đem Tin Mừng đến cho những người ở xa, thì mười năm
ở Châu Á của ngài được ghi dấu bằng ba cột mốc là ba chuyến đi lớn. Khi rời Ấn
Độ đi Inđônêxia, ngài phần nào tách khỏi quyền “bảo trợ truyền giáo” của Bồ Đào
Nha và lao mình vào nơi ngài chưa hề biết gì. Đó cũng là dịp để ngài đến với
Thiên Chúa một cách khác. Quyết định đi Nhật Bản là kết quả một cuộc nhận định
lâu dài, nhưng dọc theo bờ biển Trung Hoa, ngài khám phá ra Thiên Chúa đòi hỏi
ngài hơn nữa: phó thác trọn vẹn nơi Người. Chuyến đi cuối cùng của ngài vẫn nằm
trong ước nguyện cơ bản nguyên thủy: đó không phải là một cuộc chạy trốn về phía
trước, vì mặc dầu bất đắc dĩ phải ở lại Thượng Xuyên, ngài vẫn tận tình chu
toàn nhiệm vụ giám tỉnh. Nhưng chính lúc ấy, cái chết đến thật bất ngờ. Chắc
chắn ba chuyến đi ấy chưa làm cho ngài kiệt sức, nhưng đủ làm nổi rõ những đường
nét thâm sâu trong cuộc sống của ngài.
———————————
[1] Tạp chí Christus 196,
Octobre 2002, trang 493-502.
[2] Trích dẫn theo André Ravier, La Compagnie de
Jésus sous le gouvernement d’Ignace de Loyola (1541-1556), Desclée de Brouwer,
coll. “Christus”, 1991, trang 203.
[3] Saint Francis Xavier (1953), Desclée de Brouwer,
coll. “Christus”, 1997. Người viết dựa khá nhiều vào tác phẩm này.
[4] Chú thích của người dịch: Tại Paris, thánh Phanxicô
Xavier đã gặp thánh I-nhã, gia nhập nhóm bạn của ngài, tập Linh Thao. Tại Rôma,
nhóm bạn ấy trở thành Dòng Tên. Thánh Phanxicô Xavier cũng từ Rôma đi Ấn Độ
theo lệnh của Đức Thánh Cha Phaolô III.
[5] Chú thích của người dịch: Quần đảo phía đông bắc
Inđônêxia hiện nay, người Tây Phương thường gọi là Moluques hay Moluccas.
[6] Chú thích của nguời dịch: Cha Simão Rodrigues, một
người trong nhóm bạn đầu tiên của thánh I-nhã từ Paris, làm giám tỉnh Dòng Tên
Bồ Đào Nha từ 1546 đến 1552. Từ 1546, Dòng Tên Ấn Độ thuộc Tỉnh Dòng Bồ Đào Nha.
Trước đó, cha Simão Rodrigues vẫn là bề trên của thánh Phanxicô Xavier. Năm
1549 Dòng Tên Ấn Độ được tách khỏi Bồ Đào Nha để trở thành Tỉnh Dòng biệt lập,
và thánh Phanxicô Xavier được thánh I-nhã bổ nhiệm làm giám tỉnh tiên khởi.
[7] Vua João III, rất ưu ái Dòng Tên.
[8] Người viết sẽ nêu lên nhiều nét đặc thù để
trình bày một khuôn mặt khác của thánh Phanxicô Xavier, không lệ thuộc vào
những vấn nạn về tôn giáo và văn hóa hiện nay.
[9] Chú thích của nguời dịch: Cụm từ này xuất phát từ
Linh Thao, số 91 (LT 91).
[10] Chú thích của nguời dịch: thành phố trên bờ biển
phía tây Ấn Độ, là thủ phủ của người Bồ Đào Nha ở khu vực Châu Á.
[11] Chú thích của nguời dịch: Bút tích (bt) thánh Phanxicô
Xavier, tài liệu 15, đoạn 15. Tất cả những điều thánh Phanxicô Xavier đã viết,
và còn lưu lại, được gom lại trong bộ Bút tích (bản tiếng Tây Ban Nha Cartas y Ecritos de San
Franciso Javier của Felix Zubillaga, S.J., Biblioteca de Autores Cristianos, Madrid,
MCMLIII; bản tiếng Pháp Saint Francis Xavier, Correspondance 1525-1552, Lettres et
documents của Hugues Didier, S.J., Dwsclée de Brouwer 1987; bản tiếng
Anh The Letters and
Instuctions of Francis Xavier của M. Joseph Costelloe, S.J., Stanislaô.
[12] Chú thích của nguời dịch: Khu vực Mũi Comorin ở
cực nam Ấn Độ.
[13] Theo hiệp định Tordesilas năm 1494, Đức Giáo Hoàng
Alexanđrô VI chia những vùng đất người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha mới khám
phá được làm 2 phần, phía tây cho Tây Ban Nha, phía đông cho Bồ Đào Nha, với
nhiệm vụ gầy dựng và phát triển Hội Thánh trong phần đất mới. Nhiệm vụ này được
gọi là “bảo trợ”.
[14] Chú thích của nguời dịch: 25 thư liên tục (Bt
21-45).
[15] Chú thích của nguời dịch: bị các tiểu vương chung
quanh bách hại, bị người Bồ Đào Nha bỏ rơi.
[16] Chú thích của nguời dịch: Bt 46.
[17] Chú thích của nguời dịch: Bt 47.
[18] Chú thích của nguời dịch: tác giả viết là thư số
18, nhưng có lẽ thư 48 thì chính xác hơn.
[19] Chú thích của nguời dịch: Có lẽ thánh Phanxicô Xavier
muốn nói ở
[20] Nay là Maliapur. Người ta truyền tụng là Thánh Tôma
tông đồ đã tử đạo và được an táng tại đó.
[21] Trích dẫn theo James Brodrick, Saint Francis Xavier, Spes, 1954, trang
221-222.
[22] Đây là một nhà buôn giàu có người Bồ Đào Nha, sau
này sẽ tài trợ chuyến đi Trung Hoa của thánh Phanxicô Xavier.
[23] Chú thích của nguời dịch: Tên thật là Anjirô.
[24] Số anh em Dòng Tên ở Ấn Độ sẽ lên đến 30 trong
năm 1549.
[25] Chú thích của nguời dịch: Người viết ghi là 69,
nhưng có lẽ 68 thì chính xác hơn.
[26] Chú thích của nguời dịch: Ám chỉ cha Antonio Gomes,
do cha giám tỉnh Bồ Đào Nha là Simão Rodrigues gửi đến và đặt làm viện trưởng
Học viện Thánh Phaolô ở
[27] Chú thích của nguời dịch: Có lẽ theo cách và lệnh
của cha Simão Rodrigues ở Bồ Đào Nha.
[28] Chú thích của nguời dịch: Học viện Coimbra ở Bồ
Đào Nha là một trường đại học; trong khi Học viện Thánh Phaolô ở Goa thâu nhận để
huấn luyện các thiếu niên Ấn Độ ở mức độ thấp hơn nhiều, nhằm mục đích đào tạo
các linh mục, tu sĩ và giáo lý viên bản xứ.
[29] Chú thích của nguời dịch: Về sau, cha Antonio Gomes
bị thánh Phanxicô Xavier khai trừ khỏi Dòng Tên.
[30] Chú thích của nguời dịch: Chẳng hạn làm các việc
phục dịch trong nhà, phục vụ bệnh nhân trong bệnh viện, dạy giao lý cho trẻ em
và người ít học…
[31] Chú thích của nguời dịch: Thánh I-nhã nhận được
thư này vào tháng 4 năm 1553. Ngày 28.6.1553, trong thư hồi âm, thánh I-nhã viết: “Xét thấy để phục
vụ Thiên Chúa hơn và để giúp đỡ các linh hồn hơn…, tôi đã quyết định ra lệnh cho
cha, nhân danh đức tuân phục, giữa bao nhiêu cách, hãy theo cách nào có cơ hội
đầu tiên, mà hành trình tốt, để về Bồ Đào Nha.”
[32] Michel Certeau, “L’universalisme ignatien:
mystique et mission”, Christus, n.50, avril 1966, trang 173-183.
[33] Hiến Chương Dòng Tên được thánh I-nhã soạn thảo
ở Rôma, chỉ được chính thức công bố năm 1558, khi cả thánh Phanxicô Xavier cũng
như thánh I-nhã đã qua đời, nhưng vào những năm cuối đời, thánh Phanxicô Xavier
cũng đã biết phần nào (Bt 107,7).
[34] Xem Hc 622 (Hiến Chương Dòng Tên số 622).
[35] Chú thích của nguời dịch: Hòn đảo dài chừng 24 dặm,
rộng chừng 14 dặm, cách đất liền Trung Hoa 8 dặm, cách thành phố Quảng Châu
khoảng 120 dặm, là khu chợ trời cho các nhà buôn Trung Hoa và Bồ Đào Nha trao
đổi hàng hóa, vì Hoàng Đế Trung Hoa cấm người Châu Âu vào đất liền. Thánh Phanxicô
Xavier lên đảo, cùng với mấy người bạn ở trong một chòi của một nhà buôn Bồ Đào
Nha. Ngài xin dưng một nhà nguyện bằng lá để hằng ngày đến dâng lễ và cầu
nguyện.
[36] Thánh Phanxicô Xavier trích dẫn trong Bt 131,6.