Thờ phượng Thiên Chúa
trong Thần Khí và Sự Thật
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước
Vào thời Cựu
Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ
hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là
vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể,
thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất,
thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn
quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình
là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng
ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ
dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát
tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho
mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v…). Có lần,
để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu
Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu:
khi thấy Abraham không tiếc với mình
đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách
thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
2. Việc thờ
phượng Thiên Chúa Thời Tân Ước
Đến thời Đức
Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con
người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy
trừu tượng hơn, biết hướng vào bên trong và có chiều sâu hơn. Vì thế, việc thờ
phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao
hơn, mang tính nội tâm hơn. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu
đã yêu cầu con người phải thờ phượng Thiên Chúa một cách mới mẻ hơn, cao cấp
hơn. Ngài nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên
núi này hay tại Giêrusalem (…) Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những
người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật.
(…) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật» (Ga 4,22-24).
Đức Giêsu nói
lời yêu cầu ấy khi Ngài còn sống, trong đó có những cụm từ xác định thời điểm
phải bắt đầu thực hiện: «Đã đến giờ», «Giờ đã đến – và chính là lúc này đây».
Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho
xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất
dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này
đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa?
Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về
tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội
tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật
chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không
gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần
Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và
biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng
chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì
chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là «thờ phượng
Thiên Chúa trong thần khí và sự thật»?
3. Thờ phượng
trong thần khí và sự thật
a) Thờ phượng
trong thần khí
Đức Giêsu
nói: «Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng
trong thần khí». Thần khí (pneuma – esprit – spirit) là tinh thần, tâm linh,
thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể
lý, với những gì thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của
chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không
nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức
Giêsu, Thiên Chúa là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ
phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa
là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là
hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác.
Thiên Chúa
của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ
ra ngoài mới hiểu được lòng ta. Trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì
ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: «Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi»
(Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không
cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu
hiện bên ngoài: «Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng
cứ nói cho nhiều là được nhận lời» (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn – nằm trong
thái độ nội tâm của chúng ta – là tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết
ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài và tha nhân.
Đó là xét về
phía Thiên Chúa, nhưng ta cũng cần xét về phía con người. Nếu Giáo Hội chủ
trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên
Chúa mà là vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội,
hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v…
Ngày nay,
theo tinh thần câu nói của Đức Giêsu, con người cần đặt nặng việc thờ phượng
Thiên Chúa trong thần khí hơn việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức
bên ngoài. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất
kỳ một vật nào khác, mà phải là «cái tôi» ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý
riêng của ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của
Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ – nơi sát tế – là chính tâm hồn ta. Thời điểm
sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là
thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời
điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống
ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện
cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội
tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức
Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: «Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người». Việc quan tâm thi
hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình,
phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
Nói
như trên không có nghĩa là không cần những hình thức thờ phượng bên ngoài.
Những hình thức bên ngoài cũng vẫn cần, như cái vỏ trứng cần cho ruột trái
trứng. Nếu trái trứng chỉ là cái vỏ rỗng ruột thì nó hầu như không có giá trị
gì. Nhưng nếu trái trứng không có vỏ thì sẽ rất mau hư, khó cầm, khó chuyên
chở, v.v… Cũng thế, hình thức bên ngoài rất cần để chuyển tải, bảo vệ và duy
trì nội dung bên trong. Nhưng nếu không có nội dung bên trong thì hình thức đó
hầu như vô giá trị.
b) Thờ phượng
trong sự thật
Thờ phượng
Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ
phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải
phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của
đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa
điều mình nói và thực tế của mình. Nghĩa là lời mình nói với Chúa không phản
ảnh đúng tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế
chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa
nữa.
Ngày xưa,
người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho
việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể của Thiên Chúa trên mọi sự. Hành động tế tự đó
hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với
Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một
sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, một dự định, một cơ hội, v.v… để làm đẹp
lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào
với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng
của họ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa
Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích» (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is
29,13).
Ngày nay, có
biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh
mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào.
Họ thường nói với Chúa: «Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con»,
nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều
tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu
toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối
thờ phượng đó!
Ngôn sứ Isaia
diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài
ấy: «Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta
chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương;
Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sabát, ngày đại hội, không chịu nổi
những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày
đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho
Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không
nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các
ngươi đầy những máu» (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta
có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể
đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cốt yếu của
việc thờ phượng Thiên Chúa là thật sự gặp gỡ và kết hợp với Ngài. Đó là nhu cầu
tự nhiên của tình yêu: tình yêu đòi hỏi sự gặp gỡ và kết hợp với nhau. Và kết
quả của việc gặp gỡ và kết hợp ấy là bản thân ta nhận được sự biến đổi và sức
mạnh từ nơi Ngài. Tất cả những việc ta làm ở bên ngoài như đọc kinh, dâng lễ,
rước lễ, chịu các bí tích chỉ là những phương tiện để đạt đến mục đích là gặp
gỡ và kết hợp với Ngài. Nếu không đạt được mục đích ấy, thì những việc làm bên
ngoài kia hầu như chỉ là «công dã tràng». Vậy, điều quan trọng phải đạt được là
thật sự gặp gỡ Thiên Chúa.
4. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?
Nhiều khi ta
đến để gặp Chúa – trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh
lễ, v.v… – nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo
thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối
diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào trong lòng mình, nhưng ta vẫn
không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với
Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu:
«Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (Có
duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với
nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau).
a) Phải có
tình yêu
Như thế, sự
gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có «duyên» với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau
nào đó. Cổ nhân còn nói: «Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu» (Cùng âm
thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp
nhau). Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương – nghĩa
là giống Thiên Chúa – mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: «Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa» (1Ga 4,7a-8). Chữ «biết» ở đây có
nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người
không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.
Đức Giêsu
nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay
tại Giêrusalem». Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian – tức chỗ này
chỗ kia – không phải là chuyện quan trọng: «Đấng Tối Cao không ở trong những
ngôi nhà do tay người phàm làm ra» (Cv 7,48). Đức Giêsu cũng nói: «Giờ đã đến –
và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật» (Ga 4,23). Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên
Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.
b) Phải gặp
Ngài bằng chính tâm hồn mình
Để giải thích
điều này, Đức Giêsu nói: «Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người
phải thờ phượng trong thần khí và sự thật». Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để
gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình – tức tâm hồn mình – để
gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như
vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình.
Thật vậy, nơi
dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì
linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì «con người là hình ảnh của
Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng
cung lòng con người: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên
Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi
thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em» (1Cr 3,17; x. 6,19). Có gặp được Thiên
Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong
Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay
cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên
ngoài. Thánh Âu Tinh đã từng than thở: «Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã
không gặp được Chúa của lòng con» (Confession, cuốn VI, chương 1).
c) Phải có
tâm hồn chân thật
Muốn thật sự
gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là
Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình,
với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật
sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân
chất, «có nói có, không nói không» (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không
thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một
đằng, làm một nẻo.
***
Như vậy,
chúng ta cần cập nhật hóa cách thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta cho đúng với
tinh thần của Tân ước, là thời của Đức Giêsu, vốn đã khởi sự từ 2000 năm nay.
Thời này, ta không nên thờ phượng theo kiểu của Cựu ước nữa, vốn đặt nặng những
hình thức bên ngoài hơn nội dung bên trong. Cách thờ phượng mà Thiên Chúa muốn
là một thái độ nội tâm hơn là những hành vi bên ngoài, và đặt nặng tâm tình có
thực ở bên trong hơn những gì được biểu lộ ra bề ngoài. Chỉ như thế, việc thờ
phượng Ngài mới là thờ phượng «trong thần khí và sự thật».
NGUYỄN CHÍNH KẾT