CHÚA THÁNH THẦN, THÀY DẠY NỘI TÂM
Ngày nay, người ta hay nói về hoạt động của Chúa Thánh
Thần trong Hội Thánh, nhưng ít nói hơn về sự hiện diện và hoạt động của Người
nơi chính mỗi người kitô hữu chúng ta. Trong khi đó, như thánh Phaolô nói,
không những Hội Thánh là đền thờ của Chúa Thánh Thần, mà mỗi người chúng ta
cũng là đền thờ của Người. Đền thờ là nơi Chúa Thánh Thần ngự, nhưng Người
không ngự suông. Ngự ở đó, hiện diện ở đó, chủ yếu là để hoạt động. Vì đền thờ
là nội tâm ta, thì hoạt động của Chúa Thánh Thần cũng là hoạt động ở nội tâm
ta, hoạt động như một vị Thày dạy ta. Chúa Thánh Thần chính là Thày nội tâm,
Thày của đời sống nội tâm.
Chúng ta suy niệm đôi điều về vai trò này của Chúa Thánh
Thần.
1. Vị Thày nội tâm
* Nói cho đúng, tước hiệu Thày là dành cho Đức Kitô. Thày
theo hai nghĩa: là Chúa, tức là có quyền năng tối cao; là thày, vì giáo huấn
các môn đệ. Đức Kitô là vị Tôn sư tuyệt vời, độc nhất. Nói về Thày là nói về
Đức Kitô.
Tuy vậy, có nói Chúa Thánh Thần là Thày nội tâm thì cũng
không quá đâu, vì có mấu cứ trong Kinh Thánh hẳn hoi.
Chúa Thánh Thần là Thày cũng theo hai nghĩa. Là Thày quyền
năng, vì chính nhờ Thánh Thần mà Đức Kitô thi hành quyền năng trên con người.
Chính với tư cách là Thày mà Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ
Tuần, với sức mạnh của cuồng phong và lưỡi lửa. Nhưng đúng hơn, đó là một vị
Thày nội tâm, vì, cho dù có những biểu hiện bên ngoài như vậy, hoạt động của
Thánh Thần vẫn là hoạt động thiêng liêng, hoạt động vô hình. Người ngự trong
tâm hồn con người. Và đời sống mà Người chi phối là một đời sống nội tâm, thậm
chí là một đời sống âm thầm nữa.
Thánh Thần cũng là Thày dạy, nhưng là Thày dạy bên trong.
Về điều này, Đức Kitô đã nói trước với các môn đệ: “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi
điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thày đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Danh hiệu “Thần chân lý” (Ga 14,17) nói lên nhiệm vụ đó.
Quả thật, điều Thánh Thần dạy chỉ là nối dài điều Đức Kitô
đã dạy, nhắc nhớ cho chúng ta điều Đức Kitô đã dạy, lấy chính điều đã nhận được
từ Đức Kitô mà thông ban cho ta. Đức Kitô nói: “Người sẽ không tự mình nói điều
gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại… Người sẽ lấy những gì
của Thày mà loan báo cho anh em” (Ga 16,13-14). Cũng như Đức Kitô, trong cuộc
đời trần gian, là Thày dạy nhóm môn đệ của mình, thì Thánh Thần sẽ là Thày của
họ trong tương lai.
Tuy vậy, cũng có chỗ khác nhau, cho dù giáo huấn của Đức
Kitô và của Chúa Thánh Thần chỉ là một. Khác là khác ở cách dạy. Cách Chúa
Thánh Thần dạy không giống với cách Đức Kitô dạy. Đức Kitô dạy như một thày
nhân loại, dạy bằng ngôn ngữ của con người. Các thính giả nghe Chúa nói, đều
công nhận lời Ngài có uy quyền, nhưng tiếng mà họ nghe là tiếng nói của con
người, mặt mũi của người dạy mà họ thấy là mặt mũi của con người. Chứ còn Chúa
Thánh Thần, mặt mũi không thấy, mà tiếng nói cũng chẳng nghe, dạy dỗ theo cách
của một Thần trí nói với một thần trí. Giáo huấn của Thánh Thần là giáo huấn
bên trong, nhắc cho ta điều Đức Giêsu đã nói, giúp ta hiểu và thấm hơn lời của
Đức Giêsu.
* Chúng ta có thể nghĩ: Đức Kitô đã là Lời Thiên Chúa nhập
thể, thì lẽ ra chính Ngài đưa lời Ngài vào trong ta mới phải. Cần gì phải để
cho Chúa Thánh Thần làm công việc ấy? Cần gì phải nhờ đến Thánh Thần cho mệt?
Có thể hiểu như thế này: Đức Kitô thực hiện một công trình
tình yêu; mạc khải Ngài đem đến cho ta là mạc khải tình yêu; tình yêu thì phải
được đáp lại bằng tình yêu. Thế nên, để giáo huấn và mạc khải của Đức Kitô có
thể thấm nhập vào ta, không những ta phải mở trí, mà còn phải mở lòng. Phải có
tấm lòng yêu mến. Thì chính Thánh Thần tình yêu khơi giục nơi ta lòng yêu mến
đón nhận giáo huấn của Đức Kitô vào tận tâm trí ta. Do đó mới có vai trò của
Chúa Thánh Thần, vị Thày nội tâm mà Đức Kitô đã hứa cho các môn đệ.
Như vậy, Thánh Thần đưa sự thật vào ta, vào cả trí khôn
lẫn tâm hồn ta, vì sự thật không chỉ để biết, mà, quan trọng hơn, còn là để
sống. Một khi đã đón nhận sự thật nhờ Chúa Thánh Thần dạy dỗ, ta phải biến sự
thật đó thành quy tắc hành động. Phải “sống theo sự thật” như lời Chúa nói với
Nicôđêmô (Ga 3,21), hoặc, nói như Gioan trong thư thứ nhất, là “hành động theo
sự thật” (1Ga 1,6), tức là làm mọi việc do đời sống đức tin và luân lý đòi hỏi.
Và phải cố gắng sống như thế, ngần nào có thể. Cả điều này, Chúa Thánh Thần
cũng giúp ta nữa.
Về cách Chúa Thánh Thần dạy ta, Gioan có dùng kiểu nói
“làm cho nhớ lại”. Kiểu nói này bao gồm hai nghĩa: nhắc lại và gợi ra. Nhắc lại
và gợi ra là đưa lên bề mặt ý thức điều đã chìm sâu đâu đó trong vô thức. Chính
ý nghĩa này cho thấy Chúa Thánh Thần như một vị Thày hoạt động bên trong.
Chúng ta giống như các môn đệ của Đức Giêsu ngày trước.
Khởi đầu là nghe giáo huấn từ bên ngoài, do cha mẹ hoặc một thày giáo, một cô
giáo hay một “ma soeur” nào đó. Và Chúa Thánh Thần giúp ta hiểu bước đầu. Rồi
sau đó, qua dòng thời gian, chúng ta có nguy cơ quên lãng giáo huấn ấy vì vô
vàn chuyện khác, thì một dịp nào đó, Chúa Thánh Thần giúp ta nhớ lại. Người làm
khéo đến nỗi ta cứ tưởng đột nhiên nhớ ra chân lý Phúc Âm trong những hoàn cảnh
ấy. Thực sự, Chúa Thánh Thần đã khắc ghi chân lý trước nơi ta, mà ta không
tường không tỏ, để chân lý ấy trở thành
của ta, như là của ta, cần moi ra là có ngay.
Đức Giêsu còn xác định rõ hơn sứ mệnh giáo huấn của Chúa
Thánh Thần thế này: “Người sẽ loan báo cho anh em biết những điều xẩy đến” (Ga
16,13). Con người ta vốn hay vẽ chuyện. Biết chuyện quá khứ đã chán, chuyện
hiện tại chưa đi đến đâu, nhưng lại thèm biết những chuyện tương lai, nhất là
một biến cố nào đó đang mong đợi (Do đó mà các thầy bà bói toán mới có công ăn
việc làm tất bật. Mà không chỉ ở các nước kém phát triển thôi đâu. Khối người
có học thức ở các nước văn minh cũng tìm đến các thầy bà bói toán, để tìm biết
tương lai của mình, mong thấy hậu vận…)
Thực ra, phải hiểu câu Chúa nói cho đúng. Nó liên hệ tới
diễn tiến của các biến cố cứu độ, tới lịch sử phát triển của công trình cứu độ
nơi nhân loại. Trong mỗi giai đoạn của lịch sử này, Chúa Thánh Thần giúp ta
biết điều phải biết, để thực hành giáo huấn của Thiên Chúa sao cho phù hợp với
sự tiến triển của Giáo Hội. Sự tiến triển này chính là điều sẽ xẩy ra, mà Chúa
Thánh Thần loan báo cho biết. Do tác động của Thánh Thần, Giáo Hội phát triển
nhờ những con người thấm nhuần chân lý, hoặc những khía cạnh nào đó của chân
lý, để trong một thời điểm nhất định, những khía cạnh ấy củng cố đức tin của
con người.
2. Vị Thày mở rộng không gian nội tâm
* Thường ra, một người khách đến ở nhà nào, thì được mời ở
một phòng đã dọn sẵn. Nho nhỏ vậy thôi. Chỗ ấy đã có trước khi khách đến. Ngược
lại, khi Chúa Thánh Thần là khách đến với ta, chính Người lại tạo ra một chỗ ở
nơi ta, một không gian bên trong ta.
Thói thường, ta hay hướng tới cuộc sống bên ngoài, liên
lạc với thế giớiù bên ngoài, chạy theo những hoạt động bên ngoài. Bởi thế giới
bên ngoài luôn bày ra trước mắt, với những cái thấy được, nghe được, sờ được…
Nhiều cái còn bắt mắt và hấp dẫn nữa. Nhưng Chúa Thánh Thần lôi ta vào thế giới
bên trong mà Người tạo ra nơi ta. Người giúp ta hiểu rằng chỉ chạy theo những
hoạt động và hình ảnh bên ngoài, ta sẽ không bao giờ được thoả mãn. Vì sao? Vì
một cuộc sống như vậy là thiếu nền tảng. Và thiếu nền tảng thì không trụ vững.
Rốt cuộc chỉ còn là cuộc sống phung phí. Cho nên Augustinô mới khuyên: “Hãy trở
vào bên trong con người của bạn…”. Trở vào bên trong con người, vì ở đó có chân
lý, có Thiên Chúa, có Thánh Thần.
Cũng như một tu viện không giống với một cái chợ, thế giới
bên trong không ồn áo như thế giới bên ngoài. Nó cần một bầu khí yên tĩnh, thì
chúng ta cũng cần có một sở thích thinh lặng. Chúa Thánh Thần giúp ta khép đôi
mắt lại, (không phải để ngủ gật hay thả hồn phiêu lãng đâu, nhưng là) để lòng
trí ta chiêm ngắm những thực tại thiêng liêng. Người giúp ta đóng các cửa ngõ
giác quan, để con người của ta mở sang một thế giới khác.
Thời Trung cổ của Giáo Hội, nhất là ở Đông Phương, có
những người thực hành lối tịch mặc (hésychastes, silencieux), kiểu như ngồi
thiền, mắt nhìn xuống rốn (!), nhưng tâm trí hướng về cõi khác. Nhờ đó mà chiêm
niệm những sự cao xa. Ta cũng phải có lúc tịch mặc, để có thể nghe Thánh Thần
phán dạy, và thấy hoạt động của Người nơi ta.
* Cứ nhìn lại Đức Giêsu lúc bắt đầu cuộc đời công khai mà
coi. Hành động của Thánh Thần đưa Ngài vào hoang địa thật có ý nghĩa. Đấng Cứu
Thế phải đến với con người, vì đó là sứ mệnh của Ngài. Nhưng Thánh Thần là Đấng
hướng dẫn sứ mệnh này, tiên vàn lại dẫn Ngài vào chốn cô tịch. Người đâu không
thấy, mà chỉ có sỏi đá, rắn rết và chim muông. Trước khi thi hành sứ mệnh, Đức
Giêsu đã trải qua 40 ngày thinh lặng hoàn toàn, sống trong thế giới nội tâm,
trong tương giao thân mật với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần đã tạo khoảng không
gian bên trong con người Đức Giêsu, trước khi gợi hứng cho Đức Giêsu phát huy
các hoạt động bên ngoài.
Chúa Thánh Thần cũng đã dẫn Phaolô vào sa mạc Ả rập, sau
khi Phaolô trở lại. Ngài cũng đã tạo không gian trong tâm hồn Phaolô, nhờ đó mà
vị Tông Đồ này có được sự phong phú về giáo lý, về đời sống thiêng liêng, về sự
nhiệt thành truyền giáo, như thấy sau này.
Rồi trong những thế kỷ đầu của kitô giáo, Chúa Thánh Thần
còn tiếp tục đưa nhiều người tới sa mạc. Đây là những tâm hồn đạo đức, nhiệt
thành, bỏ mọi sự thế gian, chấp nhận một cuộc sống khắc khổ, để quan tâm tới
những sự việc của Thiên Chúa. Việc họ rời xa xã hội loài người, từ bỏ những thú
vui của cuộc đời, chứng tỏ thế giới thiêng liêng, thế giới nội tâm đáng chuộng
hơn mọi sự, ít ra là đối với họ.
Dù không vào sa mạc đi nữa, nhiều người khác được Thánh
Thần giúp đỡ, đã tạo ra một thứ sa mạc ngay giữa lòng đời. Chiếm đoạt tâm hồn
họ không phải là thế giới hữu hình, nhưng là thế giới vô hình. Tu sĩ không nói
làm gì, nhưng nhiều giáo sĩ thời đó, dù tối ngày bận bịu với công việc mục vụ,
miệt mài với công việc bác ái, vẫn được Thánh Thần thúc giục sống những khoảnh
khắc nào đó xa cách thế gian. Gần giống với những khoảnh khắc sống trong sa
mạc. Là vì mối quan tâm hàng đầu của Thánh Thần là kiến tạo nơi mỗi người một
không gian nội tâm. Thiếu không gian ấy, Người không thể nhóm lửa tình yêu,
hoặc không thể làm cho lửa ấy bùng lên, vì con người đang bị ngộp.
* Công việc này, Thánh Thần không làm xong một sớm một
chiều. Người làm liên tục, nơi từng người cũng như nơi Giáo Hội. Thế giới càng
văn minh, nỗ lực của con người chế ngự thiên nhiên càng gia tăng, Thánh Thần
càng gợi ý cho người ta tìm kiếm những thiện ích cao hơn, mở rộng đời sống nội
tâm hơn. Khó đấy, nhưng không phải là không có. Theo dõi đời sống xã hội trong
các nước công nghiệp hiện nay, ta có thể thấy tình trạng tương phản này: càng
sống trong những xã hội tiêu thụ, sung túc thừa mứa, kỹ thuật tiến bộ, càng có
nhu cầu hướng tới những giá trị tâm linh. Nhiều kitô hữu hôm nay cảm thấy nhu
cầu tịnh tâm là vì vậy (Taizé). Quả thực, Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động
nơi các tâm hồn, giúp họ tìm về thế giới nội tâm.
Nhờ hồi tâm, chúng ta được Thánh Thần đưa tới chỗ sâu
thẳm. Chúng ta ý thức tất cả sự phong phú nhiệm mầu, nhờ Ba Ngôi cư ngụ nơi ta.
Chúng ta không để cho các thực tại trần gian bóp nghẹt sự hiện diện của Ba
Ngôi. Nhờ có không gian nội tâm, chúng ta bắt gặp được Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, sống mối tương giao thân mật với Thiên Chúa.
Nhờ hồi tâm, chúng ta được Thánh Thần hướng tới điều cần
thiết duy nhất, để đời sống của ta là một đời sống trong Đức Kitô (Rm 8,2).
Sống ở trần gian là chết cho trần gian. Nhưng, chết đó mà sống đó, như lời
Phaolô viết trong thư Colossê: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống của anh em
hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô trong Thiên Chúa” (Cl 3,3). Sự sống của ta
đang tiềm tàng là nhờ Thánh Thần. Người đưa sự sống ấy tới chỗ sâu thẳm vô hình
nhất, để nó ngụp lặn trong sự sống của Thiên Chúa.
3. Thày dạy sự khôn ngoan
Có một không gian nội tâm rồi, Chúa Thánh Thần cho phép ta
đón nhận ánh sáng siêu nhiên, suy nghĩ và phán đoán theo ánh sáng ấy.
Isaia, được Thần Khí linh hứng, đã gán cho Đấng Mêsia
nhiều đức tính. Nổi bật nhất là sự khôn ngoan (Is 11,2). Khôn ngoan là thày dạy
cách sống (“khôn sống mống chết”). Ai nấy đều muốn có nó. Nhưng muốn có nó mà
chỉ mải miết chạy theo những cái bên ngoài là hỏng, là tiêu. Đành rằng khôn
ngoan do cọ xát với thực tế, nhưng đúng ra, trước hoặc sau khi cọ xát với thực
tế, phải có những lúc hồi tâm thinh lặng, để nhìn và xét sự việc. Trong lãnh
vực tự nhiên còn như thế, huống hồ trong lãnh vực siêu nhiên. Để có được sự
khôn ngoan trong việc cai trị dân nước, Salomon đã phải lên Gabaon, một mình
đối diện với Thiên Chúa, và cầu xin Thiên Chúa ban, mới được đấy.
Tuy vậy, không phải chỉ vì giúp ta có thể hồi tâm suy nghĩ
mà Thánh Thần là nguồn mạch khôn ngoan. Chính Người là sự Khôn Ngoan đổ tràn
vào trí khôn ta.
Phán đoán cho đúng đòi phải nắm bắt tất cả thực tại. Đỉnh
cao là thực tại Thiên Chúa. Phán đoán về những thực tại cơ bản nhất của đời
sống đòi ta phải biết những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Có thể biết được chăng?
Được lắm, nhờ Chúa Thánh Thần. Phaolô đã không ngần ngại nói lên điều đó. Để
cho thấy sự khôn ngoan mà mình rao giảng là chính thực, Phaolô lôi ngay Thánh
Thần ra làm bảo đảm. Thánh Tông Đồ viết: “Chúng ta đã được Thiên Chúa mạc khải
cho, nhờ Thần Khí. Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi
Thiên Chúa… Chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần
Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng
ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi
trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng lời lẽ học được nơi Thần Khí” (1Cr
2,10-13).
Phaolô muốn nhấn mạnh rằng nguồn mạch khôn ngoan là Thần
Khí. Chỉ những ai đã lãnh nhận Thần Khí mới truyền thụ sự khôn ngoan, và truyền
thụ cho những ai đã lãnh nhận Thần Khí. Thần Khí giúp họ thông hiểu sự khôn
ngoan. Không có Thần Khí, sự khôn ngoan đối với họ chỉ là điên rồ.
Quả vậy, sự khôn ngoan do Thần Khí ban cho, là một sự khôn
ngoan nhiệm mầu, khác hẳn sự khôn ngoan của người đời, vì cách Thiên Chúa hành
động không giống với cách con người hành động. Hãy xem cách hành động của Thiên
Chúa nơi Thập giá. Nó đi ngược lại những tiêu chuẩn thông thường do sự khôn
ngoan của người đời đặt ra, đến nỗi trước mắt họ, Thập giá chỉ là một sự điên
rồ, không hơn không kém (1Cr 1,23-25) (Dân ngoại ngày xưa có nơi vẽ hình thập
giá với cái đầu lừa trên đó, hàm ý nói: người bị đóng đinh trên đó ngu như lừa.
Y như ta nói: ngu như bò). “Con người sống theo tính tự nhiên, không thể đón
nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ. Họ không thể
biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (1Cr 2,14).
Như vậy, sự khôn ngoan Chúa Thánh Thần ban cho ta thuộc về
một trật tự khác. Không thể lấy sự khôn ngoan nhân loại mà đo lường hay thay
thế.
Một khi có Thần Khí rồi, ta có thể xét đoán bất cứ thực
tại nào. Đó là vì ta xét đoán theo Thần Khí. Thần Khí dò thấu sự sâu thẳm của
Thiên Chúa, nên cho ta biết sự khôn ngoan sâu thẳm của Thiên Chúa ẩn tàng nơi ý
định của Thiên Chúa, nơi chương trình của Thiên Chúa. Nhờ Thánh Thần, chúng ta
suy nghĩ theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa, hành động theo cách hành động của
Thiên Chúa.
Do đó mà, chẳng hạn, người ta có thể làm những việc mà
người bình thường không sao hiểu nổi, thậm chí còn cảm thấy chướng. Ông Simon
Cột ngày xưa, nhà cao cửa rộng có đấy mà không ở, thú vui trần tục đầy ra đấy
mà không màng, thân thuộc bạn bè vô khối mà cũng xa lánh tất. Hơn ba chục năm
trời ròng rã chỉ chọn đỉnh một cây cột đá làm nơi tạm trú, hầu dễ bề vươn lên
thiên giới hơn. Họa có điên mới làm như vậy. Nhưng người ta đâu có biết: Phải
có một chút điên nào đó mới có thể là thánh (Phanxicô Assisi được nhà chép tiểu
sử, Julien Green, gọi là “Người điên của Thiên Chúa; một tác giả khác, viết về
Maximilianô KOLBE, thì đặt tựa đề cuốn sách là: “Người con điên của Đức Mẹ Vô
Nhiễm”).
Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận sự khôn ngoan của
Thần Khí đâu. Lý trí tự nhiên chống lại nó đã đành, mà cả thần trí xấu cũng tìm
cách chống lại nó. Gioan đã không nói đến thần khí sai lầm đó sao? (1Ga 4,6).
Nhiều người lạc đường vì thần khí sai lầm này. Họ tưởng mình được Thần Khí khôn
ngoan hướng dẫn, kỳ thực là do thần khí sai lầm hướng dẫn; tưởng mình đang thể
hiện tình yêu, kỳ thực chỉ có cái vỏ bên ngoài là tình yêu, còn thực chất là
ích kỷ; tưởng mình đang sống cung cách tự do của con cái Chúa, kỳ thực chỉ là
một thái độ bất tuân, buông thả, nô lệ.
Thánh Thần sẽ lột mặt nạ, giúp ta phân biệt các thần khí,
phân biệt chân giả: phân biệt được đâu là tình yêu đích thực đòi hy sinh quên
mình, đâu là tình yêu giả dối nhằm phục vụ mình; phân biệt niềm vui chân chính
với thú vui giả tạo; phân biệt tự do đích thực với thứ tự do làm tôi cho đam mê
dục tình; phân biệt sự bình an của người sống thân tình với Thiên Chúa và sự
bình an giả tạo của người lảng tránh tiếng lương tâm… Đó là chỉ kể ra vài khía
cạnh điển hình mà thôi.
Qua sự khôn ngoan ban cho ta, Thánh Thần còn giúp ta luôn
có thái độ tỉnh thức, cảnh giác, vì cuộc chiến đấu chống thần khí xấu là một
cuộc chiến đấu không ngưng nghỉ. Đánh nhau chán còn có hưu chiến, nhất là trong
những dịp đặc biệt, chứ ở đây thì không. Cái tốt của ta có thể trở thành cái
xấu lúc nào không hay, bởi giữa tốt và xấu lắm khi không rõ ràng như trắng với
đen, không có biên giới rạch ròi. Điều xấu mà lại có ảo tưởng là điều tốt, chưa
kể lộng giả thành chân cũng không khó khăn gì. Khiêm nhường là tốt, nhưng đi
đến chỗ thu mình lại, hoặc chứng tỏ một cung cách sống hèn hạ, lại là điều xấu.
Nhiệt thành phục vụ là tốt, nhưng từ đó lại lên mặt, muốn thống trị người khác,
lại là xấu. Đau buồn vì xúc phạm đến Chúa là điều tốt, nhưng đưa đến thất vọng,
lại là xấu.
Thánh Thần uốn nắn những chỗ sai lệch, cho ta thấy tiêu
chuẩn duy nhất để phân biệt, là tình yêu. “Cứ yêu đi, và làm điều bạn muốn”
(Augustinô). Nhưng là xem tình yêu nào chi phối hành động của ta: yêu mình hay
yêu Chúa, phục vụ mình hay phục vụ Chúa, yêu thương phục vụ tha nhân vì Chúa
hay vì lý do nào khác.
Nói tắt, sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thánh Thần ban, bảo
đảm cho tất cả cách hành xử của ta được đúng hướng. Chính đó là nguồn mạch giúp
ta tin tưởng. Với điều kiện: Phải mở rộng tâm hồn cho hứng của Thần Khí, cho vị
Thày nội tâm.
4. Thày dạy cầu nguyện
Đức Giêsu là Thày dạy cầu nguyện. Tất nhiên rồi. Ngài đã
nêu gương cầu nguyện và dạy ta cách cầu nguyện, nhất là bằng Kinh Lạy Cha.
Tuy vậy, lặp lại lời kinh này “trong sự thật”, coi vậy mà
không dễ dàng đâu. Môi miệng ta chỉ có thể bập bẹ nó, dù ta đã nhận nó từ môi
miệng Đức Giêsu. Là vì trình độ đọc nó là trình độ của Chúa Con thưa với Chúa
Cha, mà ta lại không có trình độ ấy.
Phải có một vị Thày nội tâm, ban cho ta tấm lòng của người
con, giống như tấm lòng của Đức Giêsu, để có thể đọc kinh này. Thánh Thần biến
đổi lòng ta khi cầu nguyện, khiến ta có thể thưa lên thân mật với Chúa Cha.
Lòng mới là cái quan trọng. Không có lòng chân thành của người con mà thưa lên
với Chúa Cha, thì cũng vứt đi, vì đó là giả dối. Chỉ nhờ Thánh Thần mà mỗi khi
đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta mới nâng lòng của người con lên với Cha trên trời.
Điều áp dụng cho Kinh Lạy Cha thì cũng áp dụng chung cho các kinh nguyện khác.
Không những thế, Thánh Thần còn làm cho kinh nguyện của ta có giá trị và chắc
chắn được nhận lời, vì chính qua Người mà kinh nguyện của ta vươn tới Thiên
Chúa.
Khi xác định sự can thiệp của Chúa Thánh Thần vào kinh
nguyện, Phaolô khẳng định hai điều: Thánh Thần làm ta nên nghĩa tử khiến ta có
thể kêu lên: Abba (Rm 8,15); Thần Khí của Con được sai đến ngự trong lòng ta,
Thần Khí ấy kêu lên: Abba (Gl 4,6). Hai câu trên phải chăng chỉ đơn thuần muốn
nói rằng Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta kêu lên với Chúa Cha? Hay phải nghĩ
rằng, theo nghĩa văn tự, ngoài tiếng kêu của ta do Thần Khí gợi ý, còn có tiếng
kêu của chính Thánh Thần cùng với tiếng kêu của ta? Nhưng nếu là tiếng kêu của
Thần Khí, làm sao Người lại có thể gọi Thiên Chúa là Cha, vì, khác với Chúa
Giêsu, Thánh Thần không do Chúa Cha sinh ra? Vậy phải hiểu ra làm sao?
Hãy xem cách Phaolô giải đáp. Cứ đặt khẳng định trên vào
đúng mạch văn của chương 8 thư Rôma. Phaolô nói đến sự rên siết của tạo thành,
chờ mong ơn cứu độ được hoàn tất, để được hưởng vinh quang của hàng con cái
Thiên Chúa. Phaolô cũng nói đến sự rên siết của ta, khi viết: “Cả chúng ta nữa
cũng rên siết trong lòng. Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu,
nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc
thân xác chúng ta nữa” (Rm 8,23).
Vậy kinh nguyện của chúng ta và của các tạo vật khác là
nhằm cầu xin cho công trình cứu độ được hoàn tất. Đó là mục tiêu rộng lớn và cơ
bản nhất của mọi kinh nguyện kitô giáo. Mục tiêu ấy tương ứng với những lời xin
đầu của Kinh Lạy Cha, tức xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời. Phaolô mời gọi ta đặt kinh nguyện của ta vào trong toàn bộ
một kinh nguyện duy nhất của tất cả tạo thành.
Thế mà kinh nguyện này lại dựa trên những ân huệ mở đầu
của Thần Khí. Chúa Thánh Thần đã bắt đầu thực hiện nơi ta công trình cứu độ,
rồi lại giúp ta mong đợi công trình này hoàn tất, nhất là sự sống lại của thân
xác. Ngài kích thích niềm hy vọng của ta, giục ta rên siết, tức là hăng say cầu
nguyện van nài Thiên Chúa. Đây là kinh nguyện nội tâm trong ta, vọt lên từ nơi
sâu thẳm mà Chúa Thánh Thần đặt nơi ta, khi Người tự ban mình cho ta như của
đầu mùa. Kinh nguyện hoặc tiếng rên siết của ta chính là một cách diễn tả đời
sống bên trong của ta.
Dầu vậy, kinh nguyện của ta còn yếu hèn lắm, cần có Thần
Khí giúp đỡ. Thì Thần Khí giúp đỡ bằng tiếng rên siết của Người hoà với tiếng
rên siết của ta. Thư Rôma viết: “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn,
vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thần Khí chuyển
cầu cho ta bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm
can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí chuyển cầu cho các thánh đúng ý
Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Như vậy, có một kinh nguyện thực sự là của Thánh Thần,
liên kết với kinh nguyện của ta. Người không chỉ giúp ta kêu lên “Abba”, mà còn
kêu lên như thế cùng với ta. Cũng vậy, khi ta rên siết, Người cũng rên siết với
ta. Tại sao Thần Khí phải làm thế? Vì chúng ta còn yếu hèn. Vì kinh nguyện của
ta còn bất toàn. Chúng ta chưa thể lãnh nhận mọi điều Thánh Thần muốn ban cho
ta, cũng chưa biết cầu nguyện như Người muốn ta cầu nguyện. Thánh Thần bù đắp
cho những khiếm khuyết đó.
Khiếm khuyết đó, Phaolô còn cho biết ở khía cạnh khác nữa:
không biết xin gì và xin thế nào cho phải. Một, liên hệ đến đối tượng xin. Một,
liên hệ đến cách thức xin.
Về đối tượng xin, tức cái phải xin, dường như điều Phaolô
nói không đúng với thực tế. Khi cầu xin, ta thường biết rõ mình đang xin gì.
Chúng ta có khối điều muốn xin. Nhưng cứ nghĩ lại mà coi. Những điều ta xin
thường chỉ là ba cái chuyện tẹp nhẹp, liên hệ đến cá nhân ta hoặc lợi ích nhỏ
mọn nhất thời. Cái phải xin lớn hơn nhiều mà ta chưa nhận ra, hoặc không nhận
ra, hoặc không nhận ra đủ.
Như đã nói trên, điều phải xin là sự hoàn thành công trình
cứu độ trên thế giới. Muốn hướng tới đối tượng này, phải chia sẻ cái nhìn của
Thiên Chúa, biết nền tảng ý định của Thiên Chúa. Chỉ có Thánh Thần, Đấng dò
thấu sự sâu thẳm của Thiên Chúa (1Cr 2,10), mới có thể mạc khải sự sâu thẳm ấy
cho ta, đưa kinh nguyện của ta đi đúng hướng. Thánh Thần giải thoát ta khỏi một
nhãn giới hẹp hòi, chỉ nhìn sự việc theo lợi ích riêng hoặc theo cái nhìn của
nhân loại, và đưa ta tới những ý nguyện lớn hơn phù hợp với ý định của Thiên
Chúa: xin cho cả nhân loại, cho công trình của Giáo Hội, cho lợi ích thiêng
liêng của mọi người.
Còn về cách cầu nguyện, Phaolô bảo ta không biết cầu xin
thế nào cho phải. Để cầu xin cho phải, nếu chỉ xin điều Thiên Chúa muốn thì
chưa đủ đâu. Còn phải xin bằng tất cả sự tha thiết, chân thành, bền bỉ như Chúa
dạy. Bằng sức riêng, ta không thể làm điều đó. Thì Chúa Thánh Thần sẽ giúp ta.
Qua việc chuyển cầu cho ta, Thánh Thần thi hành sứ mệnh
của một Đấng Bầu Chữa, vì Đấng Bầu Chữa là vị Trung Gian, là Đấng chuyển cầu.
Cũng như Đức Kitô là Đấng Trung Gian cứu thoát ta khỏi tội bằng hy lễ đền tội
(1Ga 2,1), Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng Bầu Chữa, cũng giúp đỡ sự yếu
hèn của ta bằng sức mạnh của Người.
Tóm lại, kinh nguyện của ta tuỳ thuộc vào Chúa Thánh Thần
là Thày nội tâm. Người soi sáng tâm trí, nêu rõ mục tiêu, làm cho kinh nguyện
của ta vươn lên, giúp ta hăng say cầu nguyện và cầu nguyện đạt được kết quả.
Theo đường lối sư phạm của một Thiên Chúa, Người khuyến khích ta bằng những lời
an ủi, đôi khi ban những ơn đặc biệt, gợi ra những lời lẽ và những lúc thinh
lặng cần thiết.
Có thể thấy: ngay những nhà thần bí còn có cảm giác trống
rỗng khi cầu nguyện, huống hồ loại “thường thường bậc trung” như ta, chắc chắn
lắm lúc thấy cầu nguyện là khó. May mắn là có Chúa Thánh Thần can thiệp. Với
điều kiện: phải mở rộng tâm hồn cho Người và nại tới Người khi cầu nguyện.(*)
(*) lấy ý trong J. Galot, L’Esprit d’amour, DDB, 1958
*
Để kết thúc, tôi gợi ra mấy ý vắn tắt liên hệ đến các điểm
đã khai triển ở trên, để giúp chúng ta xét mình cụ thể hơn.
- Chúa Thánh Thần là Thày nội tâm: Tôi có năng nhìn vào
tâm hồn để nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi tôi không?
Có khiêm tốn để Người hướng dẫn cuộc đời tôi theo tình yêu mà Người đổ tràn vào
lòng tôi không?
- Chúa Thánh Thần kiến tạo một không gian nội tâm: Tôi có
dành “một thời để thinh lặng” như sách Giảng viên nói (Gv 3,7), để có thể sống
thân mật với Thày nội tâm, nghe tiếng Người phán dạy, như thái độ của Đức Maria
đối với lời Chúa không?
- Chúa Thánh Thần dạy sự khôn ngoan: Tôi có biết nhờ Người
mà sống và tiến bước, hay chỉ chiều chuộng con người xác thịt, chạy theo thần
khí xấu, hành động chỉ theo lẽ khôn ngoan của người đời?
- Chúa Thánh Thần dạy cầu nguyện: Tôi có biết Người cùng
cầu nguyện với tôi, để tôi nâng hồn lên tới Thiên Chúa, có biết cầu xin những
thiện ích chung cho mọi người, và, nhờ sức mạnh cũng như tình yêu của Người,
chiến thắng những khó khăn khi cầu nguyện không?
3-6-03