Kinh Hoà Bình: Nguồn gốc và suy tư
LỜI KINH ĐƠN SƠ hay
cũng gọi là KINH HOÀ BÌNH
Nhiều người trong chúng ta có lẽ
đã thuộc lòng hay ít ra hát được cách dễ dàng Lời Kinh được dịch sang tiếng
Việt với tựa đề là “Kinh Hoà Bình” và được nhạc sĩ Linh mục Kim
Long phổ nhạc. Ở đây, tôi muốn nói một vài điểm về Lời Kinh rất phổ thông này,
cũng có tên là LỜI KINH ĐƠN SƠ hay KINH HOÀ BÌNH.
I. BẢN VĂN
Chúng tôi ghi lại đây bản văn
Kinh Hoà Bình bằng tiếng Ý và được coi như là bản văn gốc dùng để phân tích và
học hỏi. Bản văn tiếng Việt được dùng để đối chiếu.
Bản văn tiếng Ý được tìm hiểu từ
các nguồn ghi lại cho chúng ta như sau:
Bản văn năm 1916
Signore, fate di me
uno strumento della
vostra pace:
Phần I
Dove è l’odio, che
io ponga l’amore,
Dove è l’offesa, che
io ponga il perdono,
Dove è la discordia,
che io ponga l’uonione,
Dove è l’errore, che
io ponga la verità,
Dove è il dubbio,
che io ponga la Fede,
Dove è la
disperazione, che ponga la speranza,
Dove è la tristezza,
che io ponga la gioa,
Dove sono le
tenebre, che io ponga la luce.
Phần II
Phần III
Imparo che è nel
donare che si riceve;
nel dimenticare se
stessi che si si è perdonati,
nel morire che si
risuscita all’eterna vita!”
Bản văn năm 2005
Signore, fa’ di me
uno strumento della
tua pace:
Phần I
Dove è odio, fa’
ch’io porti l’amore,
Dove è offesa, ch’io
porti il perdono
Dove è discordia,
ch’io porti l’unione
Dove è dubbio, ch’io
porti la fede
Dove è errore, ch’io
porti la verità
Dove è disperazione,
che io porti la speranza
Dove è tristezza, ch’io
porti la gioa
Dov’è tenebra, ch’io
porti la luce.
Phần II
Maestro, fa che io
non cherchi tanto
Di esser consolato,
quanto di consolare;
Di essere compreso,
quanto di comprendere;
Di essere amato,
quanto di amare.
Phần III
Poichè, così è
Dando, che si
riceve;
Perdonando, che sì è
perdonati;
Morendo, che si
risuscita a Vita eterna.
Bản dịch tiếng Việt dịch theo
bản tiếng Ý năm 2005:
1. “Lạy Chúa
2. Xin hãy làm
con nên khí cụ bình an của Chúa:
3. Ở đâu có
ghét ghen, xin làm cho con được mang đến đó tình yêu thương
4. Ở đâu có xúc
phạm, xin làm cho con mang đến sự thứ tha
5. Ở đâu có bất
hòa, xin làm cho con mang đến sự hiệp nhất
6. Ở đâu có nghi
nan, xin làm cho con đem đến đức tin
7. Ở đâu có sai lầm,
xin làm cho con đem đến sự thật
8. Ở đâu có thất vọng,
xin làm cho con đem đến hy vọng
9. Ở đâu có buồn
sầu, xin làm cho con đem đến niềm vui
10. Ở đâu có bóng
tối, xin làm cho con đượcc mang đến đó ánh sáng
11. Lạy Thày, xin
làm cho con
12. không lo tìm
kiếm để được an ủi, mà lại lo an ủi
13. Không lo được
hiểu biết, mà lại lo để hiểu biết
14. Không lo tìm
được yêu mến, mà lại lo yêu thương
Bởi vì, có như thế,
thì khi cho đi, là
người ta lãnh nhận,
khi thứ tha, thì
được tha thứ;
khi chết đi, thì sẽ
sống lại tới tự sống đời đời”.
Chúng tôi cũng ghi ở đây bản
dịch Lời Kinh, như trong bài ca Kinh Hoà Bình do nhạc sĩ Linh mục Kim Long phổ
nhạc. Lời Kinh đọc lên như sau:
(“Lạy Chúa từ
nhân!
Xin cho con biết mến
yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”.)
Lạy Chúa xin hãy dùng con như
khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào
nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để
con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con
dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy
con: tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được người
hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là
khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi
thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
(“Ôi Thần Linh thánh ái, xin
mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình”.)
Chúng ta phải nói rằng bản văn
nguyên thuỷ đăng trong Báo L’Osservatore Romano năm 1916 và Bản văn
tiếng Ý năm 2005 được ghi trên đây, không có câu mở đầu: (Lạy Chúa từ nhân!
Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người) và câu kết: (Ôi Thần
Linh thánh ái Xin mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy
thiện chí ơn an bình), như chúng ta thấy trong bản văn mà Linh mục Nhạc sĩ
Kim Long đã phổ nhạc. Bản văn năm 1916 không có phần thứ II như thấy xuất hiện
trong Bản Kinh năm 2005: Maestro, fa che io non cherchi tanto Di esser
consolato, quanto di consolare; Di essere compreso, quanto di comprendere; Di
essere amato, quanto di amare (Lạy Thày, xin làm cho con không lo tìm kiếm để
được an ủi, mà lại lo an ủi; không lo được hiểu biết, mà lại lo để hiểu biết;
không lo tìm được yêu mến, mà lại lo yêu thương).
II. TÍNH CÁCH PHỔ
THÔNG CỦA KINH HOÀ BÌNH
Lời Kinh này đơn sơ và được gán
cho Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) là tác giả. Cho tới nay vấn đề chưa được
làm sáng tỏ. Trong sách Preghiere di San Francesco e Santa Chiara, Cha
Bruno Giannini, OFM, Suor Chiara Augusta Lainati, OSC., Suor Chiara Carla
Cabras, OSC., trong tập sưu tầm xuất bản năm 2005, đã đặt Kinh Đơn Sơ vào
trong phần các Kinh rút ra từ các tác phẩm của Thánh Phanxicô, sau phần các
Kinh của chính Thánh Phanxicô sáng tác. Rồi trong chính bản Kinh các tác giả có
lời chỉ dẫn như sau: “Bản Kinh thời danh này được gán cho Thánh Phanxicô
thành
Nói về tính cách phổ thông của Lời
Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình, người ta nhận thấy rằng Kinh này được
phổ biến rộng rãi một cách thật khác thường.
Tác giả Egidio Picucci, bài báo
trong Báo L’Osservatore Romano, ngày 20-1-2009, đã được trích dẫn, đã
ghi nhận điều này. Lời kinh được đọc lên trong những dịp khá đặc biệt, như năm
1975, tại Nairobi, trong một cuộc Họp Đại kết giữa các Giáo hội Kitô giáo và
Công giáo.
Năm 1986, trong cuộc gặp gỡ các
tôn giáo tại Assisi, được tổ chức theo ý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, và
có sự hiện diện của ngài, Kinh này là một trong những Kinh được chọn đọc lên.
Rồi năm 1989 tại Basilea (Thuỵ Sĩ), Kinh này cũng được đọc lên trong một cuộc
họp đại kết.
Kinh Hoà Bình này có sức gây ngạc nhiên không nhỏ đối với Chân phước Têrêsa
Calcutta. Mẹ đã giải thích vắn tắt Kinh này và đã xin mọi người đọc lên trong
dịp Chân phước nhận Giải thưởng Nobel Hoà bình tại
Với các nhân vật dân sự và chính
trị khác, Kinh Hoà Bình cũng gợi hứng nhiều cho các vị, như bà Thủ tướng
Margaret Thatcher (Anh quốc) đã đem một phần Kinh này vào trong bài diễn văn
đọc khi được bổ nhiệm làm thủ tướng, ngày 4-5-1979.
Đức Tổng Giám mục Anh giáo
Desmond Tutu (Nam Phi, Giải thưởng Nobel Hoà bình 1984) đã nói rằng Kinh Hoà
Bình có một tầm mức đặc biệt trong toàn thể đời sống của mình. Vào năm 1995,
Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã đem một khúc của Kinh Hoà Bình vào trong bài
diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại phi trường
III. NGUỒN GỐC KINH
HOÀ BÌNH
Nhật báo của Toà Thánh Vatican
L’Osservatore Romano, ngày 20-1-1916, vào ngay trang đầu, có cho đăng một Bản
Kinh, mang tên là “Bản Kinh Đơn Sơ”, với một tựa đề nhỏ “Le preghiere del
“Souvenir Normand” per la pace” (Các lời Kinh của Báo “Souvenir Normand” cầu
cho hoà bình). Như vậy, Bản Kinh Hoà Bình này đã được phổ biến vào những
ngày trước thế chiến thứ I, thời Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV. Năm 1915, trước
hiểm hoạ cuộc thế chiến vừa bùng nổ, chính Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV cũng đã
sáng tác một kinh cầu cho hoà bình thế giới, được dịch ra tiếng Pháp,
Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Nga và Ba Lan. Bản Kinh này là những
lời cầu xin ơn hoà bình, nhất là với Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì Đức Thánh Cha
Bênêđictô XV rất sùng mộ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha cũng mời các tín
hữu tại Âu Châu hãy cùng đọc với ngài vào ngày 7-1-1915, trong khi ngài đọc
Kinh này cùng với các vị hồng y và các chức sắc trong Giáo triều Rôma, trước
bàn thờ chính tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Vào thời này, nhiều đoàn thể
Công giáo cũng đã hoạt động để chấm dứt chiến tranh và cầu xin cho hòa bình trở
lại trên phần đất Âu Châu. Trong các đoàn thể này, người ta phải nói tới
sáng kiến của Công tước Stanislas de la Rochethulon, Chủ tịch Hiệp hội người
Anh và Pháp mang tên Souvenir Normand, có mục đích hoạt động cho hoà bình và công
lý. Hiệp hội Souvenir Normand đã thu thập một số bản kinh cầu cho hoà
bình và đã đệ trình lên Đức Thánh Cha Bênêđictô XV hai bản kinh cầu cho hoà
bình và một bài thánh ca dâng lên Đức Mẹ vùng Normandie (Pháp). Bản kinh
thứ nhất là lời cầu khẩn dâng lên Đức Mẹ của những người Normand và các thánh
quan thầy của vùng này. Lời kinh thứ hai là một lời kinh rất đẹp và ý
nghĩa để đọc trong Thánh lễ. Vào năm 1912, các bản kinh này được xuất bản trong
Báo La Croix d’Orne và Báo La Clochette. Bản Kinh sau là bản Kinh
Đơn Sơ và được đem vào nước Ý. Chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XV và Đức
Hồng y Quốc vụ khanh Toà Thánh Pietro Gasparri cũng thích bản Kinh Đơn Sơ
này. Theo lệnh truyền của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV, Kinh Đơn Sơ này
được in trong Báo L’Osservatore Romano, số ngày 20-1-1916, có kèm
theo mấy lời giải thích, như chúng ta ghi lại và nói trên đây.
Vào ngày 20-1-1917, Báo La
Croix đã cho in lại tất cả Bản Kinh Đơn Sơ này và các tài liệu khác
liên hệ như đã đăng trong báo L’Osservatore Romano ngày 20-1-1916.
Chúng ta có thể xác định rằng,
Bản Kinh Hoà Bình đã được phổ biến thật rộng rãi trong toàn thế giới
ngay từ đầu khi mới được phổ biến và cả ngày nay nữa, như chúng ta nói trên
đây. Trong một thư Đức Hồng y Pietro Gasparri gửi Công tước Stanislas de La
Rochethulon, được đăng trong báo La Croix, đã viết như sau: “Đức
Thánh Cha rất hài lòng vì Bản Kinh thật cảm động này và Ngài mong rằng lời
kinh này vang vọng tới mọi tâm hồn và là một biểu lộ tâm tình phổ quát của mọi
người”.
IV. MỘT VÀI SUY TƯ
VỀ LỜI KINH HOÀ BÌNH
Bây giờ chúng ta thử
tìm hiểu thêm một số điểm từ chính lời Kinh Hoà Bình này.
1. Về bản văn
Trước tiên, Kinh Đơn Sơ
này còn mang tên là Kinh Hoà Bình, và bây giờ thường được gọi như vậy
trong các tài liệu, các sách hát. Lời kinh mang tên LỜI
KINH HOÀ BÌNH, có lẽ vì câu đầu của nó có từ ngữ “hoà bình”
trong câu “Xin hãy làm cho con nên khí cụ hoà bình của Chúa”. Vì
thế, từ đây về sau, trong bài này, tôi sẽ dùng cả hai tên “Kinh Đơn Sơ”
hoặc “Kinh Hoà Bình”, và có tác dụng ngang nhau.
Chúng ta phân biệt hai loại bản
văn có phần nào liên hệ với nhau: loại thứ nhất là Bản văn gốc của Kinh Hoà
Bình. Bản văn gốc là chính bản văn được truyền tụng lại từ thời kỳ đầu;
loại thứ hai là các bài ca phát khởi từ Lời Kinh Đơn Sơ, là bản văn được
dịch hay soạn thảo gợi hứng từ Bản văn Kinh Hoà Bình, có thêm những câu
hay những chữ khác, để đáp ứng với nhu cầu sáng tác âm nhạc, hoặc làm cho rõ
nghĩa thêm, hoặc do nhu cầu mục vụ.
Chúng ta phải nói lại rằng bản
văn nguyên thuỷ đăng trong Báo L’Osservatore Romano năm 1916 không có
câu mở đầu: (Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa
trong mọi người) và câu kết: (Ôi Thần Linh thánh ái Xin mở rộng lòng
con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình), như
chúng ta thấy trong bản văn mà Linh mục Nhạc sĩ Kim Long đã phổ nhạc. Đàng khác
bản văn năm 1916 không có phần thứ II như trong bản văn in trong tuyển tập năm
2005, tức là phần Maestro, fa che io non cherchi tanto Di esser consolato,
quanto di consolare; Di essere compreso, quanto di comprendere; Di essere
amato, quanto di amare (Lạy Thầy, xin làm cho con không lo tìm kiếm để được an
ủi, mà lại lo an ủi; không lo được hiểu biết, mà lại lo để hiểu biết; không lo
tìm được yêu mến, mà lại lo yêu thương).
Lời Kinh Hoà Bình này đã được
sáng tác trước năm 1916 và được phổ biến tại Pháp, và khi thế chiến thứ I bùng
nổ, thì Kinh Đơn Sơ này được chọn như là một trong hai Kinh trình lên
Đức Thánh Cha để các tín hữu Âu Châu đọc mà cầu nguyện cho chiến tranh chấm
dứt. Người ta nói là Kinh Đơn Sơ này được đọc trong Thánh lễ, nhưng
không rõ đọc vào lúc nào. Theo Sách lễ Rôma trước Công đồng Chung Vatican II,
thì không thấy có dấu vết của Kinh Đơn Sơ này. Có lẽ thói lệ đọc Kinh
Đơn Sơ này chỉ tồn tại ở một số vùng bên Pháp và có tính cách địa phương
rất hạn hẹp.
Về sau này một số tác giả khác
đã tìm hiểu thêm về nguồn gốc của Bản văn Kinh Đơn Sơ này và đã cho chúng ta có
được bản văn chính xác của bản Kinh này.
2. Về bố cục của
Kinh Đơn Sơ
Theo bản văn tiếng Ý trong tuyển
tập năm 2005 trên đây, bản văn được chia ra làm 3 phần, ngoài câu mở đầu:
Phần mở đầu: là lời cầu xin dâng lên Thiên Chúa: “Lạy Chúa xin hãy làm con
nên khí cụ bình an của Chúa” (trong bản có phổ nhạc của Nhạc sĩ Kim Long,
còn thêm một câu như sau: “Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của
Chúa”).
Phần thứ I: quảng diễn thứ I cách cụ thể ơn hoà bình hoặc khí cụ hoà bình: “Ở
đâu có ghét ghen, xin làm cho con được mang đến đó tình yêu thương... Ở đâu có
bóng tối, xin làm cho con được mang đến đó ánh sáng” (Kim Long: Để con
đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào
nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi
nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem niềm vui đến chốn u sầu).
Ở đây, chúng ta thấy có sự đảo
lộn thứ tự giữa câu áp cuối của phần này trong bản văn của Nhạc sĩ Kim Long:
câu “Đem niềm vui đến chốn u sầu” đặt sau câu: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối
tăm”. Không rõ vì lý do gì!
Phần thứ II: quảng diễn thứ II của lời cầu xin ơn hoà bình: “Lạy Thầy, xin
làm cho con không lo tìm kiếm để được an ủi, mà lại lo tìm an ủi; không lo được
hiểu biết, mà lại lo để hiểu biết; không lo tìm được yêu mến, mà lại lo yêu
thương” (Kim Long: “Lạy Chúa xin hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn
được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến
người hơn được người mến yêu”).
Phần thứ III: giải thích ý nghĩa của lời xin ơn hoà bình: “Bởi vì, có như thế,
thì khi cho đi, là người ta lãnh nhận, khi thứ tha, thì được tha thứ; khi chếtt
đi, thì sẽ sống lại tới tự sống đời đời” (Kim Long: “Vì chính khi hiến
thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì
chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn
đời”). Chúng ta có thể cho phần này như là phần kết của lời Kinh.
Khi nhìn vào bố cục này, chúng
ta thấy không có sự cân đối giữa các phần, vì phần thứ I dài hơn 2 phần thứ II
và thứ III.
Rồi trong phần thứ I có một tước
hiệu của Chúa; “Lạy Chúa”; và trong phần thứ II có tước hiệu gọi Chúa: “Lạy
Thầy”. Còn phần thứ III thì không có mà bắt đầu bằng một liên từ: “Vì
như thế”. Do đó, qua bố cục này, chúng ta nhận ra Lời Kinh là một loạt
những tâm tình tự phát của một tâm hồn đã lâu ngày suy tư về ơn hoà bình, trong
chính bản thân mình, trong môi trường sống, trong hành động phải làm và trong
phần thưởng sau cùng là “sự sống đời đời” trong ngày sống lại. Tất cả những
điều này chúng ta sẽ nhận ra cách rõ ràng hơn trong phần còn lại sau đây.
3. Về cách hành văn
Về cách hành văn chúng ta cũng
nhận thấy không cân xứng: vì ở phần đầu Lời Kinh luôn bắt đầu với từ “Ở đâu”,
trong phần thứ II, thì dùng kiểu nói: “Không lo...”. Sang phần thứ ba, thì lại
dùng ngay chính động từ ở thể phân từ thay cho một câu trọn vẹn.
Nhưng tác giả Lời Kinh có một
biệt tài hành văn đối ngược nhau giữa các từ với nhau:
“ghét ghen” - “tình
yêu thương” (câu 3); “xúc phạm” - “sự thứ tha” (c. 4);
“bất hoà” - “sự hiệp
nhất” (c. 5); “nghi nan” - “đức tin” (c. 6);
“sai lầm” - “sự
thật” (c. 7); “thất vọng” - “hy vọng” (c. 8);
“buồn sầu” - “niềm
vui” (c. 9); “bóng tối” - “ánh sáng” (c. 10);
“cho đi” - “lãnh
nhận” (c. 19); “chết đi” - “sống lại tới tự sống đời đời” (c.
21).
Đối ngược nhau giữa cách thể
hiện cùng một hành động: từ hình thức chủ động sang hình thức thụ động, hoặc
ngược lại:
“được an ủi” - “lo
an ủi” (c. 12); “được hiểu biết” - “để hiểu biết” (c. 13); “được
yêu mến” - “lo yêu thương” (c. 14); “thứ tha” - “được
tha thứ” (c. 20).
Lối văn đối ngược này, không chỉ
được dùng một lần, nhưng tới 14 lần khác nhau, làm cho ý tưởng được nhấn mạnh
và cho thấy rõ tâm hồn của tác giả thực sự đã sẵn sàng trong tư thế làm điều
thiện, đối ngược với những hành động làm điều ác. Tất cả được thực hiện trong
khung cảnh một cá nhân, nhưng còn cả trong khung cảnh xã hội, cộng đoàn. Người
ta có thể đoán được rằng, tác giả đang sống trong một xã hội, một cộng đoàn
thực sự đang chất chứa nhiều hận thù, ghen ghét... và trước tất cả những điều
này, tác giả tỏ ra bất lực, và chỉ sáng tác một Lời Kinh để cho nhiều người đọc
và khi cầu nguyện Chúa sẽ nhậm lời và mỗi tâm hồn sẽ được cải hóa. Như vậy hoàn
cảnh sẽ thay đổi dần dần. Do đó vào thời gian khi bùng nổ thế chiến thứ hai,
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV cũng dã cho đăng Lời Kinh này trong Báo L’Osservatore
Romano, và muốn Kinh này được đọc lên trong các Giáo Hội tại Âu Châu.
4. Ý nghĩa của Kinh
Đơn Sơ
Đây là một lời kinh thật đơn sơ
đúng như tên gọi của nó ngay từ đầu. Nhưng chính cái đơn sơ này đã làm cho thấy
diễn tả các tâm tình sâu thẳm của con người và vì thế nó đã đánh động nhiều tâm
hồn đơn sơ và của cả những người làm chính trị như chúng ta ghi lại trên đây.
Do đó, việc tìm hiểu nội dung siêu nhiên lại là một vấn đề khó khăn. Ở đây tôi
thử đưa ra một số điểm giúp phần nào việc cảm nghiệm cái sâu xa của Kinh Đơn
Sơ này.
Lời cầu khẩn và xưng
tụng Thiên Chúa
Bản văn Kinh Hoà Bình đã dùng
hai từ ngữ để tuyên xưng với Thiên Chúa, đó là từ “Chúa” (Signore) và từ
“Thầy” (Maestro). Hai từ này không kèm theo một thuộc từ nào khác như “toàn
năng”, “hằng hữu”, “thương xót”..., và điều này cho thấy Lời Kinh này không
giống các lời kinh dùng trong phụng vụ, thường có kèm theo một thuộc từ đi kèm.
Đàng khác, Lời Kinh bắt đầu ngay với động từ ở ngôi thứ hai “xin làm cho con...”,
mà không có một thuật ngữ như “chúng con cầu xin Chúa”, hoặc “xin ban
cho con”... như thường có trong các lời cầu nguyện của phụng vụ. Như vậy,
lời Kinh Hoà Bình được coi như một lời kinh, một sáng tác của cá nhân
dâng lên Thiên Chúa để cầu cho chính mình hoặc cho xã hội mà tác giả đang sống.
Hai từ “Chúa” và “Thầy”
nói lên thái độ tùng phục hoàn toàn với Thiên Chúa, Đấng mà tác giả tin kính và
tôn thờ. Từ thái độ tuỳ thuộc nền tảng này, tác giả dâng lên những lời khẩn
nguyện.
Xin hãy làm con nên
khí cụ bình an của Chúa
Ở đây chúng ta lưu ý tới thuật
ngữ “khí cụ bình an”. Thuật ngữ này đem chúng ta vào trong lịch sử Nghi
thức cử hành Thánh lễ. Thời xưa, từ thế kỷ thứ 13 trở đi, khi ban bình an lúc
trước rước lễ, người ta dùng một đồ dùng bình an hay khí cụ bình an, để trao
ban bình an cho nhau (Instrumentum pacis). Khí cụ bình an này là một tấm
thẻ nhỏ hình bầu dục hay dài. Một mặt có khắc hình Chúa, Đức Mẹ, các thánh. Mặt
sau thường có một tay để cầm hay một giá để đựng tấm thẻ này. Khi ban bình an,
người ta trao thẻ này cho nhau để trao ban bình an và nói lên lời chúc lành
bình an cho nhau. Lần đầu tiên thẻ này được dùng bên Anh vào năm 1246. Sách Lễ
Rôma do Đức Giáo hoàng Piô V ban hành năm 1570 và Sách Nghi thức các Giám mục
năm 1600, cũng thấy có ghi việc dùng thẻ Khí cụ bình an này. Tuy nhiên,
việc dùng khí cụ bình an này không có tính cách bắt buộc. Dần dần việc sử dụng
khí cụ bình an này biến đi trong Nghi thức Thánh lễ.
Theo hình ảnh này, mỗi người trở
nên khí cụ bình an, trở nên biểu tượng của bình an của Chúa đối với người khác.
Họ cũng phải có tràn đầy sự bình an để chia thông ban cho người khác. Rồi sự
bình an đó phải được tràn đầy sung mãn và còn tiếp tục ảnh hưởng tới người
khác. Nhưng sự bình an này phải là sự bình an của Chúa Kitô, vì Ngài chính là
sự bình an làm giao hoà hai bên thù địch với nhau và giao hoà con người
với Thiên Chúa; Ngài phá đổ mọi bức tường ngăn cách các dân tộc, các nhóm
người, các cá nhân với nhau (x. Ep 2,13-16). Trước kia, để có khả năng
giao hoà, Chúa Kitô đã phải đổ máu mình ra, Chúa Kitô đã phải chết trên thập
giá vì chúng ta, vì chính Thiên Chúa đã muốn dùng thập giá của Chúa Kitô mà phá
tan mọi thù địch. Do đó, người tín hữu, để có thể trở nên khí cụ bình an
của Chúa Kitô, cũng phải đón nhận thập giá, cũng phải đổ máu đào ra vì anh em
mình, khi họ phải tha thứ, phải vứt bỏ mọi oán thù với người khác, trong gia
đình, trong đoàn thể, giữa các cá nhân. Kinh nghiệm hằng ngày dạy chúng ta chân
lý này. Khí cụ này phải thực sự nằm trong tay Chúa và hoàn toàn để Thiên Chúa
sử dụng, như dụng cụ của người thợ gốm nằm trong tay Thiên Chúa (x. Gr
18,1-11). Khí cụ không thể hành động theo ý của mình và làm trái ý của Thiên
Chúa.
Đây không phải là điều dễ thực
hiện. Nên tín hữu phải cầu nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành khí cụ
bình an của Chúa.
Ở đâu có ghét ghen,
xin làm cho con được mang đặt nơi đó tình yêu thương... Ở đâu có bóng tối, xin
làm cho con được mang đến đó ánh sáng.
Lời Kinh đã dùng những từ ngữ
đối nghịch nhau, những kiểu nói đối chọi nhau, như chúng ta đã phân tích trên
đây.
Trong Sáck Kinh chúng ta có một
Kinh cũng được sáng tác theo lối đối ngẫu này: đó là Kinh Cải tội bảy mối.
Kinh đọc như sau:
Cải tội bảy mối có
bảy đức:
Thứ nhất: khiêm nhường chớ kiêu ngạo.
Thứ hai: rộng rãi chớ hà tiện.
Thứ ba: giữ gìn sạch sẽ chớ mê dâm dục.
Thứ bốn: hay nhịn chớ hờn giận.
Thứ năm: kiêng bớt chớ mê ăn uống.
Thứ sáu: yêu người chớ ghen ghét.
Thứ bảy: siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng.
Lời Kinh Cải tội bảy mối
đã dùng cách đối nghịch giữa các tính xấu và các nhân đức: tính xấu trái ngược
với nhân đức, và trái ngược với Tin Mừng; đồng thời Lời Kinh cũng giới
thiệu những nhân đức phải thực hành để chừa bỏ các tính xấu. Như lời mở đầu nói
rõ: Cải tội bảy mối có bảy đức.
Chúng ta có một thí dụ khác về
hình thức đối nghịch các hành động như trong lời kinh tận hiến phục vụ của
Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556). Lời Kinh đọc lên như sau:
Lạy Chúa Giêsu, xin
dạy con:
Biết phụng sự Chúa
cho xứng đáng
Biết cho đi mà không
tính toán
Biết làm việc mà
không lo tìm an nhàn
Biết chiến đấu mà
không sợ vết thương
Biết tiêu hao mình
đi
mà không lo tìm một
phần thưởng nào khác
ngoài việc biết rằng
con đã thi hành ý Chúa. Amen.
Trong thư gửi tín hữu Galata,
Thánh Phaolô cũng đã so sánh đối nghịch giữa các hoa quả của xác thịt và hoa
quả của Thánh Thần. Hoa quả của xác thịt là: “Các việc của xác thịt thì rõ
ràng, đó là gian dâm, ô uế, phóng đãng, thờ tà thần, quỷ thuật, thù oán, đố kỵ,
hiềm khích, giận ghét, cãi cọ, bất thuận, bè phái, ghen tị, giết người,
say sưa, mê ăn uống và các nết xấu tương tự... Còn hoa quả của Chúa Thánh Thần
là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung
trực, khiêm tốn, tiết độ” (Gl 5,19-23). Phaolô kể ra 16 công việc của xác
thịt và 10 hoa quả của Chúa Thánh Thần. Tất cả đối ngược nhau. Phaolô khuyên
tín hữu Galata phải tránh những công việc của xác thịt; và phải hoạt động theo
những hoa trái của Chúa Thánh Thần. Nhưng Phaolô không đặt cạnh nhau từng cặp
công việc của xác thịt với công việc của Chúa Thánh Thần.
Trở lại với Lời Kinh Đơn Sơ,
chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của các thái độ phải tránh và các lối sống phải
có nơi người tín hữu.
“ghét ghen” - “tình yêu thương”
(câu 3); “xúc phạm” - “sự thứ tha” (c. 4); “bất hoà” - “sự hiệp nhất” (c. 5);
“nghi nan” - “đức tin” (c. 6); “sai lầm” - “sự thật” (c. 7); “thất
vọng” - “hy vọng” (c. 8); “buồn sầu” - “niềm vui” (c. 9); “bóng tối” - “ ánh
sáng” (c. 10); “cho đi” - “lãnh nhận” (c. 19); “chết đi” - “sống
lại tới tự sống đời đời” (c. 21); “được an ủi” - “lo an ủi” (c. 12); “được hiểu
biết” - “để hiểu biết” (c. 13); “được yêu mến” - “ lo yêu thương” (c. 14); “thứ
tha” - “được tha thứ” (c. 20).
Trong đời sống thiêng liêng
chúng ta có những điều phải tập tành, phải loại bỏ như là căn bản để có thể
tiến tới. Rồi tiến lên, người tín hữu còn cần đi xa hơn nữa, đó là sống đúng
theo tinh thần Phúc Âm Chúa Giêsu dạy, để rồi chuẩn bị đi vào con đường kết
hiệp với Thiên Chúa trong một sự kết hiệp với Thiên Chúa cách trọn vẹn và sâu
xa.
Kinh Cải tội bảy mối được coi
như là con đường thanh luyện căn bản.
Và chúng ta có thể coi những
điều tác giả Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình, đưa ra như là những
lối sống đi vào tinh thần Phúc Âm trọn vẹn. Để thấy rõ điều này, để thấy được
cách dễ dàng điều này, chúng ta đọc lại Bài giảng trên núi nói về những phúc
thật của Chúa Giêsu (x. Mt 5-6).
Chúa Giêsu nói về việc sống khó nghèo, về lời than khóc, về việc an ủi, sống
hiền lành, bị đói khát, về công chính, việc được no đầy, lòng xót thương, lòng
trong sạch, bình an, bị bách hại, bị sỉ nhục, bị vu khống đủ điều xấu. Hãy trở
nên ánh sáng cho mọi người; đưa cả má kia cho kẻ vả má này; xin áo thường, thì
cho cả áo choàng; xin đi một dặm, thì sẵn sàng đi thêm 2 dặm; yêu thân nhân, và
yêu cả thù địch; cầu nguyện cho cả người bách hại ngươi; chào cả người không
chào ngươi; cho cả người không có gì để cho lại bạn.
Còn tác giả Kinh
Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình đã gợi ý từ lời Chúa để cầu nguyện và
xin ơn sống những gì Chúa dạy trong Bài Giảng Trên Núi trong chính bản thân
mình và trong tương quan với người khác; như sống bình an, tránh ghen ghét,
biết yêu thương, không xúc phạm, luôn tha thứ, tránh bất hoà, gây tình hiệp
nhất, loại bỏ nghi nan, sống đức tin, tránh lỗi lầm, tìm chân lý, không thất
vọng, nhưng tràn đầy hy vọng, buồn sầu, niềm vui, tối tăm, ánh sáng, biết an
ủi, ủi an người khác, biết hiểu biết thông cảm, luôn cho đi mà không tìm lãnh
nhận, biết tha thứ, và cái đối chọi sâu xa nhất là chết đi trong thân xác con
người, để sống lại trong đời sống vĩnh cửu.
Đọc bản liệt kê đối chiếu giữa
Bài giảng của Chúa Giêsu trên núi, với Lời Kinh Đơn Sơ, chúng ta nhận
thấy một sự hài hoà lớn lao, và Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình như
là một lời quảng diễn những gì Chúa Giêsu nói và dạy chúng ta trong Bài Giảng
Trên Núi. Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sự tự do con người: “nếu”, “khi
chúng con làm”... Chúa đề nghị với con người, để họ được hạnh phúc: Phúc
cho những ai...; còn Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình cầu xin
trong tấm lòng khát khao thực hiện và ý thức sự yếu đuối của mình để có khả
năng thực hành những giáo huấn của Chúa. Ngày nay, những ai đọc hay hát đến từ
“nếu”, hoặc câu “khi chúng con làm”... cũng cần đi vào trong tinh
thần của Các Mối Phúc Thật và của lời cầu: Xin hãy làm con nên dụng cụ bình
an của Chúa. Đọc như thế mỗi ngày, con người được thanh luyện hơn và được
ánh sáng chiếu soi vào trong chốn thẳm sâu của họ. Họ sẽ xác tín hơn về những
tâm tình phải có để sống đúng Tin Mừng của Chúa Kitô. Họ sẽ không còn oán thù,
nhưng sẽ yêu thương...
Trong Kinh Thánh Phanxicô Assisi
đọc trước tượng Thánh Giá tại Nhà thờ San Damiano ở Assisi, chúng ta có một số
từ giống như trong Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình: “Lạy
Đấng tối cao, Thiên Chúa vinh hiển, xin chiếu soi vào bóng tối
của lòng con. Xin cho con đức tin ngay thẳng, đức cậy vững vàng
và đức ái toàn vẹn, sự khôn ngoan và khả năng để hiểu biết và để
phụng sự thánh ý Chúa. Amen” (gạch dưới là của tôi).
Lạy Thầy, xin làm
cho con, không lo tìm kiếm, để được an ủi, mà lại lo an ủi. Không lo được hiểu
biết, mà lại lo để hiểu biết; không lo tìm được yêu mến, mà lại lo yêu thương.
Chúng ta sang phần thứ II của
Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình. Chúng ta nhớ phần thứ II này
không có trong bản văn năm 1916. Bản văn Phần thứ II nói tới niềm an ủi, sự
hiểu biết cảm thông, việc yêu mến. Ba hành động này là những yếu tố tích
cực và tất cả chúng ta đều mong muốn thể hiện cho chính mình và muốn
người khác thể hiện cho mình nữa. Vì trong con người chúng ta, bản sinh chúng
ta muốn thể hiện bản ngã của mình, “cái tôi” nơi ta, cách trọn vẹn và còn muốn
hơn cả người khác. Chúng ta cũng muốn có được thật nhiều của cải vật
chất và đức tính tự nhiên, khả năng tinh thần, để làm giàu cuộc sống của chúng
ta. Tự nhiên chúng ta không nghĩ tới người khác và cũng không muốn nhường cho
người khác những gì chúng ta có theo bản tính tự nhiên hay do sở hữu và công
việc làm của chúng ta. Tất cả những điều này tự nó không xấu, nhưng nếu
không ý thức điều hoà, chúng sẽ là cản trở lớn cho sự thăng tiến về cuộc sống
siêu nhiên. Vì thế, tác giả Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình đã
xin Chúa cho được sống ngược lại với bản năng và ước muốn tự nhiên: muốn an ủi
người khác thay vì để người khác an ủi mình; muốn cảm thông hiểu biết người
khác thay vì đòi hỏi người khác cảm thông và hiểu biêt chính mình; muốn yêu mến
người khác, thay vì để người khác yêu thương mình và làm tất cả cho mình vì
tình yêu thương này. Quả thật đó là một ước muốn lớn lao, khó thực hiện. Vì
thế, nó trở nên một lời cầu khẩn thiết tha dâng lên Thiên Chúa. Ngài là Thầy
của tất cả và có sức làm được tất cả cho chúng ta. Các thánh cảm nghiệm được
điều này. Các ngài đã sống và thực hành điều này trong đời sống của mình. Các ngài
quả thực không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho Thiên Chúa và cho
người khác hoàn toàn. Các ngài làm hết mọi điều cho người khác, còn phần mình
thì không kể gì tới. Thánh Inhaxiô thì xin Chúa cho mình “được ơn cho đi mà
không tính toán”.
Bởi vì, có như thế,
thì khi cho đi, là người ta lãnh nhận, khi thứ tha, thì được tha thứ; khi chết
đi, thì sẽ sống lại tới tự sống đời đời”.
Đây là phần thứ III
và cuối cùng của Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà
Bình. Bản văn đặt từ “sự sống muôn đời” ở cuối Lời Kinh này, như
thường thấy trong các kinh khác. Phần này có thể được coi là phần nói về những
phần thưởng dành cho những ai sống các đòi hỏi trên đây. Nhưng điều này cũng
được diễn ra trong lối văn cầu xin và dưới hình thức giải thích lý do cho việc
sống những đòi hỏi siêu nhiên trên đây. Bản văn nói tới 3 động từ “cho đi”,
“thứ tha” và “sống” cũng như “sống lại”, và một danh từ
kết cho tất cả Lời Kinh, đó là “sự sống muôn đời”. Ở đây, Lời Kinh cũng
có những kiểu nói đối ngược lại, nhưng lại là tích cực đem lại hậu quả đích
thực trong chính các hành động đã thực hiện. Chúng ta có thể xác quyết rằng,
bản văn đã gợi hứng từ Phúc Âm khi Chúa Giêsu nói: “Ai muốn giữ mạng sống
mình thì sẽ mất sống. Ai hy sinh mạng sống mình vì Thầy sẽ được sống” (Mt
10,39). Nhưng khác một điều là trong bản văn Phúc Âm, có nói tới lý do của việc
hy sinh sự sống: “vì Thầy”. Còn trong Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình,
với cả 3 trường hợp “cho đi”, “tha thứ” và “chết đi”, thì chỉ nói trống mà thôi. Như vậy, chúng ta phải hiểu trước
tiên là theo hướng của Phúc Âm, nghĩa là khi tín hữu “cho đi”, “tha
thứ”, “chết đi”, họ làm tất cả vì Chúa Kitô. Nhưng người ta cũng có
thể hiểu thêm rằng, tất cả các hành động này tự nó có tác động nơi người khác
và có tác động nơi chính người chủ động. Về phạm vi tâm lý, đó là một hành động
giải phóng, có sức thăng tiến con người và làm cho họ nên sung mãn hơn. Khi
“cho đi”, con người cảm thấy một mối liên hệ với người khác, và ràng buộc họ
với người khác; làm cho họ có được ý thức về nguồn tài năng phong phú nơi mình
về phạm vi thể lý cũng như tinh thần. Đó chính là điều họ nhận lãnh được từ
hành động cho đi. Rồi khi họ “tha thứ”, thì hành động này tác dụng vào
con người họ cũng đang cần được tha thứ vì những thiếu sót và yếu kém của mình.
Họ ý thức về cái không phải là mình qua các hành động lỗi phạm, để nhận ra một
nhu cầu được tha thứ. Như thế, họ chia sẻ cái cảm nghiệm thiếu sót và nhu cầu
cần được tha thứ để hoàn thiện cả hai bên. Còn khi “chết đi”, đây là một
luật của sự sống, vì nếu hạt giống gieo xuống mà không hư nát đi thì sẽ không
mọc lên cây và sinh hoa trái. Chính Chúa Giêsu đã nói như thế trong cuộc nói
chuyện với những người Hy Lạp đến dự lễ tại Giêrusalem (x. Ga 12,24).
Sự sống muôn đời là phần thưởng cho những ai biết tha thứ, biết cho đi và biết chết
đi, nhưng không chỉ có thế mà thôi, mà còn cho tất cả những ai đã thực hành các
việc vừa nói trên đây, ở phần I và phần II của Lời Kinh. Tuy nhiên, sự sống
mnuôn đời này chỉ có thể do Thiên Chúa ban cho con người. Chắc chắn các việc
con người làm, cho dù có quảng đại đến đâu, có hăng say đến đâu, có kết quả thế
nào đi nữa, thì không thể tương xứng với sự sống muôn đời và Đấng ban sự sống
này cho ta, nhưng lại khó thực hiện vì sự sống này là điều nằm trong phạm vi
của Thiên Chúa, và lại là chính Thiên Chúa. Vậy từ ngữ “sự sống muôn đời” là
một nguyện ước thật sâu xa của tác giả Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh
Hoà Bình, và cũng là một lời tuyên xưng hoàn toàn tin cẩn vào Thiên Chúa.
Kết luận
Với mấy lời chú giải trên đây,
chúng ta nhận ra được giá trị, ý nghĩa và nội dung của Lời Kinh Đơn Sơ hay
Kinh Hoà Bình, mà chúng ta đã quá quen thuộc. Lời Kinh này là kết
quả của một con người đã sống sâu xa Phúc Âm của Chúa Kitô, nhất những mối phúc
thật của Chúa rao giảng. Lời Kinh này xuất phát từ một tâm hồn đang muốn đi sâu
vào con đường đi theo Chúa Kitô và hiệp thông với Ngài. Đồng thời tác giả cũng
thao thức cầu xin cho mình cho mọi người sống thực tinh thần hoà bình của Phúc
Âm. Lời Kinh này là một áng văn chương được sáng tác cách tuyệt vời do một tay
bút đã sống trong nguồn văn chương thi phú, đã quen với các lời cầu nguyện của
các giáo phụ và các tác giả tu đức thời danh. Tác giả để lại cho chúng ta một
áng văn chương thật dễ đọc, dễ thuộc và dễ thấm vào tâm khảm chúng ta, vì những
gì được trình bày trong Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình
cũng rất gần gũi với tâm tình của chúng ta, với những ước muốn siêu nhiên của
chúng ta. Ước gì Lời Kinh ĐơnSơ hay Kinh Hoà Bình được đọc
và suy tư sâu xa hơn, để rồi có sức biến đổi con người thời nay đang bị xâu xé
vì chiến tranh, hận thù, oán hờn, ích kỷ. Với ơn Chúa Lời Kinh dần dần biến đổi
mỗi người chúng ta thành khí cụ bình an của Chúa Kitô và hoàn toàn để
Chúa Thánh Thần dùng khí cụ này trong công việc xây dựng Giáo Hội và hoà bình.
------------------------------------
- L’Osservatore
Romano, ngày 20-1-2009, có cho in lại trang đầu của Nhật báo của Tòa Thánh
Vatican L’Osservatore Romano, ngày 20-1-1916, trong đó có in lại bản văn Kinh
Đơn Sơ đăng trong báo “Souvenir Normand”.
- Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC., và Suor Chiara Carla Cabras, OSC.,
Shalom 2005, Editrici Francescane 2005, tr.128.
- Ngoài Bản Kinh Hoà
Bình, chúng ta cũng có những bài thánh ca được sáng tác gợi ý từ bản văn nguyên
thủy, nhưng đôi khi có thêm một vài chữ, vài câu, hay có khi thêm cả một đoạn
văn nữa, x. Preghiere di San Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập
sau đây: P. Bruno Giannini, OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC và
Suor Chiara Carla Cabras, OSC., Editrici Francescane 2005, tr. 470-471.
- x. Phụng ca
III, do các linh mục và tu sĩ Việt Nam tại Cộng hoà Liên bang Đức xuất bản
năm 1998, tr. 920.922.
- x. Indice, tr. 5-6
và 105.
- Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM., Suor Cjhiara Augusta Lainati, OSC và Suor Chiara Carla Cabras,
OSC., Editrici Francescane 2005, tr. 128.
- Egidio Picucci, Le
origini
- x. Preghiere di
San Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno
Giannini, OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC và Suor Chiara Carla
Cabras, OSC., Editrici Francescane 2005, tr. 128.
- Lời kinh trong
ngoặc là bản dịch trong bài hát của Nhạc sĩ Kim Long dùng.
- Về lối hành văn
đối ngược nhau, chúng ta có thí dụ điển hình trong Kinh kính chào các Nhân Đức,
của Thánh Phanxicô Assisi: xem Preghiere di San Francesco e Santa Chiara, tr.
61-62: như đối ngược giữa sự khôn ngoan như nữ hoàng và sự đơn sơ toàn vẹn; sự
khó nghèo - sự khiêm nhường; sự bác ái - sự vâng lời; một nhân đức - bao gồm
tất cả các nhân đức khác, thiếu một nhân đức – thì thiếu hết các nhân đức khác,
sự khôn ngoan - thắng lướt các mưu chước của Satan; sự đơn sơ nguyên tuyền -
làm lộn xộn sự khôn ngoan của cả thế giới...
- x. Joseph A.
Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite (Missarum Solemnia), A Christian
Classic Reprint, New York 1980, tr. 483; xem thêm Enciclopedia Cattolica, vol.
XX, Città del Vaticano, 1952, cột 499-500.
- Phụng Ca III, như
trên, tr. 356-357.
- Đây có lẽ là lời
kinh cổ xưa nhất mà Thánh Phanxicô Assisi đã sáng tác. Xem Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM, Suor Chiara Augusta Lainati, OSC, và Suor Chiara Carla Cabras, OSC,
Editrici Francescane 2005, tr. 47.
- Sau phần này, các
bài thánh ca gợi hứng từ đây có thêm một câu nữa, như: “Ôi Thần Linh thánh ái,
xin mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an
bình”.
Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
(emty.org Cập nhật: 18/10/2011 -
13:02:16)