Kinh Mân Côi
(dongten.net)
Nữ Vương Rất Thánh Mân
Côi
Cha Pio Pietrelcina (1887-1968) là một vị thánh của thế kỷ
XX. Ngay từ khi còn sống ngài được Chúa ban cho nhiều đặc sủng,
làm nhiều dấu lạ, giúp đỡ nhiều người sống đức tin và chữa lành nhiều tật bệnh
hồn xác. Ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước
(02.5. 1999) và phong thánh (16 .6. 2002). Trước khi lìa đời, ngài được
anh em trong dòng và con cái thiêng liêng xin để lại một chúc thư. Ngài không viết chúc thư,
nhưng chỉ nói vài lời. Tựu trung, chúc thư tinh thần
ngài để lại cho con cái là: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và làm cho người khác yêu mến
Mẹ. Hãy luôn lần hạt Mân côi”. Có thể nói đó là cách một vị thánh truyền lại bí
quyết nên thánh của mình: yêu mến Đức Me và lần hạt
mân côi. Không có gì đơn sơ hơn điều đó. Một thực hành
vừa tầm tay mọi người. Bất kỳ già trẻ lớn bé, người học thức hay giới bình dân đều có thể áp dụng
trong đời sống mình.
Yêu mến Đức Mẹ là con đường dẫn đến Chúa Giêsu. Và
lần hạt Mân Côi là phương thế để bày tỏ tình yêu đối với Đức Mẹ.
Trong Năm Phụng Vụ, Hội Thánh dành hai tháng để kính Đức Mẹ: Tháng
Năm và Tháng Mười. Vào Tháng Năm, tín hữu có thói quen dâng kính Mẹ Thiên Chúa
những bông hoa trong thiên nhiên. Vào Tháng Mười, Hội Thánh dâng lên Mẹ Thiên
Chúa những hoa hồng nhiệm, là những kinh Kính mừng. Cả hai cách đều đáng khích
lệ, vì là những phương thế biểu dương lòng sùng kính Mẹ. Nhưng Hội Thánh khích
lệ giáo hữu năng đọc kinh Kính mừng vì là những lời được trích dẫn từ Phúc Âm. Trải qua nhiều thế kỷ, các Đức Giáo Hoàng thường không bỏ cơ hội
nào để nhắc nhở tín hữu đọc kinh Mân Côi. Trong thời
đại của chúng ta, chính Mẹ Thiên Chúa, qua các thị nhân, khuyên bảo tín hữu năng
lần hạt Mân Côi để được ơn cứu độ cho bản thân và cứu độ thế giới. Kinh
Mân Côi đem lại bình an cho tâm hồn và hòa bình cho
thế giới.
Năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho ba trẻ chăn chiên ở
Lần hạt Mân Côi vừa là lời kinh chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi, vừa
là việc tưởng nhớ Mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, từ trong cung lòng Đức Maria. Chuỗi Mân Côi là một trường học cầu nguyện và chiêm niệm, điều đó
giả thiết phải thực hành đều đặn. Chuỗi Mân Côi đem
đến cho người cầu nguyện hai lợi ích chính.
1) Ích lợi cho chính bản thân. Được sống trong ân
sủng Thiên Chúa. Thắng ma quỷ. Và khi rủi sa ngã thì được ơn hoán cải và cứu rỗi.
Thánh Louis-Marie Grignion de Montfort trong Bí quyết kinh Mân Côi nói đến lợi ích của kinh Mân Côi: “Người
đọc kinh Mân Côi phải ở trong tình trạng ân sủng hay ít nhất quyết tâm ra khỏi
tội lỗi của mình, bởi vì toàn bộ thần học dạy chúng ta rằng những việc tốt lành
hay kinh nguyện trong tình trạng tội trọng, là những công việc chết” (§117).
2) Ích lợi cho Hội Thánh, cho thế giới. Kinh Mân
Côi đem lại ơn cứu độ cho kẻ có tội, đem lại hòa bình cho thế giới.
Thiên Chúa dùng những phương tiện đơn sơ
để cứu độ con người. Khi Chúa can thiệp để cứu giúp một người, một dân hay toàn
thể nhân loại, thì không cần đến khí giới và võ lực, chỉ cần lòng tin tưởng
tuyệt đối vào sự nâng đỡ của Chúa, như trong Cựu Ước Chúa đã giúp dân Do thái
chiếm thành Giêrikhô mà không cần đế vũ khí và bạo lực (x. Giôsuê 6,1-12).
Trong lịch sử Giáo hội, khi thế giới Kitô bị đe dọa bởi lực lượng
hùng hậu của quân Thổ tại Lepante, cửa đi vào vịnh Côrintô, thì Hội Thánh dâng
kinh Mân Côi cầu nguyện xin ơn trợ giúp của Mẹ Thiên Chúa. Hậu
quả là đạo binh Tây phương đã chến thắng ngày 07.10. 1571. ĐGH Piô V
thiết lập lễ Nữ Vương Mân Côi để ghi nhớ biến cố lịch sử này. Và cũng từ đó
ngài thêm vào Kinh cầu Đức Bà lời kêu xin: “Đức Bà phù hộ các giáo hữu, cầu cho
chúng con”
Kinh Kính Mừng
Thánh Gio-an Maria Vianney, cha sở họ Ars
có nói: “Kinh Kính mừng là một lời kinh không bao giờ làm chúng ta mệt mỏi. Khi nói những chuyện trần tục hay bàn về chính trị, người ta mau
chán, nhưng khi nói về Đức Mẹ người ta luôn cảm thấy mới.” (B. Nodet, Le Curé d’Ars: sa
pensée, son coeur, Xavier Mappus, 1966, p.246).
Chúng ta có cảm tưởng ngược lại. Đối với đa số chúng ta, khi nói những chuyện phàm tục thì không bao
giờ chán, khi bàn đến chính trị thì rất hăng say, nhưng khi nói về Đức Mẹ thì
làm như có vẻ e thẹn. Đa số chúng ta không có đủ sức để đọc
mười kinh Kính mừng, huống hồ gì đọc hết năm mươi kinh? Tại sao thế?
1). Kính mừng Maria
đầy ân phúc…
Kinh Kính mừng là một lời kinh chúc tụng: “Kính chào bà đầy ơn phúc”,
là một bài thơ ca tụng hạnh phúc: “bà có phúc hơn mọi người nữ”. Kinh Kính mừng
là một phương thế đơn sơ để tôn vinh Thiên Chúa, bằng
việc biểu lộ sự thán phục trước nét đẹp vô song của Đức Trinh Nữ Maria, điều mà
những kẻ phàm phu tục tử, những người vị kỷ, những người đắm đuối trong dục
tình không thể làm được. Kinh Kính mừng chỉ làm vui những tâm hồn trong sáng,
những con mắt biết nhìn vẻ đẹp của tâm hồn, những con người hoàn toàn vô vị
lợi.
Người tự mãn, không biết thán phục. Người vị kỷ chỉ thấy chính mình, Người đắm đuối trong dục tình
không thấy ánh sáng.
Đoạn cuối sách Châm ngôn là một bài thơ ca tụng người phụ nữ đảm
đang: “con cái bà đứng lên để tuyên dương bà hạnh phúc, chồng bà sẽ ca tụng bà”
(Châm ngôn 31,28). Đọc kinh Kính mừng là lời con cái
của Đức Trinh Nữ từ muôn thế hệ, từ khắp năm châu bốn bể, đứng lên để ca tụng
Mẹ đầy ân phúc.
Chúng ta phải thấy được hạnh phúc của Đức Mẹ, nếu không thấy bằng
mắt thì cảm nghiệm được bằng lòng tin. Như những đứa trẻ ngây thơ muốn làm một
bài diễn văn phải cần đến những người văn hay chữ tốt, thì Hội thánh để ca tụng
Đức Trinh Nữ, cũng phải cậy nhờ lời của Thiên Sứ, lặp lại lời được linh ứng của
thánh nữ Elizabeth.
Những tâm hồn ngây thơ, trong trắng ngây ngất trước vẻ đẹp của Nữ
Trinh đầy ơn phúc, và không ngừng lặp lại cũng không mệt mỏi: “Bà đầy ơn phước.”
Bernadette ở Lộ Đức. Ba trẻ: Lucia, Francisco và Giacinta ở
Chỉ có các thánh mới cảm nghiệm được hạnh phúc của lời kinh
chúc tụng.
Nhưng bằng một nghịch lý mà chỉ có lòng nhân hậu Chúa mới
giải thích được, những tội nhân, những người biết mình là kẻ có tội còn là
người đọc kinh Kính mừng không mệt mỏi.
2). Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu
cho chúng con là kẻ có tội…
Chúng ta có ý thức rằng nội dung phần thứ hai kinh “Kính mừng” là
một lời kinh của tội nhân?. “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa
Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử.”
“Chúng con là kẻ có tội”, cũng là một cách nói giống như lời thú
tội của người thu thuế trong Tân Ước: “Lạy Chúa xin thương xót con, vì con là
kẻ tội lỗi”(Lc 18,13). Và Chúa nói: người ấy trở về
được sạch tội, được trở nên công chính. Cũng là một cách nói như người trộm
lành kêu lên Chúa trên thập giá: “Lạy Ngài xin nhớ đến con, khi Ngài về nước Ngài”
và Chúa đã trả lời: “Hôm nay anh sẽ được lên nơi an nghỉ cùng Ta.”(Lc 23,43).
Và những kẻ có tội vẫn kêu van Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa,
trong hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh. Và
họ chắc chắn được nhậm lời.
Anh em là những người đơn sơ, vô tội, trong trắng, lời kinh chúc
tụng Mẹ Thiên Chúa là niềm vui của anh em trên quảng đời dương thế.
Nhưng nếu anh em thấy mình là kẻ có tội, đừng tưởng rằng mình không
xứng đáng ca tụng Mẹ vì còn niềm an ủi lớn lao của lời
van xin khiêm tốn. Chỉ có một hạng người sẽ vấp phạm vì kinh
Kính mừng, là những biệt phái chỉ thấy có mình, những người tội lỗi nhưng tự
hào về cái vỏ thánh thiện của mình.
Cùng với toàn thể Hôi Thánh, chúng ta dâng lời chúc tụng Mẹ và cùng
với Người đi vào mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, để cho những biến cố vui, thương, mừng
của đời sống chúng ta được thánh hóa bởi mầu nhiệm cứu chuộc của Con Thiên
Chúa. Amen.
(Lm. Antôn Ngô Văn Vững, SJ)