NHỮNG KẺ
ĐIÊN
________________________________________
Lễ kính Thánh Giá
Chúa Giêsu
Xả thân nếu muốn theo Thầy
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
(Mt 16,24)
I. LƯỢC SỬ LỄ KÍNH THÁNH GIÁ.
1. Suy tôn thánh giá Chúa.
Dưới thời hoàng đế Hérachius I, những người
Ba tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của thánh giá thật mà thánh
Hélène, mẹ của hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại
thánh giá này. Ngài cầu nguyện, xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả
nhiên, lời cầu xin của vua dược Chúa chấp nhận, ngài đã đánh bại được quân Ba
tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành olive,
những ngọn đuốc cháy sáng, thánh giá thật của Chúa được tôn vinh trong bầu khí
khải hoàn. Hoàng đế tràn trề sung sướng muốn trở về Giêrusalem với thánh giá
này sau mười bốn năm lưu lạc.
Nhà vua tiến vào thành thánh, nhưng trước khi
lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh
ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zacharie hô lớn :”Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của
đức vua không xứng hợp với cảnh nghèo nàn và khiêm nhường của Chúa Giêsu khi
vác thánh giá”. Hérachius vội cởi bỏ mọi phẩm phục sang trọng, và thay vào bằng
bộ áo quần nghèo hèn. Tức thì nhà vua
cất bước một cách dễ dàng... và để tỏ ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép
lạ cả thể trong ngày ấy.
Từ đó, lễ kính thánh giá Chúa Giêsu được lập
ra để nhắc nhở cho các thế hệ kỷ niệm này.
2. Cây khổ giá của Chúa.
Theo nhiều nhà nghiên cứu Thánh kinh, người
ta cho biết một số đặc điểm về cây thánh giá ấy. Cây thánh giá này bằng gỗ tùng rất nặng. Cây dọc 4 thước rưỡi,
cây ngang 2 thước rưỡi, nặng 100 ký. Vác kéo lê thì giảm sức nặng đi 30
ký. Như vậy, Chúa còn bị sức nặng 70 ký
đè trên thân xác yếu ớt vì đòn vọt, và
vác khệ nệ trên con đường dai 700 thước.
Quãng giữa thánh giá, thường đóng một miếng gỗ để tội nhân tì mông vào
cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một đinh.
Nay các nhà kỹ thuật đã hạ miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân, và hai chân đóng chụm lại cho đẹp.
II. Ý NGHĨA CÂY THÁNH GIÁ.
1.
Đối với dân ngoại.
Thập giá là một dụng cụ để xử tử phạm nhân mà
người Phênixi đã dùng trước hết, kế đó người La mã cũng dùng. Nhưng chính phủ
La mã chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân bị trị, những người thấp hèn và
những người phạm các giống tội bị coi là nặng nề nhất như trộm cướp, ít khi áp
dụng cho công dân La mã. Đóng đinh trên thập giá là một hình phạt đau đớn, nhục
nhã và độc dữ nhất. Bàn về hình khổ
đó, nhà hùng biện trứ danh La mã xưa, ông Cicéron, đãkêu lên :”crudelissimum et
teterrimum supplicium” (cực hình ghê rợn và độc dữ nhất).
Trước hết, phạm nhân bị đánh đòn cách tàn
nhẫn, rồi cả tay và chân đều bị những mũi đinh to xuyên qua và dính vào thanh
gỗ. Bây giờ thập giá được dựng lên. Máu
ra nhiều, nhiệt độ trong người gia tăng thành một cơn sốt rất nặng, phạm nhân
bị kiệt sức, lưỡi bị khô cứng, các mạch máu sưng lên, các đường gân căng thẳng,
toàn thân nhức nhối vô cùng. Thường
thường phạm nhân bị thống khổ như vậy đôi ba ngày, hoặc một tuần rồi mới chết.
Thời gian ấy câm bằng bao thế kỷ !
Như vậy, cây thập giá là dịp vấp phạm cho
người ngoại. Thánh Phaolo đã nhận xét :”Trong khi người Do thái đòi dấu lạ, và
người Hy lạp tìm sự khôn ngoan, thì
chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, cớ vấp phạm
cho người Do thái, sự điên rồ đối với
người dân ngoại (Hy lạp)” (1Cr 1,22-23).
Tại sao có thể xưng nhận một người chịu chết
nhuốc khổ đến thế là Chúa ? Nếu Ngài
toàn năng, sao Ngài đành thinh lặng trước thái độ ngỗ nghịch của bao kẻ khôn
ngoan. Thế lực gì kẻ bị chết trần truồng không mảnh vải che thân : đó, lý luận
của người đời. Với trí suy hiểu tự nhiên, họ không thể thấy cao nhìn xa hơn
được nữa. Cái chết của Ngài có thể coi
như một sự chúc dữ của Thiên Chúa (Dt 21,22).
Ngài đã nhận cực hình của kẻ nô lệ (Gl 3,13). Nói đúng hơn, không những là cực hình nhưng còn là khổ
nhục nữa (xem thêm Phil 2,8; Dt 12,2 và 13,3; Mt 27,42; Lc 23,39).
2. Đối với Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã dùng cây thánh giá để chuộc tội
cho nhân loại, nhờ cây thánh giá mà nhân loại được sống. Như thế, đối với chúng ta, cây thánh giá không còn
đáng ghê tởm và kinh khiếp nữa, trái lại, nó là niềm kiêu hãnh của chúng
ta. Thánh Tông đồ dân ngoại kể như mình
đã bị đóng đinh vào thập giá với Chúa Giêsu, khoe về thập giá của Chúa Giêsu và
lấy làm vinh dự rao truyền thập giá ấy bất cứ nơi nào. Ngài đã múc được sự khôn ngoan trong thánh
giá Đức Kitô, một thứ khôn ngoan mà người thông thái trần gian không có :
“Lời giảng về thập giá Chúa Kitô,
quả thực, đối với những kẻ hư hỏng (cứng lòng tin) là điều điên rồ, nhưng đối với những ai được cứu rỗi như
chúng ta, lại là sức mạnh của Thiên Chúa,
vì có lời chép : “Ta sẽ hủy diiệt sự thông thái của người thông thái, và phế bỏ
sự khôn ngoan của người khôn ngoan (Is 29,14). Người khôn đâu ? Văn sĩ đâu ?
Người biện lý thế gian đâu ? Nào Thiên
Chúa đã chẳng khiến sự khôn ngoan của thế gian này ra ngu ngốc sao ? Vì thế
gian chẳng theo sự khôn ngoan Thiên Chúa để nhận biết Thiên Chúa, mà chỉ theo
sự khôn ngoan riêng mình, nên Thiên Chúa muốn dùng lời giảng điên rồ (về thập giá Chúa Kitô) để cứu rỗi những ai tin theo !
Người
Do thái đòi phép lạ, người Hy lạp tìm triết lý : còn chúng tô lại rao giảng Đức
Kitô chịu đóng đinh : Đấng người Do thái cho là gương xấu, còn dân ngoại cho là
điên rồ, nhưng đối với những người Do thái va Hy lạp đã được Chúa gọi, thì Đức
Kitô lại là sức mạnh và sự khôn sáng của Thiên Chúa : Vì sự điên rồ của Thiên
Chúa còn khôn sáng hơn sự khôn sáng của loài người, và sự yếu đuối của Thiên
Chúa còn lực lượng hơn sức mạnh của loài người” (1Cr 1,18-25).
Chính vì cây thánh giá đã đem đến cho nhân
loại ơn cứu rỗi, nên Giáo hội đã xưng tụng : O crux, ave, spes unica : kính
chào cây thánh giá là niềm hy vọng độc nhất của chúng tôi. Trong bài ca vãn ngày thứ sáu tuần thánh
cũng có câu : Ôi, thánh giá trung tín, là cây cao qúi hơn mọi cây : không rừng
nào có cây lá, hoa trái như vậy. Ôi gỗ êm ái, gỗ mang thân nặng đóng đinh dịu
dàng ! Hỡi miệng lưỡi, hãy ca hát chiến thắng vinh hiển, hãy công bố cuộc chiến
thắng oai hùng trên thập giá : Đấng cứu độ thế gian tự hiến tế đã toàn thắng.
3. Thập giá và vinh
quang.
Chúa có thể cứu rỗi chúng ta bằng nhiều cách,
chỉ một giọt mồ hôi của Chúa đổ ra cũng đủ dư để cứu chuộc nhân loại, nhưng
Chúa Giêsu không muốn thế, Ngài muốn dùng một hình phạt ghê sợ nhất để thực
hiện công cuộc cứu chuộc. Nhờ cây thập giá mà Chúa Giêsu đã lôi kéo mọi sự và
mọi người về với Chúa :”Khi nào chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi sự về
với Ta”. Nhờ cái chết đau thương ô nhục
mà Chúa Giêsu đã phục sinh vinh thắng để đem lại cho ta sự sống dồi dào. Phải
chết đi rồi mới sống lại được, không chết thì phục sinh làm sao ? Hạt giống không mục nát ra, làm sao có thể
trổ mầm và sinh hoa kết quả được ? Chúa
Giêsu đã nói như vậy :
Này Ta bảo thật các con,
Hạt kia nếu chẳng xuống bùn chết di,
Một mình nó được ích gì !
Còn như nó chết tức thì sinh ra
Muôn ngàn những quả cùng hoa.
(Ga 12,14)
Trong đời sống hằng ngày, ai cũng có kinh
nghiệm về những thành công của mình hoặc của người : không có thành công nào mà
không được mua bằng hy sinh. Ông
Corneille đã nói rất đúng :”Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn càng vinh thắng”.
Truyện
: hoàng tử và thanh kiếm
Vua Charles V một lần kêu hoàng tử đến và cho
hoàng tử được lựa chọn. Trên bàn vua đặt
một thanh kiếm và một triều thiên.
Vua nói :
- Con chọn cái nào ?
Ngần ngừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi :
- Sao con lại chọn thanh
kiếm ?
Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào
vương miện và đáp :
- Nhờ thanh kiếm này, con sẽ
được triều thiên kia .
Chúng ta cũng phải bắt chước gương hoàng tử để chịu khó ở đời này, phần
thưởng đời sau
của chúng ta chỉ có thể mua được bằng thanh kiếm của những sự khó nhọc
vất vả, những hy sinh hằng ngày, những công việc không tên tuổi, những công
việc đều đều nhàm chán, những sự từ bỏ mình liên miên, vì :
Lúc vất vả, lúc thanh nhàn,
Không dưng ai bỗng đem tàn che cho.
(ca dao)
4. Cây thập giá và đức tin.
Chúng ta đã biết, cây thập giá đối với người
ngoại, đối với những người không có đức tin thì đó là cả một vật kinh tởm, một
sự thất bại và nhục nhã ê chề của một Giêsu chịu đóng đinh, người mà dân chúng
đã tố cáo là một tên phản loạn. Nhưng đối với chúng ta, với con mắt dức tin, ta
thấy trong thập giá Đức Kitô cả một nguồn tài sản phong phú, một nguồn ơn dồi
dào vô biên, một nguồn suối không bao giờ cạn, một kho tàng lớn lao không gì có thể chứa nổi. Những cái đó, người
thông thái thế gian với con mắt thịt không bao giờ có thể trông thấy được.
Truyện
: kho tàng và hạt kim cương.
Theo tài liệu sử cho biết : năm 1662 một
chiếc tầu Tây ban nha chở đầy vàng đã
bị chìm xuống đáy biển... Người ta đã bỏ ra hơn hai triệu Mỹ kim để tìm kho
tàng ấy nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy.
Chúa Giêsu cũng ví Nước Trời giống như kho
tàng chôn dưới đất, một người biết được đã bán tất cả để mua cho được thửa
ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như hạt kim cương quí giá tìm được (x. Mt
13,44-46).
Hiện nay cục kim cương lớn nhất thế giới đuợc
tìm thấy tại Nam phi năm 1917. Cục kim cương này nặng 3200 cara. Người ta đã chia cục kim cương này thành 105
miếng nhỏ và trong số đó vẫn còn hai cục được kể là lớn nhất thế giới. Cục kim cương trên đã dâng cho Anh hoàng là
Edward VII.
Nhiều mgười khôn ngoan đã đi tìm sự khôn
ngoan trong thập giá của Chúa nhưng chẳng bao giờ tìm được vì họ còn thiếu điều
kiện “sine qua non”, đó là đức tin. Họ
chỉ nhìn thập giá dưới khía cạnh vật chất thì làm sao có thể tìm thấy được ý
nghĩa thiêng liêng của nó. Họ giống như một ông lão ở nước Ba tư, nghe lời
khuyên của một đạo sĩ đi tìm vàng. Ông
đã bán hết gia sản, đi khắp nơi để tìm, nhưng... công dã tràng. Ông buồn bực
nên đã tự tử. Một người nông dân đã mua
nông trại của lão và sau đã khám phá ra, đó là một mỏ kim cương lớn. Và trong đó người ta cũng tìm thấy hai hạt
kim cương lớn nhất thế giới của Nga hoàng và Anh hoàng.
III. TẠI SAO NGƯỜI TA YÊU THÁNH GIÁ ?
1. Ai khôn, ai dại ?
Trong đời sống hằng ngày, người nào cũng muốn
cho mình là khôn, ai cũng muốn cho mình là thầy của thiên hạ, mình là cái túi
khôn muôn đời, nhưng thử hỏi có mấy người khôn thật, có mấy người có con mắt tinh đời để nhìn sự vật cho đúng ? Người ta hay đánh giá sự vật theo cái vỏ bên
ngoài mà quên cái bản chất của nó nhiều khi “sù sì da cóc trong bọc trứng tiên”
bởi vì nó “xanh vỏ đỏ lòng” ai ngờ được.
Chỉ có những người chuyên môn và có con mắt tinh đời mới nhìn đúng sự
vật.
Truyện
: Ngọc Biện Hoà.
Đời chiến quốc bên Tàu, có người nước Sở tên
Biện Hoà tìm được ở núi Kim sơn một viên ngọc qúi đem dâng vua Lệ Vương, vua
trao cho thợ xem thử, thợ bảo là đá. Biện Hoà bị khép tội khi quân và bị chặt
một chân. Đời vua sau là Bảo Vương, Hoà cũng đem dâng như trước và lại bị chặt
thêm chân nữa. Tới đời Sở Văn Vương, Hòa định đem dâng, ngặt vì cụt hai chân
không đi được. Hòa ngồi khóc ba ngày, có người hỏi, Hòa đáp :”Không phải tôi
muốn dâng công mà chỉ vì không có kẻ nhìn ra ngọc qúi “. Sở văn Vương nghe được
liền sai người đập đá ra, quả thấy ngọc ở trong. Từ đó đặt là ngọc Biện Hòa.
(Hương liệu, Sàigòn, 1975, tr 196)
Biện Hòa là người có con mắt tinh anh, biết
nhìn ra giá trị của viên đá, bề ngoài xem ra chỉ là hòn đá, nhưng bên trong
thực sự đã có sẵn viên ngọc. Biện Hòa bị chặt hai chân chỉ vì không có ai nhìn
ra được viên ngọc ở trong thôi. Ở đời thiếu
gì những cảnh tượng như thế xẩy ra chung quanh chúng ta.
Trong đời sống thiêng liêng, số người như thế
lại càng nhiều. Nếu người ta chỉ nhìn mọi vật theo chiều hướng vật chất thì làm
sao người ta có thể tìm ra được cái ý nghĩa thiêng liêng cao qúi tàng ẩn trong
đó. Nếu người ta chỉ nhìn thấy cây thập giá với con mắt vật chất thì cây thập
giá ấy chẳng có nghĩa lý gì, mà còn làm
trò cười cho thiên hạ. Và những ai yêu mến cây thập giá thì đúng là NHỮNG
KẺ ĐIÊN, kẻ khùng, kẻ nông nổi, mê tín
dị đoan. Nhưng với con mắt đức tin,
người ta mới tìm ra sự khôn ngoan vô cùng đã chứa sẵn trong cây thập giá đó,
giống như Biện Hòa đã tìm ra ngọc qúi trong viên đá tầm thường đó.
2. Thằng Bờm khôn hay dại ?
Không ai trong chúng ta lại chưa nghe bài ca
dao về thằng Bờm ! Ai cũng cho thằng Bờm thuộc vào típ người khờ dại, nửa người
nửa ngợm nửa đười ươi. Đúng thế, chính tôi xưa nay vẫn hiểu như vậy vì ý nghĩa
của nó qúa rõ ràng : thằng Bờm chỉ có cái quạt mo thôi, thế mà phú ông lần lượt
đổi cho nó : ba bò chín trâu, ao sâu ca mè, một bè gỗ lim, đôi chim đồi mồi,
nhưng Bờm ta nhất định không đổi. Sau cùng phú ông đổi cho nắm xôi, thì Bờm
cười ưng thuận ngay !.
Chúng ta thấy diễn tiến câu chuyện thật là
chặt chẽ : phú ông thích cái quạt mo của thằng Bờm quá, nên không ngần ngại đổi
ngay cho nó ba bò chín trâu, một cái gia giản quá lớn lao đối với thằng
Bờm. Nhưng lạ thay, thằng Bờm không
thích, có lẽ to quá chăng ? Phú ông
liền hạ xuống ao sâu cá mè. Bờm cũng không chịu. Phú ông hạ xuống nữa, và sau
cùng, ông tưởng là thằng Bờm này khờ dại nên thử đổi cho nó nắm xôi xem sao.
Đúng tủ, thằng Bờm cười khoái trá, nhận lấy.
Mọi người thấy thái độ của thằng Bờm đúng là thái độ của một đứa khùng,
tiền của nhiều không đổi, lại đi đổi lấy nắm xôi. Khờ ơi là khờ !
Nhưng nếu câu chuyện thằng Bờm chỉ có thế, và
người ta thoả mãn ngay với câu kết : phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười để kết
luận rằng thằng Bờm là thằng khờ, thì thiết tưởng người ta đã hiểu câu chuyện
đó một cách quá đơn giản , ý nghĩa quá nông cạn. Riêng tôi, sau khi đã suy nghĩ về cách kết cấu của bài này, tôi
thấy bài ca dao Thằng Bờm hàm chứa cả một triết lý sâu sa về cuộc đời và một
nền đạo đức căn bản cho đời sống tu trì của chúng ta.
Trước tiên, ta thử hỏi : Tại sao phú ông lại
thích cái quạt mo của thằng Bờm đến thế ?
Có cái gì hấp dẫn mà ông đã bỏ ngay ra ba bò chín trâu để đổi lấy, trong
khi cái quạt mo chỉ là cái bẹ cau già cắt đi để làm quạt, một thứ quạt tầm
thường và rẻ tiền của những người dân quê nghèo khổ! Nếu không thì phú ông lại
chính là thằng khùng !
Sở dĩ phú ông đã làm
một cuộc trao đổi như thế là vì phú ông tuy là người giầu có, nhưng trong lòng
không bao giờ được thảnh thơi, thoải mái, đúng như người ta nói :
Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
Phú ông luôn bon chen, kèn cựa với người khác
để làm giầu và còn phải tìm cách để giữ của, vì thế, không lúc nào ông thấy
thảnh thơi. Lúc này ông thấy thằng Bờm phe phẩy cái quạt mo ra vẻ ung dung,
sung sướng làm cho phú ông phát thèm. Phú ông là người chỉ biết có tiền, có
của, không biết niềm vui sướng thảnh
thơi của thằng Bờm bởi đâu mà đến, ông tưởng rằng sự vô tư thảnh thơi của nó ở trong cái quạt nên ông mới đổi lấy để
hòng có được lấy những phút thảnh thơi trong đời.
Phú ông tưởng rằng bỏ ra một tài sản kếch sù
như thế để đổi lấy cái quạt mo thì ăn chắc rồi . Nhưng ngược lại với điều ông
suy tưởng : Bờm ta nhất định không đổi. Phú ông lại nghĩ : thằng này đúng là
khờ rồi, tại sao không đổi, ừ, ta hạ xuống xem sao, hạ xuống, hạ nữa, sau cùng,
mình đổi cho thằng khờ nắm xôi xem nó có đổi không ! Đến đây ta thấy thằng Bờm nó cười.
“Bờm cười”. Hai tiếng kết thúc bài thơ này
cần cho chúng ta suy nghĩ. Bờm cười có nghĩa gì ? Bờm ưng thuận hay Bờm từ chối
? Đến đây tôi cho rằng : thằng Bờm đã
từ chối. Cái cười của thằng Bờm hàm
chứa một chút khinh bỉ đối với phú ông. Nó cho rằng : ông tưởng tôi là thằng
khờ, nhưng tôi đâu phải là thằng khờ !
Ông đổi cho tôi ba bò chín trâu, tôi còn chả lấy, lấy chi nắm xôi cho nó
rẻ người ra. Sở dĩ tôi không muốn đổi
lấy cái tài sản to tát của ông là vì tôi không muốn trở thành người giầu có bon
chen như ông kẻo mất đi cái sự thanh thản của tâm hồn. Tôi không muốn tiền bạc của cải chi phối
tôi, vì người ta thường nói : “Hoàng kim hắc nhân tâm” hay “Đồng tiền đổi trắng
thay đen lòng người”. Tiền của đâu có
làm cho người ta hạnh phúc.
Anh chàng Bờm này khôn thật, anh đã thấy Chúa
Giêsu nói lên một sự thật phũ phàng là
của cải thường ám ảnh lòng trí con
người khiến họ khó bề siêu thoát :
Nơi con chôn giấu kho tàng,
Trí lòng con hẳn tấc gang không lìa.
(Mt 6,21)
3. Chúng ta khôn hay dại ?
Trong phạm vi siêu nhiên, không phải ai cũng
có thể trông thấy những thực tại giống nhau, mà mỗi người thấy nhiều hay ít, rõ
hay mờ, tùy ở mức độ Chúa cho biết, mà Chúa thường tỏ lộ cho kẻ khiêm nhường bé
mọn : “Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu các điều
ây cùng hạng người khôn ngoan thông thái, mà đã tỏ bầy tỏ cho người bé mọn”(Mt
11,25;Lc 10,21). Ai được Chúa cho biết những bí nhiệm Nước Trời, đó là người có
phúc :”Phần các con, mắt các con có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì
được nghe. Quả thật Thầy bảo các con : nhiều vị tiên tri, nhiều đấng công chính
đã ao ước đuợc thấy điều các con thấy, mà không được thấy, nghe điều các con
nghe, mà không được nghe”(Mt 13,16-17).
Chúng ta có phúc vì được hiểu những sự về
Nước Trời, trong khi những người khôn ngoan trần thế này không được hiểu. Chúng
ta đã đọc Phúc âm, ta còn nhớ : có một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu xem,
anh phải làm việc gì lành để được sống đời đời ? Chúa Giêsu đã không ngần ngại trả lời :
Nếu con muốn ở trọn lành,
hãy về bán hết gia phần của con.
Phát cho quả phụ cô nhi,
kho tàng thiên quốc con thì cầm tay.
(Mt 19,21)
Nghe lời khuyên này, chàng thanh niên tiu
nghỉu, anh lặng lẽ bỏ ra đi mà không bao giờ trở lại. Lời khuyên của Chúa khó
nghe vì nó không thích hợp với lối sống, với lối suy luận của con người xương
thịt, của những con người còn bị vật
chất chi phối quá nhiều. Nếu người ta lại phải nghe bài giảng Tám mối phúc thật
ở trên núi (x.Mt 5,3-11) thì người ta có thể chấp nhận được không ? Chắc người
ta sẽ cho là lời nói chói tai, không thể chấp nhận được. Nhưng chỉ những người
nào đuợc ơn hiểu thì mới có thể hiểu được.
Chúng ta đi tu, người ta nhìn người tu sĩ với
con mắt ngỡ ngàng, khó hiểu. Người ta thắc mắc : tại sao những người này lại đi
tu ? Tại sao họ lại bỏ cả mọi sự đời mà
chấp nhận một đời sống khắc khổ như vậy ?
Tại sao họ lại đi tu dòng Mến Thánh Giá, lý do nào thúc đẩy họ làm như
thế ? Phải chăng họ là những người khờ, NHỮNG NGƯỜI ĐIÊN, phải chăng đây là
hiện thân của những thằng Bờm trong
thời đại nguyên tử và phi thuyền này ? Họ còn đặt nhiều câu hỏi mà không có câu
trả lời, vì họ không có con mắt đức tin để hiểu được những thực tại siêu nhiên.
Chúng ta nhận mình là những thằng Bờm, nhưng là những thằng Bờm khôn ngoan, đó
là bỏ đi tất cả để được tất cả :”Kẻ nào muốn cứu lấy mạng sống mình, thì sẽ
mất, còn kẻ nào đành mất mạng sống mình
vì Ta, thì sẽ được sống” (Mt 16,25).
IV. CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
1.
Yêu mến Thánh giá Chúa.
Thánh Augustinô nói :”Yêu ai thì nên giống ngưới ấy”. Chúng ta yêu mến
Chúa Giêsu thì
chúng ta cũng phải trở nên giống Người, phải trở nên đồng hình đồng
dạng với Người. Chúa Giêsu đã được tiên
tri Isaia mô tả là một tên tôi tớ rốt hèn, chịu đau thương (x. Is chương 53).
Thánh Tông đồ dân ngoại lại mô tả :”Đức Giêsu Kitô vốn là Thiên Chúa mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Chúng ta phải bắt chước Chúa ở chỗ phải đóng
đinh xác thịt mình vào thánh giá Chúa để được nên giống như Người. Và muốn để
dễ nhớ đến Người, chúng ta đã đeo thánh giá Chúa ngay ở trước ngực. Chúng ta
đeo thánh giá không phải để trang hoàng nhưng để nhắc nhở chúng ta về Chúa Kitô
chịu đóng đinh.
Truyện : đeo thánh giá vàng.
Gia đình kia có cô con gái 18 cái xuân xanh
được cha mẹ hết sức nuông chiều nâng niu, vì là đứa con một hiếm hoi. Mặc dầu
nhà nghèo, hai ông bà cố gắng kiếm tiền nuôi sống và cung cấp cho con ăn mặc để
lên mày lên mặt với chị em. Cô đòi cha mẹ phải sắm cho cô một tượng thánh giá
bằng vàng đeo vào cổ để làm đồ trang sức cho hơp thời trang.
Vì được quá nuông chiều nên cô làm phách lối,
hơi bị trái ý mộtä tí là cô la hét, chửi bới không biết nể lời. Cổ cô đeo thánh
giá thật đấy nhưng không bao giơ cô nghĩ tới thánh giá để làm một vài việc hy
sinh hãm mình để theo gương Chúa.
Một hôm người cha nói với cô :”Con ơi, nhiều
ngày cha vác những bao than nặng nề trên vai, trèo lên những nhà cao năm, sáu
tầng, vai cha tê cứng, và cha tưởng nhở đến Chúa Giêsu cũng chịu khốn khổ trên
vai vì cây thánh giá quá nặng mà Người phải vác. Cha liền dâng lên cho Chúa những sự cực khổ của cha để xin cho
con cái cha được theo Chúa giữ đạo cho sốt sắng. Này con, có phải mang thánh giá vàng đeo vào cổ là đủ đâu ? Có phải đó là trọn lời Chúa đã khuyên :”Hãy
vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chăng” (Mt 16,24).
Đến đây, cô con gái mới sực tỉnh về thái độ
vô ý thức của mình và mới hiểu lời khuyên bảo của người cha.. Từ đấy cô đã sửa
đổi được cuộc sống, cô bán tượng thánh giá vàng đi, phân phát cho kẻ khó và chỉ
đeo tượng thánh giá thường thôi, không phải đeo để trang hoàng, nhưng đeo để
nhắc nhở cô luôn biết theo Chúa, vác thánh giá Chúa hằng ngày bằng cách chấp
nhận cuộc sống với bao hy sinh, bao đau khổ và nhẫn nhục chịu đựng mọi trái ý
hằng ngày, có ý kết hợp vào sự thương khó của Chúa trong việc cứu rỗi các linh
hồn.
Ngừời dân Việt nam luôn có đầu óc sùng kính
những gì đáng cho là sùng kính. Từ tên cha mẹ, ông bà cho đến một ông vua, thời
quân chủ, không bao giờ họ dám gọi tên thật. Họ lấy tên người con trưởng để gọi
thế tên cha, hay nói chại cái tên đi, ví dụ : nếu tên Cảnh thì gọi là Kiểng.
Nhiều ông đồ, vì tính gàn cứ dùng tên húy của vua, của bà con dòng họ vua, là
bị đạp vỏ chuối ngay. Có khi còn bị ăn cơm vắt phèn. Đó là cái tên gọi. Còn chữ viết , Các người theo đạo Khổng Mạnh
hay Phật giáo, ho qúi trọng đạo cho đến chữ viết cũng qúi. Đi giữa đường, gặp tờ giấy chữ nho, hay một
trang kinh sách chữ nho, họ liền cúi xuống, kính cẩn nhặt bỏ túi đem về đốt. Lòng
sùng kính chân thật của họ được biểu lộ dưới nhiều hình thức. Tất cả những hình
thức ngay thẳng , chân thành đều đáng cho ta lưu ý.
Trở lại câu hỏi : Thánh giá dùng để làm gì ?
Có phải dùng để trang sức không ?
Ông bà cha mẹ ta, một khi qua đời, để lại cho
ta một vật gì qúi báu nhất ? Tấm hình,
được để trên bàn thờ hương khói hằng ngày, dù nó chỉ là miếng giấy không hơn
không kém. Nhưng trong miếng giấy ấy có cái gì linh thiêng nhất ? Đó là hình
dáng ông bà cha mẹ, đôi mắt dịu hiền, nụ cười tươi tắn, bàn tay mềm mại, nhưng
đã nuôi nấng, dạy dỗ, gầy dựng cho ta thành người.
Còn cây thánh giá, tại sao không đeo chỗ
khác, như trong cổ tay chẳng hạn, mà lại đeo trên cổ trên ngực ? Để làm gì
? Để đêm ngày kính nhớ Chúa Giêsu đã hy
sinh tất cả cho ta, đem lại cho linh hồn ta một đời sống sung mãn. Trên cây
thánh giá có hình ai ? Ta nhìn Đấng bị đónh đinh trên thánh giá lòng ta lo nghĩ
ra sao ? Ta đeo tượng thánh giá trước ngực để luôn ghi tạc vào lòng, vào trí
não bổn phận ta đối với Chúa, gắng ở làm sao cho Người được vui lòng, để đền
đáp lại một phần nào các ơn thiêng
liêng Người đã ban cho ta hưởng nhờ.
(Khắc Minh, báo Việt tiến số , tr 30)
2. Vác
thánh giá Chúa.
Yêu ai mà chỉ thấy thương mến không, chưa đủ. Đặc tính của tình yêu là
hy sinh, là cho đi.
Thiếu yếu tố hy sinh thì tình yêu chưa thể được coi như thứ tình yêu thật,
tình yêu không hy sinh chỉ là tình yêu vị kỷ chứ chưa phải là vị tha. Muốn tỏ
lòng yêu Chúa, ta phải theo Chúa, vác đỡ thánh giá cho Người. Ông Simong không
tự ý mình vác thánh giá, người ta cưỡng bách ông phải vác đỡ Chúa. Thế mà giá
ông ta biết rằng hàng mấy ngàn năm và muôn muôn ức ức người ghen với ông ta mấy
phút nhọc mệt ấy. Ôi, họ cũng vậy, giá họ có thể được giúp Chúa đẫm máu.
Khi nghe thuật lại lúc Chúa Giêsu chịu nạn,
vua Clovis, một vua ngoại giáo, đập vào gươm than rằng :”Ôi Đấng Kitô trơ trọi.
Ôi, tại sao lúc đó ta và bọn lính của ta không ở đấy” ! Lời than này có nghĩa
là : Phải, nếu tôi ở đấy, tôi sẽ không để ông ta chịu đau đớn như thế.
Ngày xưa Chúa đã vác thánh giá lên núi Sọ,
con đường lên núi Sọ dài có 700 mét và Chúa Giêsu chỉ đi được 1321 bước (theo
kinh nguyện của dòng Ba Đa minh), Chúa đã vác thánh giá, Người đã chịu chết
trên thánh giá. Nhưng ngày nay, Người vẫn còn tiếp tục vác thánh giá mà những
con cái của Người đè lên vai Người bởi những tội lỗi người ta phạm hằng ngày. Chúng
ta hãy cố gắng thi hành lời Chúa khuyên từng người chúng ta :
Xả thân nếu muôn theo Thầy,
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
(Mt 16,24)
Theo Chúa là phải vác thánh giá. Thánh giá
nói lên sự từ bỏ mình. Chúa Giêsu còn nói mạnh thêm :”Ai không vác thập giá
mình mà theo Ta, kẻ đó không xứng đáng là môn đệ Ta” (Lc 14,27).
Ngày nay được dùng theo ý nghĩa phổ thông, từ
ngữ “THẬP GIÁ” đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên ngữ của nó. Một ít khổ đau,
bất hạnh, thử thách đều có thể là một thánh giá. Khi nói rằng ai không vác thập
giá thì không xứng đáng làm môn đệ Người, Chúa Giêsu muốn chỉ đến một hành động
quyết liệt dứt khoát hơn. Hẳn Người đang nghĩ đến các hình ảnh khủng khiếp của
những hình khổ lúc bấy giờ. Người La mã thường dùng thập giá như một khổ
hình. Người Palestine đã quá quen thuộc
từng đoàn người vác thập giá của mình đến nơi họ sẽ bị treo lên. Thập giá có
nghĩa là người vác nó đã bị kết án vào một cái chết nhục nhã. Vác sự nhục nhã đi qua giữa đô thị là một
lời cảnh cáo cho dân chúng.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên những
gì mà bản tính nhân loại của chúng ta sẽ gặp phải. Về sau, hình ảnh này đã
mang lấy ý nghĩa cao đẹp khi trở thành
biểu trưng của sự Cứu rỗi. Người Kitô
hữu, nhất là người tu sĩ, một khi đã chọn Chúa, phải từ bỏ mình. Phải đi qua
cuộc sống như một người đặc biệt, làm đối tượng cho sự nhạo báng, thù ghét của
người trần gian. Chúa Giêsu muốn làm nổi bật tương phản giữa người Kitô hữu và
trần gian, người Kitô hữu là người bị kết án.
(Pascal Foresi, Con đường thăng tiến, 1974,
tr 17-18)
3. Thái độ trước đau khổ.
Vác thánh giá là một hình khổ. Hình khổ dĩ
nhiên sẽ tạo nên đau khổ. Đau khổ lại
man vàn trong đời sống hằng ngày. Thi
hào DANTE đã gọi là “Terra lacrymosa” (qủa đất đẫm lệ). Thánh vịnh lại gọi quả đất là thung lũng
nước mắt (Tv 79,83). Sách Khôn ngon nói
:”Như tất cả mọi người trên trần, tôi đã cất tiếng kêu đầu tiên pha hoà trong
nước mắt” (Kn 7,3). Ý tưởng sách Khôn ngoan rất phù hơp với câu tục ngữ Việt
nam :”Cất tiếng khóc chào đời”. Người
ta không chào đời bằng tiếng cười mà lại bằng tiếng khóc. Thi sĩ Nguyễn gia Thiều đã nói :
Thảo nào khi mới chôn nhau,
đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
(Cung oán ngâm khúc )
Thi sĩ Cao bá Quát cũng đồng quan điểm như trên :
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe.
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Trần gian đầy đau khổ, đó là một sự kiện, một
thực tại phũ phàng mà mọi người phải chấp nhận. Nhưng xét cho kỹ, các đau khổ
ấy cũng có cứu cánh của nó chứ không phải phi lý.
Khổng giáo chuẩn bị Kitô giáo bằng cái nhìn
sâu sắc về đau khổ, xem như phương thế hữu hiệu để hoàn bị hóa con người. Đức
Khổng Thử nói :”Khi Trời muốn trao cho ai một sứ mạng cao cả, trước hết Ngài đổ
cay đắng vào tâm hồn họ, làm gân cốt họ ra suy nhược, buộc cơ thể họ phải nếm
mùi đói khát, đưa họ đến chỗ tận cùng của đau khổ, cản trở và lật đổ những gì
họ xây đắp. Có như vậy mới làm sống lại trong con người những tâm tình tốt
đẹp, củng cố đức kiên nhẫn và mang lại
cho con người những gì còn thiều sót”.
Thì luân lý Tin Mừng cũng tuyên bố :”Nếu hạt
giống không chết đi, ngươi không thể thấy thân mình nảy nở trong một đời Kitô
hữu hoàn toàn”. Vì rằng, sự đổi mới của Chúa Giêsu không làm đảolộn đời sống
con người., không hủy bỏ đau khổ và sự chết, nhưng mặc cho đau khổ cái công
dụng giúp con người và vũ trụ tân tiến.
Nếu ta theo ý định của Chúa, nhận sự đau khổ và sự chết trong đức vâng
lời. và vì lòng mến Chúa và thương yêu anh em, thì đau khổ và sự chết hóa nên
con đường độc nhất đưa đến sự sống lại vinh hiển, vĩnh viễn cho ta và cho cả
vạn vật.
(Nữ tu Thiên Phước, báo Nhà Chúa số 6, tr 41)
Khó khăn, đau đớn xảy đến cho con người như
cơm bữa :” Đêm ngày nước mắt đã trở thành bánh con ăn” (Tv 42,4). Như vậy, đau
khổ xẩy đến không quan hệ, mà chỉ quan hệ ở chỗ là thái độ của chúng ta thế nào
trước những đau khổ ấy ?
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi
hay có hại cho ta. ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi ? Nếu hạt cát rơi vào mắt
ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó chỉ làm ta đau khổ. Nhưng nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con
sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó
thành hạt ngọc. Vì thế, người ta thường
tìm sò hến để kiếm ngọc.
Người ta kể sự cấu tạo ngọc trai như sau :
khi một vật lạ, chẳng hạn như hạt cát, rơi vào cơ thể tức phần ruột trong vỏ
con trai, vào ngay giữa lớp nhuyễn mạc
của phần vỏ ngoài con trai. Sau đó nhuyễn mạc sẽ cong lên và tạo thành một cái
túi, hạt cát lọt vào trong túi ấy, việc nhuyễn mạc cong lên này cốt chỉ để ngăn
chặn sự cọ sát có thể làm trai đau đớn. Dần dần nhuyễn mạc nhả vào trong túi
càng ngày càng nhiều để tránh sự đau đớn, nhuyễn mạc bao quanh hạt cát và vô
tình tạo thành ngọc cho loài người. Việc cấu tạo thành ngọc trai có thể xẩy ra từ ba, bốn, năm năm là viên ngọc đã tròn và
sáng. Ngọc để lâu trong con trai càng
lâu càng chắc và đẹp. Tuy nhiên trong
khoảng thời gian đó một dòng nước có mang những vi sinh vật làm hại trai, có thể đến với những con trai có mang ngọc,
lúc ấy viên ngọc sẽ chết và không còn giá trị.
Xem như thế, chúng ta thấy : đau khổ có thể
trở thành dịp tốt cho ta, nếu ta biết lợi dụng nó. Đau khổ trở nên tốt hay xấu
là do thái độ của ta đối với nó. Vậy ta có thái độ nào ?
· Tìm cách đẩy lui nó với
thái độ bất mãn khó chịu.
· Đón nhận vui vẻ và biến nó
trở thành những hạt ngọc sáng chói. Chính những đau khổ
ấy sẽ trở nên hòn ngọc qúi giá là những công phúc mà chúng ta bỏ vào
kho trên trời.
Chúng ta đã theo Chúa, vác thánh giá với
Chúa, nhưng chúng ta có thể trung thành với Người không, hay giữa đường đứt
gánh ? Chúng ta có bị liệt vào những hạng thiếu nữ tân thời, thay chồng như
thay áo, những người chỉ chú trọng vào những thú vui đê hèn hay chỉ tìm khai
thác tiền của, đến khi nhạt nhẽo thì bỏ, đến nỗi thi sĩ Thế Lữ phải than :
Tình người thay đổi,
Thay đổi tình người,
Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Chắc chúng ta không muốn bị liệt vào những
hạng gái xấu nết này. Chị em đã chọn Chúa Giêsu làm bạn trăm năm của mình thì
quyết trung thành với Người, dù đắng cay trăm phần cũng chịu :
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
đói no thiếp chịu, lạnh lùng
thiếp cam.
(ca dao)
Chúng ta hãy dùng cây thánh giá để được sức
mạnh can đảm mà chịu đựng, mà chấp nhận cảnh sống hiện tại với bao hy sinh đau
khổ. Hãy qúi mến thánh giá như gương của tướng Carreau. Người ta kể rằng :
tướng Carreau bị tử thương. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm cây
thánh giá mà vợ ông đã đeo vào cổ ông, rồi nói với các bạn :”Các bạn hãy can
đảm lên. Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của các bạn, đừng quên rằng cuộc đời
là vắn vỏi, và ta thật vô phúc nếu sau khi chết, ta thấy rằng ta không hiểu
biết, thờ lạy và bênh vực Chúa Kitô”.
(Nguyễn hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969,
tr 139)
KẾT LUẬN
Chị em hãnh diện vì mình được mang tên là
dòng Mến Thánh giá. Phải mến Thánh giá thực sự. Muốn không chưa đủ, phải yêu
nữa. Vì nếu chỉ mến thôi, người ta còn ở xa, “kính nhi viễn chi”, người ta suy
phục nhưng có thể chưa hy sinh cho người mình mến. Nhưng nếu yêu ai thì tình
yêu ấy có thể thúc đẩy nguời ta hy sinh cho người mình yêu :”Không có tình yêu
nào cao trọng cho bằng chết vì người mình yêu”. Dòng Mến Thánh Giá ! Dòng mang tên thập đẹp mà nếu trong đời sống
hằng ngày mà không thực yêu thánh giá thì phải gọi là “DÒNG KHIẾP THÁNH GIÁ”,
hay còn tệ hơn nữa là “DÒNG GHÉT THÁNH GIÁ”.
Chị em Mến Thánh giá thì phải luôn nhắc tới
Thánh giá. Mỗi khi làm dấu Thánh giá chị em phải hiểu ý nghĩa tượng trưng của
nó :
- NHÂN DANH CHA : tay để trên trán, dạy ta phải hiểu rằng Chúa
đã dùng cây thánh giá mà chuộc tộâi cho nhân loại.
- VÀ CON : tay để ở ngực, ở trái tim, dạy ta phải yêu mến thánh
giá Chúa, phải ôm lấy thánh giá Chúa vào lòng, phải yêu mến sự hy sinh hãm mình
: per crucem ad lucem.
- VÀ THÁNH THẦN : tay để ở hai vai, dạy ta phải vác đỡ thánh giá
Chúa, hai vai thay nhau mà vác.
- AMEN : chắp hai tay, cúi đầu xuống, dạy ta hãy tôn kính thánh
giá Chúa. Hoặc tay xếp hình thánh giá để vào miệng, dạy ta hãy tôn kính và dùng
môi miệng mình để cao rao Chúa Kitô chịu đóng đinh như thánh Phaolô đã tuyên
xưng :”Praedicamus Jesum cruxifixum” (1Cr 1,23) : Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô
chịu đóng đinh.
Hôm nay lễ kính Thánh giá Chúa, quan thầy của dòng chị em, chúng ta hãy
cầu nguyện cho nhau để thực sự có lòng yêu mến thánh giá Chúa, tìm thấy sự khôn
ngoan trong thánh giá, sự khôn ngoan đã bị che khuất mắt những người thông thái
thế gian, để chúng ta không còn mặc cảm mình là những kẻ khờ, người điên. Cho
dù bị gọi là người điên trước mặt người ta nhưng trước mặt Chúa là những người
khôn ngoan. Hãy suy niệm lời thánh Phaolô để yên ủi mình :”Nếu ta đã chết với
Đức Kitô, ta tin tưởng cũng sẽ được cùng sống với Người” (Rm 6,8).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Lễ kính Thánh Giá 2004