LỄ MÂN CÔI
Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc
1,26-38
HIỆU LỰC CỦA KINH MÂN
CÔI
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,26-38
(26) Bà Ê-li-sa-bét có thai
được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai Sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê,
gọi là Na-da-rét, (27) gặp một Trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se,
thuộc nhà Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. (28) Sứ thần vào nhà Trinh nữ và
nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà”. (29) Nghe lời
ấy, Bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. (30) Sứ thần liền
nói: “Thưa Bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì Bà đẹp lòng Thiên Chúa. (31) Và này đây
Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. (32) Người sẽ nên
cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho
Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (33) Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến
muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. (34) Bà Ma-ri-a thưa với
Sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
(35) Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao
sẽ rợp bóng trên Bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa”. (36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi,
mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi,
mà nay đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là
không thể làm được”. (38) Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của
Chúa. xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”. Rồi Sứ thần từ biệt ra đi.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en
được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a giúp chúng ta nhận biết
tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ
loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho
loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe
Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái
độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này
3. CHÚ THÍCH:
- C 26-27: + Bà Ê-li-sa-bét
có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã
được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế
trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một
con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét
đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5
tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục
được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a. + Gáp-ri-en: Là một
trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên
trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý
nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên
Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17)
và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16). + Trinh nữ:
hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết
của Đức Ma-ri-a đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần:
“Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo
lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh
thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14). + đã đính hôn: khi
đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái
sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái
thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô
dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này
thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su chính là Đấng Cứu Thế, để ứng nghiệm lời
các Ngôn sứ đã báo trước như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của
vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12) ; Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít
(x. mk 5,1). + Ma-ri-a: hay mi-ry-am là tên gọi của nhiều thiếu
nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một
biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a
(x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát
(x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Ma-ri-a thân mẫu Đức
Giê-su (x. Ga 19,25).
- C 28-29: + “mừng
vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái,
nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người
được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “đầy ân sủng”: một tước hiệu
dành riêng cho Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ
Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được
Chúa luôn ở cùng. + “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối
rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn
khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
- C 30-33: + Này đây
Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su: Sứ thần giải
thích cho Ma-ri-a biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giê-su. Giê-su
nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11). +
“Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua
dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ
lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi.
- C 34: + so sánh
thắc mắc của Ma-ri-a với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai
cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của
Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm,
không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ
ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Ma-ri-a
thì biểu lộ lòng tin: Ma-ri-a muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin
vâng. do đó, Ma-ri-a đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp
lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Ma-ri-a là người
“diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).+
“Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết”
theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc
mắc của Ma-ri-a ở đây không chứng minh Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình
đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc
mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Ma-ri-a
mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se
tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?
- C 35: + Sứ thần
giải thích cho Ma-ri-a hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ
Đấng Thiên Sai, nên Ma-ri-a sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh
Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ
thai và sinh hạ (x. Is 7,14). + “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên
Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất
hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức
Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che
phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ
của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn
chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là
con dân của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”:
“Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được
hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
- C 36-37: + kìa Bà Ê-li-sa-bét,
người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai:
Để cho Ma-ri-a thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo
cho Ma-ri-a biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế
mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu
tháng rồi.
- C 38: + “Vâng, tôi
đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a đã
biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên
Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu
này, Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực
vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho
Trinh nữ Ma-ri-a thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi
Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”,
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có
một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là
Thiên Chúa và người phàm.
4. CÂU HỎI: 1-Gio-an Tẩy
Giả hơn Đức Giê-su bao nhiêu tuổi? 2-Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần
là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào? 3-Câu nói nào của Đức Ma-ri-a
cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng
trinh trong việc Đức Ma-ri-a thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giê-su? 4-Việc kết hôn
giữa thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là
vợ chồng giả để che mắt người đời? 5- Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se
“thuộc nhà Đa-vít”? 6-Hãy kể ra một số tên gọi Ma-ri-a trong Tin Mừng kèm theo
tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì? 7-Khi chào kèm tước
hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa
ban cho Đức Ma-ri-a? 8-Tên gọi Giê-su mà Sứ thần ra lệnh cho Ma-ri-a đặt cho
con trẻ mang ý nghĩa thế nào? 8-Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài
nhi Giê-su nghĩa là gì? 9-Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18)
và thắc mắc của Ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a
và Đức Ma-ri-a đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc? 10-Khi nói “quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì? 11-Mầu nhiệm Ngôi
Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Bấy giờ Bà Ma-ri-a
nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao
điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
2. CÂU CHUYỆN: Đức tin của
Phun-tơn Ao-dơ-lơ (
vào một buổi chiều đông
lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm,
đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi
qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có
một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức
Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a,
có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục
bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của
con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều
khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều
gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có
đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa bằng một
cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
3. SUY NIỆM:
- Thiên Chúa đã ban cho
loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giê-su. Nhưng bên cạnh Đức
Giê-su, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích
cực cộng tác với Đức Giê-su trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Ma-ri-a.
Thực vậy, Mẹ Ma-ri-a luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó
như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giê-su tại tiệc cưới
thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giê-su trăn trối làm Mẹ của
Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá
(x Ga 19,26-27); Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội
Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giê-su lên trời
(x Cv 1,14).
- Trong lịch sử Hội Thánh,
mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta
lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Ma-ri-a. Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã
được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng
liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp
đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh. Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng
nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm
lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16. Ngày nay, Đức Ma-ri-a
trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới
vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa
Giê-su và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giê-su
đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma
(Bồ Đào Nha), La Vang (Việt
- Thực ra, việc biến đổi
lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và
việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật...trong
đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng
giới hạn của chúng ta. Nhưng điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không
khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc
1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả thì các tín hữu chúng
ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a để sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su (x Ga
15,5). Rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và
đức Mến noi gương Mẹ khi xưa. Chắc chắn nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ của Mẹ Ma-ri-a,
chúng ta cũng sẽ làm được những việc lạ lùng vượt quá khả năng của mình. Vì bấy
giờ chúng ta làm với ơn Chúa giúp như thánh Phao-lô viết: ”Tôi cảm thấy vui
sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức
ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 cr 12,10).
4. THẢO LUẬN: 1-Qua câu
chuyện trên, ta thấy Thánh Mẫu Ma-ri-a có vai trò nào trong việc ăn năn trở lại
của ông Phun-tơn? 2-Ngày nay các tín hữu chúng ta cần cậy nhờ vào sự phù trợ
đắc lực của Mẹ Ma-ri-a trong hành trình sống đức Tin thế nào?
5. NGUYỆN CẦU:
lẠy
Chúa. Mỗi lần
gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời
trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ,
tin đồng cốt... để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy
vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Ma-ri-a, như Mẹ đã cầu bầu cho
đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe
lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giê-su, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn
xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com