Ba Bài Suy Niệm Về Ngày Thứ Bảy Tuần
Thánh Của hồng y Joseph Ratzinger
Trong mùa Phụng Vụ của Hội Thánh Công giáo, không có một ngày nào
tĩnh lặng, ảm đạm, trống trải, nhuốm mầu hoang mang và ngao ngán bằng ngày Thứ
Bẩy Tuần Thánh, cho dù tiết trời độ này chỉ mới vừa vào xuân. Thế nhưng, vị
đương kim Giáo Hoàng của chúng ta, Đức Bênêđictô XVI—từ khi còn là một nhà thần
học—đã cống hiến cho chúng ta những suy nghĩ tuyệt vời phản ảnh não trạng của
những con người thời đại, vốn ảnh hưởng và chi phối rất đậm đà ngay cả trái tim
của những tín hữu trung kiên nhất, chính giữa lòng Hội Thánh.
Phải, nhà thần học lỗi lạc ấy, Joseph Ratzinger, đã viết ba bài suy
niệm về ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, suy tư về sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế
giới hôm nay. Đã bốn mươi năm qua, những dòng suy tư này, theo thiển ý, vẫn còn
rất đúng. Chẳng thế mà, trong một buổi hỏi đáp với giới trẻ, Đức Giáo Hoàng
(ĐGH) Bênêđictô XVI đã lập lại một trong những tư tưởng chính ngài đề cập đến
trong ba bài suy niệm ấy: “Thách đố lớn của thời đại chúng ta là trào lưu tục
hóa. Xã hội đang tạo ra cái ảo tưởng là Thiên Chúa không hiện hữu, hoặc giả nếu
có, thì Ngài cũng chỉ luẩn quẩn trong cái vòng giới hạn riêng tư của mỗi người.
Là Kitô hữu, chúng ta không thể nào chấp nhận thái độ này. Hơn bao giờ hết,
Thiên Chúa cần phải hiện diện một cách mới mẻ trong cuộc đời chúng ta” (CWNews.com,
ngày 7 tháng 4 năm 2006). Và mới đây nhất, Ngài tuyên bố rõ rằng: “Chỉ khi nào
ta thưa ‘vâng’ với Chúa thì đời ta mới thật sự có ý nghĩa” (VIS, 5 tháng 4,
2009).
Trong tâm tình ấy, xin cống hiến bạn đọc bản phiên dịch ba bài suy
niệm Thứ Bẩy Tuần Thánh.
Lời dẫn nhập của Lucio Brunelli
“Thứ Bẩy Tuần Thánh: ngày Thiên Chúa được mai táng; điều này chẳng
áp dụng thật chính xác cho thời đại chúng ta hôm nay hay sao? Thế kỷ ta đang
sống chẳng phải là đã khai mào cho một ngày thứ Bẩy Tuần Thánh, ngày Thiên Chúa
vắng mặt đó sao? Đây là điều nhà thần học Joseph Ratzinger đã nêu lên trong bài
suy niệm Phục Sinh năm 1969 trước khi ĐGH Phaolô VI đặt ngài làm Hồng Y, và
trước khi ĐGH Gioan Phaolô II triệu ngài về Roma nắm chức vụ Tổng Trưởng Bộ Tín
Lý. Ngài có một nhận định khá bi thảm về thời đại chúng ta. Nhưng đó cũng lại
là một nhận định rất sáng suốt về nỗi hoang mang như đang phủ tràn lương tâm
của người Kitô hữu hôm nay. “Hội Thánh, niềm tin, chẳng giống như chiếc thuyền
mong manh sắp đắm chìm vì không cưỡng nổi những đợt sóng cả và những trận cuồng
phong dập vùi, chính trong cái giờ khắc mà Thiên Chúa tưởng như đang vắng mặt
đó sao?”
Nhiều năm trước đây, Đức Ông Luigi Giussani nhắc lại sự kiện ĐGH
Phaolô VI bắt đầu phát động phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng (HTGP), vào
những năm cuối triều giáo hoàng của ngài, lý do là chính ngài và phong trào đều
có cùng một nhận định về thảm trạng của Hội Thánh. Ngày 8 tháng 9 năm 1977,
ngài nói với Jean Guitton rằng: “Hiện thời Hội Thánh như đang chìm lún vào một
cơn khốn quẫn sâu xa, và vấn nạn lại chính là niềm tin. Tôi thấy như phải lập
lại câu nói mang đầy nét u ám tối tăm của Chúa Giêsu được ghi lại trong Phúc Âm
Luca: “Khi Con Người đến, liệu Ngài còn có thể tìm thấy niềm tin trên mặt đất
này chăng?” (…). Rất có thể cái lối suy nghĩ phản Công giáo này mai mốt đây sẽ
còn mạnh mẽ hơn nữa trong giới Công giáo. Thế nhưng lối suy nghĩ đó không bao
giờ có thể đại diện cho suy tư của Hội Thánh được. Dù bé bỏng đến đâu, đoàn
chiên nhỏ vẫn cần phải tồn tại.” Giussani kết luận thế này về nhận xét của ĐGH
Phaolô VI: “Đây là tóm tắt suy tư của ĐGH về hiện tình và định mệnh của Hội
Thánh. Đó chính là lý do ngài phát động phong trào HTGP.” Quả thực, khi ĐGH
băng hà, niềm hy vọng của Giussani còn lại gì? “Có một người tiếp tục cảm nhận
được cái thảm trạng đang bủa vây Hội Thánh. Nhân vật đó cảm nhận rằng phương
dược duy nhất có thể chữa trị cho tình trạng này, chính là trở về với niềm tin
vào đấng siêu nhiên như là yếu tố quyết định cho cuộc sống của Hội Thánh: đó là
cuộc trở về với tính chân truyền của Truyền Thống” (xem Luigi Giussani, Un
avvernimento di vita cioé una storia, II Sabato, 1993, từ trang 72).
Trong lòng Hội Thánh cũng thấy chớm nở một cảm nhận về sự gần gũi
mang tính nhân loại khi ta khám phá ra nơi một ai khác cùng một nhận định về
thời khắc lịch sử ta đang sống. Việc này xẩy đến khi chia sẻ những điều khơi gợi
niềm đau đớn và những điều làm vươn lên mầm hy vọng. Đọc lại ba bài suy niệm
của Ratzinger về Thứ Bẩy Tuần Thánh, ta sẽ lại tìm thấy cùng một nhận định về
hiện trạng của niềm tin, và hôm nay hơn bao giờ hết, nó trở thành một cái gì
rất hợp thời. Niềm tin phải bao quát cả tình trạng choáng váng của con người,
nỗi hư vô đang gậm mòn trong chúng ta và qua chúng ta. Lúc nào cũng vẫn thế,
nhưng càng đặc biệt áp dụng đúng cho ngày hôm nay. “Cô có biết sự vắng mặt nào
lại mãnh liệt hơn sự có mặt không?” Đó là câu Bác sĩ Schweitzer hỏi cô y tá
trong vở kịch của Gilbert Cesbron: ‘Nửa Đêm Rồi, Bác sĩ Schweitzer ơi’ (xem
Luigi Giussani, At the Origin of the Christian Claim).
Ta sẽ đọc thấy trong bài suy niệm II: “Một nỗi ưu tư chợt đến, một
thứ ưu tư chính hiệu vừa khai sinh trong cõi sâu của niềm cô đơn; không thể
dùng lý trí mà xua tan nó được; chỉ sự có mặt của một ai đó hằng thương yêu ta
mới trị được nó mà thôi.” Ta chỉ có thể nài xin và nhận ra sự có mặt này khi nó
bừng sáng trước đôi mắt và trái tim ta. Khi nó được tỏ lộ như là những biến cố
của ân sủng, nghĩa là, “của sự thánh thiện chân thực, ở đây và bây giờ, trên
mặt đất này” (Lumen Gentium 48), thì nỗi kinh ngạc của con người mới được đánh
động và niềm hoài mong của con người mới được no thỏa. Và rồi nhà thần học lừng
danh Ratzinger đã kết luận bằng một lời kinh mộc mạc: “Xin ban cho chúng con
một niềm tin khiêm tốn đơn sơ.”
Bài I: ƯU TƯ VỀ MỘT SỰ VẮNG MẶT
Càng ngày người ta càng nhấn mạnh rằng hôm nay Thiên Chúa đã chết
rồi. Lần đầu tiên người ta nói thế, trong tác phẩm của Jean Paul, đó thật là
một giấc mộng hãi hùng: Giêsu, kẻ đã chết, công bố với những người đã chết, từ
trên thượng tầng thế giới rằng, khi du hành sang qua bên kia thế giới, ông
chẳng thấy gì cả, không thiên đàng, không Thượng Đế từ nhân, chỉ có hư không
biền biệt, và niềm im lặng của cõi hư vô trống rỗng. Đó vẫn còn là giấc mộng
rùng rợn, bị xô đẩy sang một bên, tan biến dần khi trở giấc, đúng theo kiểu của
mộng mơ, cho dù nỗi ưu tư nó mang đến sẽ chẳng bao giờ biến tan được, bởi vì lúc
nào nó cũng nằm chờ đợi, đầy vẻ nham hiểm, ở sâu trong đáy lòng.
Một thế kỷ sau, trong tác phẩm của Nietzsche, điều đó lại trở thành
một lối trịnh trọng đến chết người, được diễn đạt bằng một tiếng kêu, chất đầy
kinh hãi: “Thượng Đế đã chết! Thượng Đế còn tiếp tục chết! Chính chúng ta đã
giết Ngài!” Năm mươi năm sau, người ta luận bàn về điều này một cách phóng
khoáng theo kiểu hàn lâm, và rồi người ta chuẩn bị cho một thứ “thần học đàng
sau cái chết của Thượng Đế,” trong khi đưa mắt dáo dác dõi tìm nẻo đường đi
tới. Người ta khích lệ nhau chuẩn bị cho việc thế chỗ cho Thượng Đế. Mầu nhiệm
kinh hoàng của ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, vực thẳm im lặng của nó, chính ngày hôm
nay, đã thủ đắc được một thực tại tan nát. Bởi lẽ, hôm nay là Thứ Bẩy Tuần
Thánh: ngày Thiên Chúa ẩn mình, ngày của cái nghịch lý chưa từng có mà ta đọc
được trong Kinh Tin Kính với những lời như: “xuống ngục tổ tông,” đi sâu vào
lòng mầu nhiệm sự chết. Trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ta còn nhìn thấy hình
hài kẻ bị đóng đinh. Nhưng sang đến ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, hoàn toàn trống
vắng, tảng đá che mồ đang phủ lấp người đã chết, tất cả đã chấm hết, niềm tin
dường như đã dứt khoát bị lột mặt nạ trơ ra thành một thứ cuồng tín. Chẳng có
vị Thiên Chúa nào cứu nổi ông Giêsu này dù với tư cách là Con Thiên Chúa. Chẳng
còn phải lo lắng gì nữa: kẻ thận trọng đã có lúc do dự, đã băn khoăn tự hỏi xem
liệu sự việc có thể khác đi được chăng, hay có thể xẩy ra đúng y như mình tưởng
không. Thứ Bẩy Tuần Thánh: ngày Thiên Chúa được mai táng; đó không phải là ngày
ta đang sống đây sao? Thế kỷ này chẳng phải đã đánh dấu sự khởi đầu của một
ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh dài dằng dặc, ngày mà Thiên Chúa vắng mặt, và khi ngay
cả tâm hồn các môn đệ cũng đắm chìm trong một hố thẳm cóng lạnh, càng ngày như
càng khoét sâu thêm, để rồi khi trở về nhà, lòng các ông trĩu nặng niềm xấu hổ
và ưu tư, tinh thần rã rời, trống rỗng và tuyệt vọng, lê bước trên đường về
Emmaus, thật không ngờ kẻ mà mình tin rằng đã chết, nay lại đang hiện diện giữa
các ông? “Thiên Chúa đã chết, và chúng ta đã giết Ngài”: có bao giờ ta ý thức
rằng câu nói này đã được lấy ra, từng chữ một, từ trong truyền thống Kitô giáo,
và trong khi đi đàng thánh giá, chúng ta cũng thường lặp lại câu nói ấy mà
không hề nhận thức được hết cái sức nặng khủng khiếp của điều ta thốt lên? Ta
đã giết Ngài, khi giam hãm Ngài trong cái vỏ rệu rã của lối nghĩ suy cũ kỹ sáo
mòn, khi đầy ải Ngài vào một cõi hình thức xót thương rỗng tuếch, khiến Ngài bị
mất hút trong cái vòng tròn của những lời lẽ đạo đức, hoặc của những thứ của
cải cổ lỗ. Ta đã giết Ngài khi lối sống hàm hồ của ta buông phủ bức màn tăm tối
che lấp đi hình ảnh của Ngài. Quả vậy, còn điều gì làm cho Thiên Chúa trở thành
vấn đề trong thế giới hôm nay ngoài chính niềm tin và tình yêu của người tín
hữu, vốn tự nó đã chất chứa đủ mọi thứ vấn đề?
Sự khuất bóng Thiên Chúa ngày hôm nay, trong thế kỷ này, đang dần
trở thành một ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh dài dằng dặc. Sự khuất vắng này đang lên
tiếng gọi mời lương tâm chúng ta. Nhưng dù sao chăng nữa, điều đó cũng an ủi ta
phần nào. Cái chết của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô cùng một lúc biểu lộ tình
Ngài triệt để liên đới với ta. Cùng một lúc, cái mầu nhiệm tăm tối nhất của đức
tin lại cũng chính là dấu chỉ sáng chói nhất của một niềm hy vọng vô tận. Còn
hơn thế nữa, chỉ qua cái thất bại của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chỉ qua niềm
thinh lặng của nỗi chết trong ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh mà các môn đệ mới mở trí
ra để thấu hiểu được chân tính của Chúa Giêsu và chân lý của sứ điệp Ngài.
Thiên Chúa phải chết cho họ thì Ngài mới sống thực nơi họ. Cái hình ảnh không
tốt đẹp mà họ có về Thiên Chúa phải bị xoá bỏ, ngõ hầu, qua đống hoang tàn của
căn nhà đổ nát, họ có thể thấy được bầu trời cao xanh, và nhìn nhận Ngài vẫn
mãi vĩ đại, cao cả vô biên. Ta cần đến niềm im lặng của Thiên Chúa để có thể cảm
nghiệm lại được cái hố thẳm nơi vẻ cao cả của Ngài và cái vực sâu trong nỗi hư
vô của ta, cái cõi thăm thẳm ấy sẽ cứ mãi ngoác to hơn và khoét sâu thêm, nếu
không có Ngài.
Có một hoạt cảnh Tin Mừng lột tả hết sức kỳ diệu niềm thinh lặng
của ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, và do đó, một lần nữa, phản ảnh trung thực cái
giai đoạn lịch sử mà ta đang sống. Chúa Kitô đang thiêm thiếp ngủ trên mạn
thuyền, giữa cảnh phong ba bão táp. Ngôn sứ Êlia đã có lần diễu cợt các tư tế
tôn thờ thần Ba-al khi họ gào thét khẩn cầu thần linh của họ cho lửa xuống
thiêu đốt hy lễ. Ông khích bác họ nên hò hét dữ dội hơn, ngộ nhỡ vị thần của họ
đang còn say ngủ. Thế nhưng, có đúng là Thiên Chúa không hề ngủ say chăng? Có
phải lời diễu cợt của vị ngôn sứ đã chẳng rơi xuống trên đầu các tín hữu hằng
tôn thờ Đức Chúa của Israel, là vị đang cùng ta ở trên một con thuyền sắp sửa
đắm chìm? Thiên Chúa thì say ngủ trong khi các tín hữu của Ngài sắp sửa chết
đuối? Đó chẳng phải là cái kinh nghiệm của cuộc đời ta đang sống hay sao? “Hội
Thánh, niềm tin, chẳng giống như chiếc thuyền mong manh sắp đắm chìm vì không
cưỡng nổi những đợt sóng cả và những trận cuồng phong dập vùi, chính trong cái
giờ khắc mà Thiên Chúa tưởng như đang vắng mặt đó sao?” Các môn đệ đang kêu cứu
đến tuyệt vọng. Họ vội đánh thức Ngài dậy. Thế nhưng Chúa lại tỏ vẻ ngạc nhiên
và quở trách họ vì lòng tin yếu kém. Tình trạng này có hề khác với những gì
đang xẩy đến cho ta chăng? Khi giông bão đã qua đi rồi, ta sẽ hiểu ngay rằng sự
yếu tin đã khiến ta trở thành ngu muội biết bao nhiêu.
“Chúa ơi, làm sao chúng con có thể không đánh thức Chúa dậy được,
bởi vì Chúa cứ mãi lặng im, cứ mãi ngủ say, còn chúng con thì không thể không
kêu gào: thức dậy đi, Chúa ơi, Chúa không thấy chúng con sắp chìm xuồng sao?
Xin Chúa chỗi dậy, đừng để bóng tối của ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh phủ tràn mãi
mãi. Xin Chúa cho tia sáng của ngày Phục Sinh toả chiếu trên thời đại chúng con
hôm nay. Xin Chúa đồng hành với chúng con đang hoang mang lầm lũi tiến về
Emmaus, để cho tâm hồn chúng con bừng nóng lên trong sức ấm nồng toả ra từ sự
hiện diện gần gũi của Chúa. Lạy Chúa, Chúa đã âm thầm ẩn mình, len lỏi bước đi
trên những nẻo đường Do Thái, để trở thành một con người giữa lòng thế nhân,
xin chớ để chúng con đắm chìm trong bóng tối; xin đừng để lời Ngài biến tan đi
trong lúc chúng con đang phí phạm lời nói, đang tuôn ra những lời phù phiếm.
Xin hãy giúp chúng con, bởi vì không có Chúa, chúng con sẽ chìm lỉm mất thôi.
AMEN.
Bài II: ƯU TƯ VỀ NỖI CHẾT
Việc Thiên Chúa ẩn mình trong thế giới đã tạo nên mầu nhiệm thực sự
của ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, cái mầu nhiệm đã thoát lộ qua những từ ngữ bí ẩn:
Chúa Giêsu “xuống ngục tổ tông.” Cùng lúc ấy, kinh nghiệm thời đại đã hiến tặng
cho ta một lối tiếp cận ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh hoàn toàn mới mẻ, giả định việc
Thiên Chúa ẩn mình trong thế giới vốn thuộc về Ngài, và lẽ ra phải công bố danh
thánh Ngài bằng muôn vàn ngôn ngữ, cái kinh nghiệm về nỗi bất lực của một vị
Thiên Chúa toàn năng—chính đây là kinh nghiệm và nỗi khốn cùng của thời đại
chúng ta.
Thế nhưng ngay cả khi Thứ Bẩy Tuần Thánh có lôi kéo chúng ta tiến
sâu về phía chiều hướng đó, ngay cả khi ta thấu hiểu vị Thiên Chúa của ngày Thứ
Bẩy Tuần Thánh nhiều hơn là sự mạc khải đầy quyền năng của Thiên Chúa qua sấm
chớp được Cựu Ước nói đến, thì có một câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời—đó là
giải thích ý nghĩa chân thực của dòng chữ nhiệm mầu: Chúa Giêsu “xuống ngục tổ
tông.” Ta nên nhớ rõ rằng: chẳng ai thực sự có khả năng giải thích được câu nói
trên. Tình trạng cũng chẳng khả quan gì hơn nếu bảo rằng “ngục tổ tông” chỉ là
lối dịch tồi tệ từ ngữ “shê-ol” trong tiếng Do Thái, vốn chỉ có nghĩa là vương
quốc của thần chết. Như thế, cái công thức ấy nguyên thủy chỉ có nghĩa là Chúa
Giêsu đã bước xuống tận đáy thẳm của nỗi chết; Ngài đã chết thưc sự để chia sớt
với ta cái hố thẳm định mệnh của sự chết. Thực ra, câu hỏi là thế này: chết
thực sự có ý nghĩa gì? Cái gì sẽ thực sự xẩy ra khi ta bước xuống tận đáy thẳm
của cái chết? Ta còn phải ghi nhận sự kiện là: sự chết đã không còn như trước
nữa, nó đã khác đi kể từ ngày Chúa Kitô chịu chết, chấp nhận cái chết, và đi
vào cõi chết. Y như sự sống cũng thế: nó không còn giống như trước đây nữa, kể
từ khi Chúa Kitô đến với con người, lấy cuộc hiện hữu thần linh hòa nhập với
hiện hữu con người. Trước đây, chết chỉ đơn thuần là chết, là cách biệt với cõi
sống, cho dù ở những độ sâu khác nhau, một cái gì như thể là cõi địa ngục, khía
cạnh tối đen của vùng bóng tối sinh động và bất khả thấu nhập. Thế nhưng, từ
đây, chết cũng chính là sống, và khi ta bước qua ngưỡng cửa của sự chết, như
một vùng hoang mạc giá băng, ta sẽ luôn gặp lại được đấng hiện thân cho sự
sống; Ngài luôn ấp ủ ước muốn trở thành người bạn đường cùng đi với ta vào cõi
cô đơn cuối cùng. Trong cuộc thống khổ nơi vườn Cây Dầu, giữa cảnh cô đơn tuyệt
cùng nhuốm mầu tang tóc, khiến Chúa thảm thiết thốt lên lời này từ trên thánh
giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa Trời con, sao nỡ bỏ rơi con thế này?” Chúa Giêsu đã
trở thành đấng thông chia nỗi cô đơn khổ sầu với ta. Vào một đêm tối, khi em
nhỏ phải một mình băng qua một cánh rừng già, thì chắc hẳn em sẽ sợ hãi, cho dù
ta có trấn an em cả trăm lần rằng không có gì phải sợ đâu. Thực ra, em không sợ
một cái gì rõ rệt, nỗi sợ của em là nỗi sợ không tên, nhưng trong bóng đêm rợn
rùng, em không khỏi cảm thấy bất an, cô độc, có cái gì đó nguy hiểm đang rình
chờ đâu đây. Chỉ một giọng nói của một ai đó mới có thể an ủi em; chỉ có bàn
tay của một người nào đó em yêu thương mới ngăn chận được nỗi ưu tư trĩu nặng
như một cơn ác mộng. Một nỗi ưu tư chính hiệu vừa khai sinh từ đáy sâu của niềm
cô đơn; không thể dùng lý trí mà xua tan đi được; chỉ sự có mặt của một ai đó
hằng thương yêu ta mới trị được nó mà thôi. Nỗi ưu tư này thực ra là nỗi ưu tư
không tên. Nó chính là biểu hiệu kinh khủng của niềm cô đơn tối hậu. Ai trong
chúng ta chưa từng trải nghiệm cái cảm giác bị chối từ đầy hãi hùng này? Ai
chưa hề nghe thấy phép lạ đầy ủi an và phúc lành xẩy ra trong những hoàn cảnh
như thế xuất phát từ một câu nói ân cần? Thế nhưng, chính ở nơi nào phủ ngập cô
đơn mà lại không thể nghe được những lời nói yêu thương có mãnh lực biến đổi,
thì nơi đó chính là địa ngục rồi đấy. Trong thời đại chúng ta, không phải là có
ít người, đầy vẻ lạc quan, nhưng lại chủ trương rằng cuộc gặp gỡ nào cũng đều
hời hợt nông cạn hết thảy; họ cho rằng chẳng ai thấu đạt được cõi sâu thẳm chân
thực của người khác, và do đó, ngay trong đáy sâu tột cùng của mọi hiện hữu đều
thấy chực chờ một nỗi tuyệt vọng, một nền địa ngục. Jean Paul Sartre đã diễn tả
tình trạng này một cách thi vị trong một vở kịch của ông và đồng thời cũng bộc
lộ cái cốt lõi của lý thuyết ông có về con người. Có một điều chắc chắn sẽ xẩy
ra: đó là sẽ có một đêm khi không một lời nói ủi an nào có thể thấu nhập vào sự
chối từ tăm tối, để rồi một cánh cửa sẽ mở ra cho ta bước qua trong tuyệt cùng
cô đơn: đó là cánh cửa của nỗi chết. Rốt cuộc, tất cả mọi ưu tư trên cõi đời
này đều xuất phát từ nỗi cô đơn tuyệt cùng ấy. Chính vì thế mà trong Cựu Ước,
từ ngữ ám chỉ vương quốc của thần chết cũng chính là từ ngữ ám chỉ địa ngục:
shê-ol. Chết, thực ra, chính là niềm cô đơn tuyệt đối. Thế nhưng, nỗi cô đơn
nào đã chìm quá sâu đến nỗi không một tia sáng tình yêu nào dọi thấu, thì đó
chính là địa ngục vậy.
“Xuống ngục tổ tông”--lời thú nhận này của ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh
có nghĩa là Chúa Kitô đã bước qua cánh cửa cô đơn, rồi Ngài đã đi xuống sâu,
thật sâu đến độ thân phận cô đơn của ta không sao dò thấu, không sao tiến đến
gần được. Thế nhưng đó cũng có nghĩa là, ngay trong khi bức màn đêm mù đặc
khiến cho không lời nào thấu nhập vào được, và khi tất cả chúng ta đây chẳng
khác gì lũ trẻ bị đuổi xua, nức nghẹn, thì bỗng vang lên một giọng nói, gọi
đúng tên ta, một cánh tay vươn ra nắm lấy tay ta và dẫn ta đi. Niềm cô đơn bất
khuất đã bị khuất phục ngay từ giây phút Ngài bước vào đó. Địa ngục đã bị đánh
bại ngay từ khoảnh khắc tình yêu bước nhẹ vào cõi chết và vùng đất cô đơn hoang
lạnh có Ngài cắm lều định cư. Tự đáy sâu thăm thẳm, con người không sống bằng
cơm bánh. Trong chân tính hữu thể của mình, con người sống bằng sự kiện mình
được thương yêu, và được trao cho khả năng yêu thương. Ngay từ cái khoảnh khắc
có tình yêu hiện diện trong cõi chết, thì sự sống thấu nhập sự chết: “Sự sống
các tín hữu Ngài không bị tước đoạt, lạy Chúa, mà được biến đổi,” đó là điều
Hội Thánh cầu xin trong phụng vụ lễ an táng.
Rốt cuộc, chẳng ai có thể đo lường được tầm mức của những lời “xuống
ngục tổ tông.” Thế nhưng khi nào đã gần đến giờ bước vào niềm cô đơn tuyệt
cùng, chắc hẳn chúng ta sẽ được ban cho ơn hiểu biết một cách rõ ràng cái mầu
nhiệm tăm tối này. Ta có thể tin chắc rằng khi đã đến giờ phút cô đơn tột cùng,
ta sẽ không đơn độc, bởi vì ngay từ bây giờ, ta đã có thể mường tượng điều gì
sẽ xẩy ra. Chính trong cơn thống khổ vì phải đối chọi với bóng tối sự chết của
Chúa mà ta bắt đầu biết cảm tạ hồng ân vì đã nhìn thấy ánh sáng toả ra từ chính
vùng tăm tối ấy.
Bài III: HƯỚNG VỀ ÁNH SÁNG PHỤC SINH
Trong Sách Nguyện Rôma, phụng vụ của Tam Nhật Thánh được sắp đặt
một cách đặc biệt; qua những lời nguyện, Hội Thánh ước mong thông chuyển cho ta
thực tại cuộc khổ nạn của Chúa, rồi xuyên qua và vượt qua các từ ngữ, ta đi đến
cái cốt lõi thiêng liêng của những biến cố xẩy ra. Nếu muốn diễn tả bằng cách
thâu tóm lại trong một vài từ ngữ các kinh nguyện phụng vụ của ngày Thứ Bẩy
Tuần Thánh, thì trước hết, ta phải nói đến hiệu năng của niềm bình an sâu xa
toát ra từ đó. Chúa Kitô đã thấu nhập vào sự ẩn mình (Verborgenheit), nhưng
trong cùng một lúc và tận ở cái cốt lõi của niềm tăm tối bất khả thấu nhập,
Ngài đã đi sâu vào sự an toàn (Geborgenheit). Quả thế, Ngài đã trở thành niềm
chắc chắn tối hậu. Thế là lời khích lệ của Vịnh gia đã trở thành sự thật: “Ngay
cả khi con muốn lẩn trốn vào nơi địa ngục, thì Chúa cũng ở đó rồi.” Càng đi sâu
vào trong phụng vụ, ta càng thấy nhiều thêm những tia sáng Phục Sinh chói lọi
trong đó, y như vầng hào quang của ánh bình minh. Trong khi ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh mở ra trước mắt ta cái dung nhan méo mó của kẻ bị đóng đinh, thì phụng vụ
ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh lại phản ảnh nhiều hơn cái bóng dáng cây thánh giá thật
thân gần với Hội Thánh ngày xưa: bóng thánh giá phủ đầy ánh sáng, trong cùng
một lúc, vừa là dấu chỉ của sự chết, vừa là chỉ dấu của sự phục sinh.
Vì thế, ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc nhở ta một khía cạnh của lòng
thương xót Kitô giáo, có thể đã bị mai một với thời gian. Khi ngước lên thánh
giá cầu nguyện, ta thường nhìn nó chỉ như một dấu chỉ cuộc khổ hình lịch sử của
Chúa trên đồi Golgotha. Thế nhưng, nguồn gốc việc tôn sùng thánh giá đã đổi
thay: ngày xưa, khi cầu nguyện, các tín hữu quay mặt về hướng Đông, vừa nói lên
niềm hy vọng rằng Chúa Kitô, là mặt trời chân chính, sẽ mọc lên trên dòng lịch
sử, vừa biểu lộ niềm tin vào ngày Chúa sẽ trở lại. Trước hết, thánh giá được
trực tiếp gắn liền với ý hướng cầu nguyện này. Nó được biểu hiện như một tấm
bích chương được giương lên khi vị hoàng đế giáng lâm; trong hình ảnh thánh giá,
đội tiền phong của đoàn quân đã xuất hiện giữa lòng đám người đang cầu nguyện.
Đối với các Kitô hữu ngày xưa, thánh giá vượt lên trên tất cả mọi dấu ấn hy
vọng. Nó trỏ về một Đức Chúa sắp đến hơn là một Đức Chúa của quá khứ. Hẳn
nhiên, với thời gian, ta không thể không cảm thấy nhu cầu nội tại ngoái nhìn về
biến cố đã xẩy ra: điều thiết yếu là bảo vệ cái bản chất bao dung đến điên
cuồng của tình Chúa yêu thương thế nhân khốn cùng, đến nỗi đã trở thành một
phàm nhân, ôi phàm nhân tuyệt vời! Phải bảo vệ tình yêu Chúa chống lại những xu
hướng trốn tránh điều linh thánh, chống lại mọi cái nhìn sai lạc về việc Thiên
Chúa nhập thể. Phải bảo vệ tính ngu dại thánh thiện của tình Chúa yêu thương,
Đấng đã cố ý không muốn biểu dương quyền lực, mà đã chọn con đường yếu nhược
đến bất lực để đẩy những ước mơ quyền lực của ta lên cái giá treo cổ và đánh
bại nó từ trong trứng nước.
Nhưng liệu như thế có phải là ta đang quên đi mối dây liên kết giữa
thánh giá và niềm hy vọng, giữa quá khứ và tương lai trong Kitô giáo, và quên
rằng hướng Đông và hướng thánh giá cũng chỉ là một mà thôi chăng?. Thần khí của
hy vọng đang thổi làn hơi sinh động trong những lời nguyện của ngày Thứ Bẩy
Tuần Thánh phải một lần nữa thấu nhập vào toàn thể cuộc hiện hữu Kitô giáo của
ta. Kitô giáo không chỉ là một tôn giáo của quá khứ, mà hơn hết, còn là tôn
giáo của tương lai; niềm tin Kitô giáo cũng chính là niềm hy vọng, bởi vì Chúa
Kitô không chỉ đã chết và đã sống lại, mà Ngài còn là đấng sẽ lại đến.
Lạy Chúa, xin dùng mầu nhiệm của niềm hy vọng này để soi sáng lòng
trí chúng con hầu cho chúng con nhận ra dòng ánh sáng chiếu toả từ thánh giá
Chúa. Xin ban cho các tín hữu Chúa đây biết mau bước hướng về tương lai, mong
chờ cuộc gặp gỡ trong ngày Chúa lại đến. AMEN.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô, trong bóng tối của cái chết, Chúa đã chiếu toả
một tia ánh sáng rạng ngời; trong vực thẳm nỗi cô đơn tuyệt cùng, tình yêu bao
dung đầy quyền lực của Chúa nay sống mãi muôn đời; trong nỗi thống khổ của việc
Chúa ẩn mình, giờ đây chúng con có thể cất tiếng hát lên bài Allêluia của những
kẻ được cứu thoát. Xin ban cho chúng con lòng tin khiêm tốn đơn sơ, khiến chúng
con không lạc bước khi Chúa gọi chúng con trong những giờ phút tăm tối, lúc
chúng con thấy như bị bỏ rơi, và khi mọi sự đều chất ngất khó khăn; xin ban cho
chúng con, khi đang chới với giữa một cuộc chiến sống còn, nhuốm mầu chết chóc,
được nhìn thấy ánh sáng để không lạc mất Chúa; xin chiếu sáng chúng con để đến
lượt mình, chúng con có thể dọi chiếu ánh sáng ấy đến cho những ai đang cần
đến. Xin làm cho mầu nhiệm Niềm Vui Phục Sinh của Chúa bừng sáng lên như vầng
hào quang của ánh bình minh, toả lan trên dòng đời chúng con đang sống; xin cho
chúng con thực sự trở thành những con người của Phục Sinh ngay giữa ngày Thứ
Bẩy Tuần Thánh lịch sử. Xin ban cho chúng con, khi đang sống những chuỗi ngày
thời đại tranh tối tranh sáng hôm nay, được luôn thấy mình mang những trái tim
vui tươi bước đi trên đường hướng về vinh quang ngày mai của Chúa. AMEN.
Nguyễn Kim Ngân
Nguồn : tinmung.net