MẦU NHIỆM SỰ CHẾT CỦA ĐỨC KITÔ
John J O’Donnell SJ
Người dịch: Luy Nguyễn Anh Tuấn (ubmvgiadinh.org)
Làm thế nào để suy tư mầu nhiệm
Sự Chết của Đức Kitô dưới ánh sáng của hiện tượng sự chết của con người?
Trong kiệt tác Hữu thể và
Thời gian của M. Heidegger, một phần lớn tác phẩm được dành để nói về
hiện tượng sự chết. Hiện tượng đó rất quan trọng đối với Heidegger đến nỗi ông
mạnh dạn gọi con người là “hiện hữu để chết”. Heidegger quan tâm trước
hết đến sự chết xét như hiện tượng nhân, chứ không phải như một hiện tượng sinh
học. Xét như hiện tượng nhân văn, chúng ta là những con người luôn đang đi trên
con đường hướng về cái chết. Ngay khi vừa mới sinh ra, một con người đã đủ già
để có thể chết. Sự chết là chân trời bọc lấy không gian ta đang sống. Về mặt
nào đó, chúng ta luôn tính đến cái khả năng chết của mình cho dẫu ta làm thế
như để tránh thoát hay đẩy lùi nó. Heidegger như muốn nói rằng cái chết là
tương lai cuối cùng đối với mỗi một người chúng ta.
Trong bối cảnh đó, Heidegger,
và theo sau ông là K. Rahner nói về cái chết như một biến cố của sự tự do. Dĩ
nhiên tôi không thể chọn lựa mình không chết. Nhưng tôi có thể chọn cách thức
mình sẽ chết như thế nào và chọn mình sẽ tạo hình cuộc sống mình như thế nào
khi đối mặt với cái chết. Thật vậy, chính vì tất yếu phải chọn lựa đứng trước
cái chết mà cuộc sống trở thành một điều gì đó nghiêm chỉnh. Nếu như sự sống
của tôi kéo dài được vô hạn, có lẽ điều tôi làm trong cuộc sống của mình trở
thành không mấy quan trọng. Thế nhưng tôi biết tôi chỉ có thể sống trong một
thời gian hữu hạn và chỉ có ít thời gian để thực hiện điều gì đó cho chính tôi.
Như thế cái chết buộc tôi phải đảm lấy tự do của mình cách nghiêm túc. Ngay cả
lúc cái chết thể lý đã đến gần, trong lúc tôi bị bệnh nặng chẳng hạn, tôi cũng
phải đương đầu với tự do của tôi. Tôi có thể đối diện với cái chết với một thái
độ cam chịu hay giận dữ. Tôi cũng có thể đối diện với cái chết trong sự thanh
thản và bình an, hay trong nỗi bận tâm về người khác, ví dụ như những người
thân yêu mà tôi sắp từ biệt. Tôi không bao giờ ngưng làm người cả khi trực diện
với cái chết. Chúng ta thấy điều này cách đặc biệt trên gương mặt của những vị
tử đạo nhưng ta cũng có những chứng từ như thế về thái độ tự do trước cái chết,
ví dụ như trong các trại tập trung. Chính sự kiện bị đe dọa liên tục bởi cái chết
đã dẫn Victor Frankl đi tìm ý nghĩa cuộc sống, điều đó giúp khai sinh về sau
một phương pháp tâm lý học gọi là logotherapy. Dù sao đi nữa, một cái
chết nhân văn (human death) bao hàm sự tự do.
Tuy nhiên đó không phải là tất
cả. Có một ý nghĩa khác mà theo hướng đó tôi kinh nghiệm cái chết như là định
mệnh. Đó là một điều không thể tránh thoát được, hơn nữa nó còn là một cái gì
đó mà tôi không thể kiểm soát được. Trước cái chết, xét cho cùng, tôi thụ động,
bất lực. Sự chết chế ngự tôi, chết là định mệnh của tôi.
Tất cả những gì vừa nói có thể
được lượm lặt từ một suy tư triết học về sự chết. Như là một hiện tượng nhân
văn cái chết vừa là một tự do cao cả nhất vừa là một định mệnh tối thượng, là
sự tự do đồng thời là sự bất lực.
Là kitô hữu, theo Rahner, dẫu
sao chúng ta cũng cần suy tư sâu xa hơn nữa. Trước hết, như chúng ta biết, chết
là chết bởi tội lỗi. Đối với Rahner, điều này có nghĩa là sự chết đã đi vào thế
gian bởi tội lỗi của Ađam. Theo nghĩa này, sự chết không có trong ý định ban
đầu của Thiên Chúa. Chết là điều gì đó lẽ ra không nên có. Rahner gợi ý ta có
thể kiểm chứng sự thật này một cách hiện sinh nơi sự kinh hãi mà ta cảm thấy
trước cái chết. Tất cả chúng ta trong chừng mực nào đó đều cảm thấy hết sức đau
buồn trước cái chết, trước thực tế ta phải bị tiêu vong, trước sự kiện mọi kế
hoạch dự định của ta đều phải trở nên vô nghĩa bởi cái chết. Và dường như ngay
cả tình yêu cũng không thể còn tồn tại sau cái chết. Tình yêu trung thành cao
quí của một người chồng dành cho vợ hay của một người mẹ dành cho con mình cũng
không thể khiến cho người thân yêu kia được bất tử. Hơn nữa, trong mọi cái chết
đều có bóng dáng của nỗi sợ lớn nhất, ấy là bị cắt lìa khỏi nguồn mạch cuối
cùng khả dĩ làm cho tôi được tròn đầy, và bị ném vào hư vô tuyệt đối, nói tóm
lại là bị mất mát chính Thiên Chúa. Cái chết bởi tội có ý nghĩa như một đe dọa
bị Thiên Chúa từ bỏ.
Giờ đây quay trở lại với Đức
Kitô, điều quan trọng nhất mà Rahner muốn nói đó là, Đức Kitô đã ôm trọn sự
sống con người của chúng ta, và do đó cũng ôm trọn lấy cả sự chết con người của
chúng ta. Người đã sống kinh nghiệm sự sống một cách tràn đầy bao trọn cả sự
chết. Hơn nữa, Tân ước khẳng định rằng, mặc dầu Đức Kitô vô tội, Người cũng đã
chết cái chết của một tội nhân. Người cũng kinh nghiệm nỗi đau buồn đứng trước
cái chết, như ta thấy trong vườn Gethsemani. Và trên thập tự Người phải thét
lên: “Lạy Chúa, lạy Chúa sao Chúa bỏ con?” (Mc 15,34). Đối với cái chết của
kitô hữu, khẳng định chính yếu của Rahner là, nhờ cái chết của Đức Kitô, cái
chết đối với chúng ta giờ đây có thể trở thành là một cái chết ân sủng, nghĩa
là, chúng ta có thể gắn kết cái chết của mình với cái chết của Đức Kitô như là
một cái chết mang lại cứu độ. Dĩ nhiên, vẫn còn có khả năng từ chối làm như
thế. Chúng ta có thể loại bỏ cái chết của Đức Kitô, trong trường hợp đó cái
chết của ta trở thành chỉ còn là cái chết của tội lỗi, không hy vọng. Cái chết
của tội lỗi là cái chết của tuyệt vọng.
Những gì chúng ta vừa nói có ý
nghĩa về mặt thần học nhập thể. Nhưng Rahner suy nghĩ thế nào về ý tưởng truyền
thống về hy tế của Đức Kitô? Ở đây ta nên ghi nhận có cả hai chiều kích lịch sử
và thần học đối với câu hỏi của chúng ta.
Trước hết, Rahner tìm kiếm giải
đáp cho câu hỏi lịch sử: Đức Giêsu đã bước đến cái chết như thế nào. Có bằng
chứng lịch sử có giá trị hay không về việc Đức Giêsu đã nghĩ cái chết gần kề
của Người như là một hiến lễ đền tội thay? Rahner lưu ý rằng các học giả
kinh thánh có ý kiến khác biệt nhau về vấn đề này. Hẳn là trong Tân ước có
những bản văn xem cái chết của Đức Giêsu như là một hiến tế. Người ta nghĩ đến
việc thiết lập Bí tích Thánh thể và những lời Đức Kitô nói về chén là chén của
Giao ước mới trong máu Người (Mc 14,24). Và cũng có những bản văn trong đó Đức
Giêsu tự nói mình như là Người Tôi tớ đau khổ. Ví dụ như Mc 10,45: “Con Người
đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá
chuộc muôn người”. Đang khi chúng ta thấy ở đây Tân ước diễn giải cái chết của
Chúa Giêsu như là hiến lễ, nhưng chúng ta không biết rõ những bản văn này có
lên đến tận nguồn là Đức Giêsu lịch sử trong thời gian tác vụ công khai của
Người hay chúng là những suy tư hậu phục sinh của cộng đoàn kitô hữu tiên khởi?
Trong trường hợp nào đi nữa,
Rahner cho là việc Đức Giêsu trong thời gian sứ vụ của Người có hiểu cái chết
của mình như một hiến lễ hay không không phải là điều cốt yếu. Điều cốt yếu
trước hết là Đức Giêsu đã xem mình là người đại diện cuối cùng của Thiên Chúa
trước mặt nhân loại, và đặc biệt Người đã tự cho rằng mình biết Chúa Cha và
mình có thẩm quyền thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Và Người vẫn trung
thành với sứ vụ cho dù người do thái loại trừ và dù có phải chết và thấy cái
chết thực sự đang đến gần. Điều cốt yếu là Đức Giêsu vẫn tiếp tục đặt trông cậy
vào Thiên Chúa Cha của Người và mong đợi mình được minh chứng dù có chết. Tất
cả những điều đó, Rahner tin rằng, có những bảo đảm lịch sử và kinh thánh có
giá trị.
Như thế, đối với Rahner, cái
chết của Đức Giêsu có tính cứu độ là bởi Người đã đảm lấy cái chết ấy trong sự
tự nguyện và vẫn tiếp tục trông cậy vào Thiên Chúa cho đến cùng. Và quả thật,
Thiên Chúa đã minh xác cho Người bằng cách cho Người sống lại từ trong cõi
chết. Như thế Thiên Chúa đã xác nhận sứ vụ của Người. Đức Giêsu đã và vẫn đang
là ơn cứu độ cuối cùng Ngài trao ban cho nhân loại. Sự chết không có quyền lực
trên Người, và sự chết không tiêu diệt được sứ vụ của Người. Đức Giêsu vẫn sống
và như thế Người vẫn mãi là ân ban của Lòng Thương xót Chúa cho nhân loại.
Chúng ta nên lưu ý rằng ở đây
Rahner rõ ràng nối kết chặt chẽ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu lại với
nhau. Nếu Đức Giêsu đã không sống lại, Người không là Đấng Cứu Độ chúng ta.
Nhưng thật ra Người đã sống lại và được minh chứng. Thiên Chúa, theo lời Thánh
kinh, đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô. Như thế điều đầu tiên ta nhận
thấy đó là cái chết của Người là cái chết cứu độ vì nó liên kết với sự phục
sinh của Người. Chính trong ánh sáng của sự phục sinh của Người mà chúng ta có
thể nói cái chết của Người có tính cứu độ.
Như thế chúng ta có thể gọi cái
chết ấy là một hiến lễ không? Vâng, đúng như thế. Nhưng ta cũng cần cẩn thận
phân biệt một số điểm sau đây. Trước hết, trong lịch sử các tôn giáo, hiến lễ
nói chung được nhìn như là một nỗ lực của con người để đạt tới được hiệp thông
với Thần linh. Tuy nhiên, trong trường hợp của Đức Kitô, đây là một hành động
tiến hành từ phía Thiên Chúa đi đến với con người. Đức Giêsu trước hết được
Thiên Chúa sai đến. Đức Giêsu đáp ứng sứ vụ mình thậm chí cho đến chết.
Nhưng quyền tối thượng của hành động liên hệ đến Chúa Cha. Thứ đến, ngược lại
với Cựu ước hay các tôn giáo của các chư dân Đức Giêsu không dâng tiến một vật
(con vật, lúa mì. V.v…) nhưng dâng chính mình. Hiến lễ ở đây là sự vâng phục
của Người, dâng hiến chính mình cho Chúa Cha và cho anh chị em mình. Thứ ba,
không hề có vấn đề làm thay đổi suy nghĩ của Thiên Chúa hay thắng được một cơn
giận của Ngài. Khái niệm sau cùng này đã đi vào thần học kitô giáo đặc biệt với
thánh Anselm thành
Chúng ta đã nói rằng Rahner
chấp nhận cái chết của Đức Kitô là một hy tế. Chúng ta cũng có thể nói tiếp
rằng cái chết của Người đem lại cho ta ơn cứu độ. Nhưng theo nghĩa nào? Ở đây
Rahner đưa ra một cách tiếp cận có tính chất rất nguyên thủy. Cái chết của Đức
Kitô trên thập giá không là nguyên nhân tạo ra một sự thay đổi nào trong Thiên
Chúa. Thiên Chúa không có thái độ mới mẻ nào đối với chúng ta bởi cái chết của
Đức Kitô. Thái độ của Ngài vẫn luôn luôn là từ bi nhân hậu và xót thương chúng
ta. Nhưng cái chết của Đức Kitô đã tạo nên một hoàn cảnh mới cho loài người.
Rahner giải thích điều đó như thế này. Bằng cách sai Đấng cứu độ đến trần gian,
nghĩa là bằng cách nhập thể, Thiên Chúa đã đặt lời cuối cùng của Ngài vào lịch
sử. Kể từ lúc nhập thể Ngôi Lời hiện hữu trong xác phàm với một lịch sử con
người. Nhưng bởi chấp nhận cuộc sống con người trọn vẹn bao gồm cả sự chết,
Thiên Chúa đã đưa cái chết vào trong cuộc sống riêng của Ngài và chế ngự nó.
Ngang qua lịch sử nhân loại
Thiên Chúa đã tìm kiếm một đối tác cho giao ước, tìm một tiếng xin vâng từ phía
loài người. Nhờ tiếng xin vâng của Đức Kitô hướng về Chúa Cha xuyên qua cuộc
sống và cái chết của Người, Thiên Chúa có được một lời đáp trả hoàn hảo. Theo
hướng đó, lối ra của lịch sử con người đã được giải đáp. Nơi một con người, Đức
Giêsu Kitô, có sự hợp nhất dứt khoát giữa Thiên Chúa và nhân loại, mà kể cả tội
lỗi và sự chết cũng không thể bẻ gãy được. Như thế lịch sử nhân loại được hoàn
thành. Và Đức Kitô sống và lôi kéo chúng ta vào công cuộc hoàn thành đó của
Người. Nhờ cái chết Đức Kitô đã đi vào vinh quang phục sinh và giờ đây Người
lôi kéo chúng ta vào chia sẻ vinh quang ấy. Bởi thế, cái chết và phục sinh của
Người là chiến thắng dứt khoát của ân sủng Chúa trong thế giới. Chiến thắng này
không bao giờ bị đe dọa. Điều duy nhất nguy cơ là chúng ta có quyết định với tự
do tham dự vào chiến thắng ấy của Đức Kitô hay không. Lịch sử đã đạt đến mục
đích của nó (nơi Đấng hoàn toàn vừa là Chúa vừa là người). Giờ đây chúng ta phải
quyết định mình có muốn đạt đến mục đích ấy của mình trong Người hay không.
Còn một điểm cuối cùng cần lưu
ý và hết sức quan trọng. Mọi sự đều phụ thuộc vào việc Đức Kitô chấp nhận chết
trong sự tự do của Người đang mang phận người. Rahner nghĩ rằng việc Đức Kitô
phó thác cho Thiên Chúa trong tự do mở ra cho ta thấy Người là một con người
của đức tin và đức cậy. Đối với Rahner, Đức Kitô không được miễn trừ phải sống
đức tin, đúng hơn Người là mẫu mực hoàn hảo trong việc ấy. Nhưng đức tin ở đây
được hiểu không chủ yếu theo nghĩa tin vào một điều gì đó, nhưng đúng hơn là
tín thác cho Thiên Chúa. Và Đức Kitô, cũng như chúng ta, tin là tin trong phó
thác, quả thật Người đã tin ngay cả trong tình cảnh cay đắng tối tăm của kẻ như
bị bỏ rơi trên thập giá. Rahner viết: “Theo Thánh kinh chúng ta có thể nói chắc chắn rằng
Đức Giêsu trong cuộc sống của Người là một tín hữu một kẻ đã tin… và là một
người đã luôn sống niềm hy vọng cách tuyệt đối, và rõ ràng là một người đã yêu
mến tuyệt đối Thiên Chúa và con người. Trong niềm tin, cậy, mến hợp nhất ấy,
Đức Giêsu đã phó dâng thân mình, khi đi tới cái chết, cách vô điều kiện cho mầu
nhiệm tuyệt đối mà Người gọi là Chúa Cha, phó thác hoàn toàn cuộc sống mình
trong tay Ngài. Đó cũng chính là lúc mà Người, trong giờ chết và cảm thấy như
bị Thiên Chúa bỏ rơi, bị tước đi hết mọi sự thuộc về cuộc đời của một con
người: sự sống, danh dự, nghĩa đồng bào, tình đồng đạo và vân vân. Càng lúc
càng thấy hiển nhiên rành rành khi cái chết đến mọi sự đều rời bỏ Người, ngay
cả sự bảo đảm gần gũi yêu thương của Thiên Chúa cũng không còn cảm thấy nữa. Và
trong cảnh bế tắc tăm tối ấy chỉ lặng thinh ngự trị một mầu nhiệm tự thân là
không tên và tự do, nhưng Người lại phó mình âm thầm lặng lẽ cho mầu nhiệm ấy
như tình yêu vĩnh cửu, chứ không phải cho cái hư vô quái quỉ nào”[1].
Sau khi đã nhìn Rahner triển
khai thần học về cái chết cứu độ của Đức Kitô, bây giờ ta có thể tự hỏi rằng
cái chết đó có thể trở thành thực tại cứu độ cho ta như thế nào. Ta sống như
thế nào mầu nhiệm về cái chết của ta trong đức tin? Làm sao biến cái chết của
ta thành một cái chết “trong Thần khí”, cái chết trong ân sủng? Đối với
Rahner trung tâm của đức tin kitô giáo vẫn ở nơi thập giá Chúa Kitô. Tất cả phụ
thuộc ở chỗ thập giá của Người xét cho cùng là một thất bại nhục nhã hay là một
chiến thắng của tình yêu tự hiến dẫn tới sự phục sinh. Kitô hữu thì tin vào
điều thứ hai. Như thế về cơ bản đức tin kitô giáo đặt cọc tất cả nơi thập giá
Đức Kitô. Tôi có phó thác cho Mầu Nhiệm Thiên Chúa trong niềm tin hay không hệ
tại ở chỗ tôi đặt cọc mọi sự nơi thập giá của Đức Kitô. Bởi lẽ, chính nơi đây
trong lịch sử con người mầu nhiệm Thiên Chúa được mạc khải đầy đủ như là tình
yêu tự hiến. Ai cũng vậy, dù nam hay nữ, trong cuộc sống mình đều kinh nghiệm ở
mức độ nào đó về những tháng ngày tăm tối, đau khổ, bệnh tật, thất bại, và cô
đơn và tất cả những điều ấy là những dấu dự báo cái chết. Như thế mỗi người
chúng bị đặt trước thách thức này, đó là: đứng trước những bóng tối đó trong
cuộc đời liệu tôi có thất vọng hay không hay tôi quay về với Đức Kitô và thập
giá của Người và đặt cược tất cả đời tôi vào cái chết của Người? Một lần nữa
Rahner lại nhấn mạnh: hoặc cái chết của Người là chiến thắng của dự phóng của
Thiên Chúa trong lịch sử hoặc là nhân loại bị kết án phải mang một nỗi khát
khao không bao giờ được lấp đầy.
Đối với Rahner, tin vào Thiên
Chúa có nghĩa là đi theo Đấng Bị Đóng Đinh. Đức Kitô đã đến với vinh quang
ngang qua tình cảnh bị bỏ rơi trên đồi Calvariô. Con đường dẫn tới Nước Trời đi
qua cánh cửa hẹp. Và đối với chúng ta cũng phải như thế. Điều đó có nghĩa là
không có con đường nào khác dẫn đến Thiên Chúa ngoài con đường thánh giá. Vậy cách
nào đó chúng ta phải chia sẻ với hoàn cảnh tối tăm của Người. Cuộc sống chúng
ta chắc chắn sẽ có những lúc tối tăm như thế như khi bệnh tật ốm đau, thất bại,
cô đơn. Trong những lúc ấy Thiên Chúa mời gọi tôi nối kết những đau khổ ấy với
những đau khổ của Đức Kitô. Nhưng còn có gì hơn thế nữa. Các kitô hữu có thể tự
ý khước từ một số những thiện ích trần gian của loài người để thông dự vào mầu
nhiệm thập giá Đức Kitô. Cuộc sống sẽ trao ban nhiều hy sinh từ bỏ. Những sự hy
sinh khác có thể được chọn để chuẩn bị cho chúng ta đi tới một sự hy sinh không
ai có thể tránh thoát, đó là từ bỏ chính cuộc sống trần gian này khi giờ chết
đến. Chúng ta làm thế bởi vì trong niềm tin chúng ta biết rằng Đức Kitô đã
đi con đường này và thánh giá của Người, có vẻ cuối cùng như là một thất bại,
thật ra là cửa ngỏ đi vào sự sống viên mãn. Như thế sự từ bỏ là một thành phần
của đời sống kitô giáo, nhưng không phải theo nghĩa tiêu cực là chối từ sự
sống, mà là một thái độ duy thực yêu mến sự sống và cũng nhìn nhận rằng có một
sự sống viên mãn hơn và siêu việt trên cuộc đời mà chúng ta biết đến ở đây và
lúc này.
Rahner nói rằng nếu ta đảm nhận
thập gía Đức Kitô ta sẽ có một sự sống không ảo tưởng. Nền văn hóa kỹ thuật
hiện nay của chúng ta cố thuyết phục chúng ta rằng chúng ta có thể ấn định mọi
sự. Mọi đau khổ của chúng ta có thể được chế ngự. Nền văn hóa chúng ta là một
nền văn hóa tuổi trẻ và ngày nay chúng ta thậm chí có khoa giải phẩu thẩm mỹ để
làm biến mất những nếp nhăn và cắt bớt các mô mỡ thừa. Chúng ta giải phóng tình
dục và như thế lạc thú nhục dục dễ dàng được thỏa mà xem ra không phải có trách
nhiệm gì. Thế nhưng suy nghĩ sâu hơn chúng ta thấy mình chắc chắn rồi sẽ trở
nên già cỗi hơn, xế tàn và chết. Lạc thú nhục dục, vốn được mua rẻ mạt như thế,
sẽ mang lại hiệu ứng nghịch với sự mang thai ngược với ý muốn và những căn bệnh
nhiễm truyền qua đường sinh dục. Trớ trêu thay, những người tài giỏi về công
nghệ thông tin lại đang khó tìm được việc làm trong một thị trường thừa thãi.
Nói tóm lại, cái chết trong mọi dạng của nó và trong mọi bóng dáng của nó vẫn
còn là một ẩn số cuối cùng của sự sống. Kitô hữu, như Rahner khẳng định, có thể
nhìn thẳng vào cái chết, tham dự vào đó, nhưng đừng để mình bị cái chết nuốt
chửng, bởi lẽ niềm hy vọng của họ đặt vào Đức Kitô chết và phục sinh.
Cuối cùng, kitô hữu dấn thân
yêu thương như Đức Kitô yêu thương. Cuộc sống của người kitô hữu đặt nền tảng
trên cuộc sống của Đức Kitô, “Đấng đã yêu thương những kẻ thuộc về Người cho
đến cùng” (Ga 13,1). Đây không phải là tình yêu lãng mạn cũng không phải là
tình yêu dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Nhưng là một tình yêu có sức trao
ban ngay cả khi không thấy có đền đáp. Khi yêu thương người ta mang lấy thập
giá của mình. Trước hết, yêu có vẻ rất hấp dẫn. Tình yêu trần tục của con người
xem ra là một lý tưởng lãng mạn. Thế nhưng, như Rahner nói, ta cần phải
"được thức tỉnh"[2]
khỏi ảo tưởng này. Tôi phải học yêu thương khi tình yêu bắt đầu gây đau khổ,
khi thiếu vắng tương trợ, hoặc ngay cả khi tha nhân phản bội tôi. Và tôi phải
làm như thế không phải theo kiểu cách của một kẻ anh hùng, nhưng đơn giản chỉ
vì đó là phương thế làm môn đệ Đức Kitô. Chặng đường cuối cùng của nghĩa môn đệ
là vẫn yêu thương ngay cả khi ta thấy tình yêu không hoặc không còn được đáp
trả nữa.
Kết luận của suy tư thần học
của Rahner là thập giá ở ngay trung tâm của ba nhân đức lớn: tin, cậy, mến. Bởi
lẽ tin vào
Thiên Chúa, đối với một người kitô hữu, có nghĩa là ôm lấy thập giá Đức Kitô
như dấu chỉ của sự chiến thắng của Thiên chúa trong lịch sử. Thập giá là hy
vọng, vì thập giá cùng mang theo lời hứa về sự sống bên kia nấm mồ. Thập giá là
yêu
mến, vì vác thập giá xét cho cùng không là gì cả ngoại trừ
đó là tình yêu đối với người anh em thân cận, đón nhận mẫu gương Đức Kitô rửa
chân cho anh em, sống giới răn mới của Người, yêu thương cả khi Người đã yêu
thương chúng ta trước.
[1] K. Rahner, “Following
the Crucified”, in Theological Investigations 13, Darton, Longman,
Todd,
[2] Trên thập
giá như là sự sống không ảo tưởng và tình yêu ‘giác ngộ’, xem K. Rahner, “Self-Realisation
and Taking Up Ones’s Cross,” Theological Investigations 13, 256.