BÌNH AN VĨNH CỬU
Vấn đề duy nhất còn lại
sau cuộc khổ nạn của Đức Giêsu chính là niềm tin vào sự sống lại của Ngài. Trên
ngôn từ, có lẽ đây không hề là điều khó khăn, nhưng thực chất, sống niềm tin
vào sự phục sinh của Thiên Chúa là cả một vấn nạn.
Sự thường, có mấy tín đồ Kytô hữu lại không tin Thiên Chúa
đã chỗi dậy từ cõi chết, thế nhưng đức tin ấy có sống trong nhân loại không mới
quan trọng. Tin chỉ trên cửa miệng, ai mà không tin được, nhưng chứng minh niềm
tin trong cả đời sống thật chả mấy dễ. Giả như, nhân loại đặt niềm tin trọn vẹn
vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa, có lẽ nhân loại đã không còn nước mắt.
Chẳng ai buồn khóc làm gì với cái nhân trần nay còn mai mất, cái cuộc sống mau
qua chóng tàn, bởi biết chắc chắn ngày mai khi cùng nhau xum họp với Cha trên
trời, họ tận hưởng cuộc sống trường sinh bất diệt, đây chả phải là khát vọng
sâu thẳm của con người từ khi biết ý thức về sự chóng vắn của sự sống nhân loại
hay sao.
Nhưng tại sao thế giới khó sống niềm tin phục sinh như vậy,
phải chăng niềm tin ấy có điểm nào chưa chuẩn xác, quá sức tầm với của nhân
loại, cũng là cả một vấn đề cần phải bàn luận. Thật ra, câu hỏi không có gì nan
giải, các môn đệ, những con người cùng ăn, cùng uống, cùng sống với Đức Giêsu,
tận mắt chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, đụng chạm con người
Giêsu với thân xác hoàn toàn nhân loại mà còn hoài nghi, nói gì đến hậu duệ,
sinh sau đẻ muộn, chỉ biết lấy đức tin mà bù lại, lấy lịch sử mà kiểm chứng, cho
nên đòi hỏi sự tuyệt hảo thực khó.
Bao lần cùng Thầy rao giảng, bức màn bí mật về Con Thiên
Chúa, Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu.. chẳng phải đã vén mở. Cuộc biến hình,
các phép lạ, những câu chuyện ngụ ngôn… các tông đồ chẳng phải quá thuần thục,
ngay cả cuộc khổ hình thập giá Ngài cũng đã từng báo trước mà tại sao họ vẫn
không tin.
Có nhiều lý do khiến nhân loại khó tin và càng khó hơn để
sống niềm tin của mình. Trên hết vẫn là đôi mắt tâm linh mù quáng, bị che phủ
bởi những hào nhoáng vật chất bên ngoài. Thiên Chúa thuộc về thế giới tâm linh,
thế giới nội tâm sâu kín trong tâm hồn con người, trong khi nhân loại lại sống
cho nhu cầu vật chất. Chính sự lệ thuộc vào cái sự sống nay còn mai mất này mà
con người đánh mất niềm tin vào Đấng siêu việt, người ta chỉ còn muốn sống cho
lợi ích trước mắt mà thôi, những nhu cầu bảo tồn sự sống lớn hơn cả niềm tin
vào cuộc sống mai hậu.
Hơn thế nữa, tin vào Thiên Chúa và sống niềm tin vào Ngài
đòi hỏi con người đi vào ngõ hẹp, bước trên con đường hy sinh, từ bỏ. Đứng
trước mất mát, ai cũng e ngại, ngại khó, ngại khổ, ngại hy sinh vất vả. Sống nuông
chiều bản thân, chạy theo xu hướng dục vọng để thõa mãn khát vọng chân thường
của bản ngã, đó là điều ai chả muốn. Chính vì thế, không phải con người không
tin Thiên Chúa sống lại và xem thường sự sống bất diệt của Ngài mà đúng hơn họ
không muốn chọn sống cho niềm tin của Thiên Chúa.
Số còn lại sống trong tâm trạng hoang mang cùng cực, bởi kẻ
tin chả có là bao mà người không tin đếm lại khôn xuể, chưa kể đến lớp người
sống phản chứng với niềm tin và lời rao giảng của mình. Thế đấy, sự sống này có
khác gì vòng xoáy tàn nhẫn, nó nghiền nát, trà trộn mọi con người. Nếu không
muốn bị tiêu diệt, từng cá vị phải biết tự vượt thoát mình bằng ý chí nghị lực
cùng với niềm tin kiên cường vào Thiên Chúa.
Một điều đáng sợ khác, không phải Thiên Chúa phục sinh rồi
hết, nhưng quả thực Ngài vẫn hiện diện, hoạt động âm thầm trong vũ trụ, cái khó
là làm thế nào để nhân loại nhận ra điều ấy trước một nền văn minh khoa học kỹ
thuật hiện đại, tiên tiến, khi mà mọi nhu cầu của con người được đáp ứng một
cách hiệu quả nhất. Nếu vậy thì tin hay không tin Thiên Chúa sống lại có còn
quan trọng nữa không, khi mà ý niệm linh thánh đang có dấu hiệu báo động trong
tâm thức nhân loại. Guồng máy hoạt động đương đại cho thấy, thế giới đang loại
trừ sự hiện diện của thần linh trong vũ trụ.
Nếu nói niềm tin phục sinh đứng trước báo động đỏ, thì cách
sống phản chứng lại gây hậu quả không nhỏ đến não trạng nhân loại. Đôi khi
người có niềm tin, tự hào về niềm tin lại sống thua người không tin. Đau lòng vậy
đó.
Hơn bao giờ hết, thế giới cần chứng nhân phục sinh. Câu
chuyện Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết theo như lời kinh Thánh hơn 2000 năm qua
đã qua thật lâu rồi, vấn đề là ở hiện tại, làm thế nào để có những con người
tiếp nối sứ mệnh lịch sử ấy, viết tiếp câu chuyện phục sinh còn dang dở trong
từng cá vị, Thiên Chúa phục sinh đang sống cho tôi và trong tôi kìa!
Thái độ bàng quan của nhân loại gây không ít thiệt hại đến
niềm tin non nớt, yếu kém, dẫn đến những cái nhìn bi quan, yếm thế về cuộc đời.
Nhìn thấy đau khổ, chiến tranh, bệnh tật, loạn lạc, đói nghèo, con người chỉ
muốn buông xuôi, bỏ cuộc mặc cho sóng đời lôi cuốn, quên đi sức mạnh phục sinh tồn
tại. Cái chết đã qua và chết một lần là đủ cho tất cả, điều quan trọng là tin rằng
chính cái chết ấy đã giải thoát tất cả, mang lại sự sống bất diệt. Tại sao thế
giới không quan tâm đến điều ấy, cứ mãi loay hoay với đường thập giá để mà nhìn
thấy toàn gai nhọn với máu đào?
Nếu như niềm tin phục sinh chan hòa trong trái tim nhân
loại, có lẽ con người không còn vật vã truy tìm lẽ sống. Bởi con đường mà thế
giới đang mò mẫm bước đi là con đường mà chính Đức Giêsu đi trước khai sáng.
Không cần phí thì giờ, luống công vô ích, chỉ cần vững tin và kiên trung tiến
bước, ánh sáng phục sinh là đuốc sáng dẫn đường đưa nhân loại đến với sự sống
bất diệt.
Đó cũng chính là lý do tại sao mỗi lần hiện ra với các tông
đồ, Đức Giêsu luôn trao cho họ lời chúc bình an (x. Ga 20,21). Bình an của sự
toàn thắng, của sức mạnh quyền năng. Thế giới hôm nay, mặc dầu vắng bóng chiến
tranh nhưng lại thiếu vắng bình an phục sinh của Thiên Chúa hiện diện. Nguồn
bình an phát xuất từ chính trái tim lương thiện. Người ta còn mãi hoài tranh
chấp, cấu xé nhau chỉ vì tư lợi cá nhân. Chính sự bất bình an ấy khiến con
người lầm than khổn khổ.
Tin Thiên Chúa chết cho tôi và sống lại vì tôi là một điều
phúc (x. Ga 20, 29), thế nhưng sống niềm tin ấy còn phúc hơn rất nhiều. Niềm
tin khiến cho con người sống, thái độ sống biểu hiện niềm tin, cả hai phạm trù
hỗ tương nhau làm nên đức tin sống.
Lạy Chúa, tuyên xưng
sự sống phục sinh bất diệt của Ngài là điều không chỉ trên môi miệng nhưng còn
ở tận đáy lòng. Thế nhưng, trả lời về hành động sống niềm tin phục sinh là điều
con cần xin lỗi. Nếu thực sự tin, con đã không buông xuôi, bỏ cuộc. Chỉ vì quá
cậy dựa vào sức người, sức mình, không bám víu vào sức mạnh quyền năng Thiên
Chú mà hết vấp váp này đến va vấp khác, con bơi lội trong hoài nghi, ngờ vực. Cho
con bình an của Chúa, nguồn bình an phục sinh bất diệt. Phục sinh con, xin Ngài
phục sinh con khỏi đam mê danh vọng, để không một thế lực nào có thể hủy diệt
sự sống bất tử trong con.
M. Hoàng Thị Thùy
Trang.