Bài 3
Phục vụ sự sống và bảo vệ phẩm giá con người
Các bà
chuẩn bị đi liệm Đức Giêsu (Lc 23,56)
Đã có mặt trên Đồi Sọ để chia sẻ những đau thương của Đức Giêsu cho
đến khi Người tắt thở, để phải sống trong bóng tối, nhưng cũng để thấy ánh
sáng, chiều nay chúng ta đã đến mộ Đức Giêsu. Tại đây chúng ta chỉ còn gặp ông
Giôxếp Arimathê (và có lẽ vài người giúp việc của ông) và các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê; họ đang tẩm liệm thi hài Đức Giêsu để
đưa an táng trong mộ đá. Việc các bà đang làm là chuẩn bị hương liệu và dầu
thơm để đi tẩm liệm thi hài Đức Giêsu khiến tôi nhớ đến lời của Đức Thánh Cha
Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Hội Thánh nhìn nhận sự đóng góp
quan trọng của phụ nữ đối với xã hội, bởi sự nhạy cảm, trực giác và một số khả
năng của họ, là những gì mà phụ nữ thường trổi vượt hơn nam giới. Chẳng hạn như sự chú ý đặc biệt đến phụ nữ khác, được thể hiện một
cách đặc biệt, mặc dù không độc quyền, trong việc sinh sản. Tôi vui mừng vì thấy biết bao phụ nữ chia sẻ trách nhiệm mục vụ với
các linh mục, đang góp phần vào việc giúp đỡ các cá nhân, gia đình hoặc các
nhóm và có những đóng góp mới về suy tư thần học. Nhưng
chúng ta còn phải mở rộng không gian cho một sự hiện diện quyết định hơn của
phụ nữ trong Hội Thánh. Bởi vì thiên tài của phụ nữ là điều cần thiết
trong tất cả các hình thức của đời sống xã hội...” (số
103).
Chiều hôm nay, khi chiêm ngắm các phụ nữ chuẩn bị đi liệm Đức Giêsu
cách đây hơn hai ngàn năm, chúng ta đặc biệt ghi nhận mối quan tâm của người
phụ nữ trong việc phục vụ sự sống và bảo vệ phẩm giá con người. Bây giờ chúng
ta trở lại với Tin Mừng Luca.
1.- Các phụ nữ đã đến từ Galilê
Sau khi đã đặt Đức Giêsu vào mộ đá, ông Giôxếp Arimathê và
các người giúp việc ra về. Chỉ
còn lại các bà. Chiều hôm nay không nói được gì về các
môn đệ của Đức Giêsu với chứng từ về giáo huấn của Đức Giêsu. Chúng ta đành phải dựa vào các phụ nữ đả nói về đường lối của Đức
Giêsu. Tác giả Luca ghi: “Những người phụ nữ đã đến từ Galilê với Người
cũng đi theo ông Giôxếp. Các bà để ý
nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà,
chuẩn bị hương liệu và dầu thơm. Nhưng ngày sabát, các
bà nghỉ lễ như Luật truyền” (Lc 23,55-56).
Các bà này được nhắc hai lần là đã “đi theo Người từ Galilê” (23,49) và “đã đến từ Galilê với Người”. Đây chính là những bà
đã được nói đến trước đây (x. Lc 8,2-3): “Cùng đi với
Đức Giêsu, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa
bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy
quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà
khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu
và các môn đệ”. Vậy, Đức Giêsu và các môn đệ có thể
thi hành được sứ mạng, là nhờ một phần không nhỏ vào sự giúp đỡ của các bà này.
Các bà đã “phục vụ” Đức Giêsu, các bà theo sát kế
hoạch của Đức Giêsu nhất, mà đây cũng là kế hoạch của Thiên Chúa. Những người
không được nói đến bao nhiêu lại là những người rất gần gũi
với Đức Giêsu. Các bà bước theo Đức Giêsu, tức là các bà sống đời môn đệ, các
bà hành động mà lại không nói bao nhiêu ... Các bà tiếp tục âm thầm đi theo Đức
Giêsu lên Giêrusalem và lên Đồi Sọ và sau đó, đã “đi theo” Giôxếp Arimathê,
không phải vì đã đổi Thầy, nhưng bởi vì lúc này Giôxếp (và hẳn là cả những
người giúp việc) di chuyển thi hài Đức Giêsu vào mộ, nên các bà đi theo ông ấy
là để tiếp tục đi theo Đức Giêsu, để tiếp tục phục vụ Người trong những việc
cần thiết cuối cùng, ở đây là tẩm liệm lại thi hài. “Nhưng ngày sabát, các bà
nghỉ lễ như Luật truyền” (23,56): Nói theo kiểu hôm
nay, các bà dung hòa được việc giữ đạo, vì giữ điều răn của Thiên Chúa (giữ
ngày sabát) với việc bác ái, vì chuẩn bị hương liệu và dầu thơm để tẩm liệm lại
thi hài Đức Giêsu. Các bà là điển hình đơn giản và tuyệt đối về đức tin.
Sống dưới con mắt Chúa là như thế đó: trong khi vẫn tôn kính Thiên
Chúa, thì cũng chân thành xem có thể làm được gì tốt cho người khác là làm, để
người ta sống như là những con người hơn: “Phục vụ sự sống và bảo vệ phẩm giá
con người” là như thế. Các bà cũng không phải là những người vô ý vô tứ (“nhanh
nhẩu đoảng”!): “Các bà đã chứng kiến những việc ấy (= mọi việc trên Đồi Sọ) ...
Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào” (23,49b.53b),
để sáng hôm sau, khi đi ra mộ, các bà không đến lầm mộ. “Phục
vụ sự sống và bảo vệ phẩm giá con người” cũng đòi hỏi một sự quan tâm, một sự ý
tứ như thế.
Vào ngày sabát hôm ấy, sau khi đã an táng
Đức Giêsu vào mộ đá rồi, các bà còn có thể làm gì hơn là chờ đợi cho qua ngày
lễ nghỉ như Luật truyền? Chờ đợi và đau đớn tiếc nuối nhắc lại quá khứ....
2.- Các phụ nữ trong hành trình rao giảng của Đức Giêsu
Từ mộ đá, chúng ta đi nhìn lại phía sau, như quay chậm ngược
lại một cuộn phim. Tôi đặt mình vào vị
trí một người trong nhóm chiều hôm ấy, tôi xin kể chuyện.
Thầy Giêsu chúng ta không phải là người chủ trương “duy nữ
quyền”, như người ta nói hôm nay. Nhớ mà xem! Thầy
chưa bao giờ làm một phân tích hay nói một lời chỉ trích minh nhiên các định
chế và các quan hệ giữa các tầng lớp xã hội hoặc giữa hai phái nam nữ. Trong thời gian hoạt động, sự khác biệt giữa người nam và người nữ,
Thầy chẳng quan tâm. Không như các thầy kinh sư và Pharisêu kia, cứ né các phụ nữ hoài! Thầy chúng ta không như thế! Chính vì thế Đức Giêsu đã vạch trần những méo mó trong cái nhìn về
người phụ nữ và trong quan hệ nam nữ. Chị em, anh em
có nhớ không? Thầy không ngại nói với các phụ nữ,
giảng dạy cho họ, nhận họ làm môn đệ.
Lan man nghĩ lại quá khứ, anh chị
em có nhớ không, chúng ta gặp Thầy đi lên Đồi Sọ, mới hôm qua thôi. Lúc đó Thầy đã được ông Simôn Kyrênê vác thập giá giùm. Đang
bước thấp bước cao, chập choạng lảo đảo, Thầy gặp “các phụ nữ vừa đấm ngực vừa
than khóc Thầy, Thầy đứng lại khuyên bảo họ: “Hỡi phụ nữ Giêrusalem, đừng khóc
thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây
sẽ tới những ngày người ta phải nói: “Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không
sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!” Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi
non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp
chúng tôi đi! Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như
thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?”“ (Lc 23,27-31).
Thầy Giêsu đã rút từ số phận của Thầy ra một bài học để
khuyến cáo các phụ nữ. Nếu các thế lực của sự dữ đã đưa
được chính Thầy đến giờ tăm tối này, thì chúng cũng có thể tác động trên các
phụ nữ chúng ta đấy, và trên các môn đệ nam nữa. Thành ra phải để ý! Nói với nhau mà để ý. Sức mạnh của tối tăm là một sức mạnh khủng
khiếp lắm.
Thầy Giêsu chưa bao giờ thốt ra một lời khinh bỉ hay mỉa mai người
phụ nữ, và như thế là khác với thời đại của Người. Sức khỏe
của người phụ nữ, Thầy cũng coi là quan trọng như sức khỏe của người nam, vì
thế Thầy làm nhiều phép lạ để chiếu cố đến người nữ. Chẳng hạn: Khi chữa
bà còng lưng (13,10-17), Thầy bảo: “Bà được tự do!”,
ngay trong ngày sabát là Thầy đụng chạm đến lối giữ đạo khe khắt của các thủ
lãnh. Nhưng nhờ thế bà có thể ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào
người khác, nhìn trời, tôn vinh Thiên Chúa, được cảm thấy mình cũng là một con
người. Đi ngược lại nữa, vào những ngày đầu tiên đi hoạt động, Thầy đã
chữa mẹ vợ ông Simôn (4,38-39), và “tức khắc bà đứng
dậy phục vụ các ngài”. Khi chiếu cố đến ai, Thầy không để
người ấy trong tình trạng cũ nữa. Rồi hôm ấy, khi tiến
đến nhà ông trưởng hội đường Gia-ia để cứu đứa con gái của ông sắp chết, Thầy
gặp một bà bị băng huyết đã mười hai năm. Bà nghĩ đơn sơ, nhưng cương
quyết: mình mà sờ vào tua áo choàng của Thầy là khỏi (8,43-48).
Rồi bà đã làm. Thầy quay ra hỏi... Bà
đã nhìn nhận ... Bà đã tỏ ra liều lĩnh có suy tư trong đức tin để có thể nhận
được sự sống nhờ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu. Sống đức tin là phải liều
lĩnh có suy tư.
Trong Tông thư Phẩm giá phụ nữ, Chân phước
giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã nêu bật vai trò của người nữ trong thế giới hôm
nay. Người nữ (cũng như người nam) có một đồng minh rất thế lực trên con đường
đi tới sự giải phóng chân thực, đó là Chúa Thánh Thần. Trong ngôn ngữ Do Thái
cổ (Híp-ri Kinh Thánh), “Thần Khí” là Ruah, là một danh từ giống cái. Dường như
giữa Chúa Thánh Thần và phái nữ có một liên hệ bà con! Phải
chăng người nữ ở về phía Thánh Thần? Không cần phải
nhấn mạnh trên điểm này, chúng ta vẫn biết là có một quan hệ mật thiết giữa
Chúa Thánh Thần và người nữ. Bởi vì Kinh Thánh gọi Thánh Thần là “Đấng
Bảo Trợ”, “Đấng an ủi”, và “Thần Khí sự sống”, Đấng “sưởi ấm ai giá lạnh và
chữa lành các thương tích”. Trong thế giới, có ai hơn được
người nữ về những khả năng này?
Lại trở về với các bà để nghe kể truyện Giêsu. Thế rồi ta gặp Thầy Giêsu những ngày còn đi lại
giảng dạy trong Đền Thờ. Hôm ấy “Người thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó
hai đồng tiền kẽm. Nhìn cách ăn mặc là biết bà
góa. Thầy liền gọi các môn đệ: “Xem này, xem này: bà goá nghèo này đã bỏ vào
nhiều hơn ai hết”“ (21,1-3). Thầy
thấy được tấm lòng chân thật và hy sinh của bà. Thế là
Thầy đã lưu ý các môn đệ học lấy bài học đó. Thầy ca
ngợi cử chỉ của bà và đánh giá cao. Trong khi những người kia chỉ cho một cái gì, bà góa này đã cho chính mình. Thầy thấy và biết là người phụ nữ có khả năng đặc biệt, đó là cho
tất cả, là cống hiến sự sống mình. Người phụ nữ có một
sự nôn nóng và nhạy cảm với việc làm cho mọi sự được đầy đủ. Dường như trong quá khứ, có những lần chị em anh em chúng ta co
lại, không dám đánh liều cho đi. Thế là mất một dịp để sống quảng đại
hơn, thế là đã để vuột qua một cơ hội để sống tư cách người nữ người nam trong
xã hội và Giáo Hội hôm nay!
Hôm ấy cùng Thầy Giêsu, chúng ta đến thăm gia đình Mácta và Maria
(10,38-42). Thầy đi với cả đoàn người đấy! Đây là dịp tốt để chúng ta hiểu rằng chỉ có một chuyện cần thiết mà
thôi, đó là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thi hành. Chị
Mácta tất bật quá sức, Maria cứ ngồi đó nghe Thầy. Thầy
khen Mácta ư? Không. Thầy
khen Maria. Vấn đề không phải là thôi quan tâm phục vụ
người khác, nhưng vấn đề là muốn phục vụ tốt người khác, phải sống Lời Chúa.
Một chuyện quá vui là, hôm ấy, chúng ta gặp Thầy Giêsu trong nhà
ông Pharisêu Simôn: đang ăn cỗ, thì một người phụ nữ (7,36-50),
“một người tội lỗi trong thành”, ai cũng biết (c. 37), đi vào. Bất kể các quy ước xã hội, bà không sợ hãi gì cả, bà tiến đến.
Rồi bằng một cử chỉ thú nhận tội lỗi công khai, bà bày tỏ với Thầy Giêsu những
dấu chỉ diễn tả là quý mến, lòng biết ơn và tôn kính mà không một ai đã bày tỏ
với Thầy trước đó: “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người”, “lấy tóc mình mà lau”,
“hôn chân Người”, “và lấy dầu thơm mà đổ lên” (c. 38; x. cc. 44-46). Lòng biết ơn của bà chan hòa đến độ bà không ngại xõa tóc ra để lau
chân Đức Giêsu, cho dù bỏ khăn và xõa tóc ra trước mặt phái nam là một sự ô
nhục cùng cực.
Chúng ta còn có thể nghĩ đến bà Êlisabét, vợ tư tế Dacaria, một
người biết nhận định về đức tin của chồng mình và người em họ. Nhưng thôi, chúng ta phải dừng lại với người phụ nữ cao cả nhất,
Đức Maria, Mẹ của Thầy Giêsu. Maria là một người thiếu
nữ của miền Galilê xa xôi đã biết ký thác trọn vẹn bản thân cho Lời Chúa được
sứ thần Gabriel chuyển đến. Và thế là Maria trở thành Mẹ, một người Mẹ
rất quý yêu sự sống người con cũng là Đấng Cứu Thế, Con yêu dấu của Thiên Chúa,
quý yêu nhưng tôn trọng, không bao giờ muốn cầm giữ hay chận đứng sự sống đó
lại. Mỗi lần xuất hiện, Maria nói ít nhưng Mẹ hiện diện; sự
hiện diện của Mẹ làm “đầy” tập thể. Mẹ trông chừng trên Hội Thánh phôi thai. Có thể nói lễ Truyền Tin đã là một lễ Hiện Xuống nhỏ,
bởi vì Thánh Thần đã đến và được Đức Maria đón nhận, như là người nữ đơn sơ và
dung mạo cao nhất của đức tin. Do đó, Đức Thánh Cha đã nói trong Tông huấn Niềm
vui Tin Mừng: “Thực ra, một phụ nữ, Đức Mẹ Maria, còn quan trọng hơn các Giám
Mục” (EG, số 104)! Và khi đến cuối Tông huấn (số 286), Đức Thánh Cha đã dạy: “Đức
Mẹ Maria là Đấng biết cách biến một hang nuôi súc vật thành ngôi nhà cho Chúa
Giêsu, với một tã vải nghèo nàn và một núi đầy âu yếm. Mẹ là nữ tỳ bé nhỏ của
Cha, Đấng đã vui mừng hát lên lời chúc tụng Ngài. Mẹ là người
bạn luôn luôn lưu tâm ngõ hầu chúng ta không thiếu rượu trong cuộc sống của
mình. Mẹ là người có trái tim bị lưỡi gươm đâm
thâu qua, Đấng hiểu tất cả nỗi thống khổ của chúng ta. Như Mẹ
của tất cả mọi người, Mẹ là một dấu chỉ của niềm hy vọng cho những người bị đau
đớn vì sinh nở cho đến khi công lý được sinh ra. Mẹ là nhà truyền giáo
đến gần chúng ta để đồng hành với chúng ta trong cuộc sống, mở lòng chúng ta ra
với đức tin bằng tình mẫu tử của Mẹ. Như một người Mẹ thật, Mẹ bước đi với
chúng ta, chiến đấu với chúng ta, và không ngừng tuôn đổ sự gần gũi của tình
yêu Thiên Chúa cho chúng ta”.
3.- Kết luận
Như thế, giáo huấn của Đức Giêsu về đời môn đệ thì có khắp
nơi trong Tin Mừng Luca, nhưng các phụ nữ có đó như những tấm gương về lắng
nghe và sống giáo huấn của Người. Họ
cũng đáng được trân trọng. Có lẽ cảm thấy được trân trọng quá, nên một
bà đã cầu nguyện cho chồng rất thật như sau:
Lạy Chúa, con xin Chúa ban cho con ơn khôn ngoan để con hiểu một
người đàn ông.
Con xin Chúa ban cho con tình yêu để con biết tha thứ cho ông ta, và con xin Chúa ban cho con ơn kiên
nhẫn để con chấp nhận được tính khí thất thường của ông ta. Nhưng con không xin
sức mạnh,
Tại vì nếu con xin có sức mạnh, con sẽ đánh ông ta đến chết thôi.
Nhưng chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria: sống giản đơn, rộng lượng,
trung tín, để cũng như Mẹ, chúng ta không ngần ngại trao ban Chúa Giêsu cho
người khác, để sinh hạ và dưỡng nuôi sự sống của Đức Giêsu ngay trong lòng Mẹ
và nơi người khác, và để can đảm đứng bên cạnh những Đồi Sọ của thế giới này, vì
thế giới hôm nay tiếp tục xây lên những Đồi Sọ mới, để chứng kiến sự đau đớn
của Chúa Giêsu như Đức Maria đã từng chứng kiến nơi Đồi Sọ ngày xưa, rồi lại
vui mừng đón Người sống lại. Tại Đồi Sọ hôm ấy, cũng như tại “những Đồi Sọ mới”
hôm nay, những xã hội trong đó con người sống ích kỷ, vô cảm với người khác đến
mức vô nhân đạo, khiến sự sống con người bị chà đạp và phẩm giá con người bị
xúc phạm, bởi vì người ta không tôn trọng Thiên Chúa, là Chủ sự sống, là Đấng
ban phẩm giá cho mỗi người. Ở trại tập trung Đức quốc xã
Lm FX Vũ Phan Long, OFM,