Lời nguyện Thánh Vịnh và cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô
Phần II
Đức Ki-tô bị kết án và thân thể nát tan
Trong lời nguyện Thánh Vịnh, có một dữ kiện kỳ lạ, đó là những
tai họa như có khuynh hướng hội tụ lại: người bị kết tội phải ra tòa gần như
luôn là người bệnh (thân thể tiều tụy, nát tan); và người bệnh gần như luôn là
người bị kết tội. Và dữ kiện này loan báo và được làm sáng tỏ bởi cuộc Thương
Khó của Đức Ki-tô ; bởi lẽ, mọi tai họa, tội lỗi và sự chết, đều hội tụ
nơi ĐKT chịu đóng đinh.
I. Bệnh nhân và nạn nhân
Người bệnh kêu lên trong lời nguyện Thánh Vịnh thường đồng thời
là nạn nhân của những người khác. Người này không chỉ đau khổ vì thân thể của
mình bị thương tổn, nhưng còn vì bị người khác bỏ rơi; và không chỉ bị bỏ rơi,
nhưng còn bị ruồng bỏ; và còn hơn cả bị ruồng bỏ, người này còn bị săn đuổi và
thậm chí bị tố cáo, bị lên án, bị thù ghét.
Trong Tv 6, người thốt lên lời nguyện: “Lạy Đức
Chúa, xin chữa lành con” (v. 3), đã cầu nguyện như là một bệnh
nhân; thế mà, cũng chính người này đã mơ ước có ngày, khi Đức Chúa nhận lời, kẻ
thù của mình sẽ thối lui:
Ước gì hết mọi kẻ thù tôi
phải nhục nhã, rụng rời kinh khiếp,
vội tháo lui, nhục nhã ê chề.
(Tv 6, 11)
Người kêu cầu bị đau ở mắt, ở cổ họng, trong nội tạng, nơi xương
cốt … khiến cho sức lực và sự sống của mình bị hao mòn. Thế mà, bè bạn lại lẫn
tránh, và hơn thế nữa, lại thêm kẻ thù đang tìm cách hãm hại :
Con đã nên trò cười cho thù địch
và cho cả hàng xóm láng giềng.
Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh
xa.
Bị lãng quên, như kẻ chết không người
tưởng nhớ,
con hoá thành đồ hư vất bỏ.
Con nghe thấy những lời độc địa của
bao người,
nhìn chung quanh : toàn những điều khủng
khiếp.
Chúng toa rập chống con, và mưu toan
lấy mạng.
(Tv 31, 12-14)
Chúng ta có thể tự hỏi: âm mưu hại người như thế để làm gì, khi
mà người đó đang bị bệnh nặng? Trong Tv 38, sau khi mô tả rất chi tiết về bệnh
tật của mình, người đau khổ còn nói mình bị bạn bè bỏ rơi, và bị tố cáo bởi kẻ
xấu :
Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần,
bà con ruột thịt cũng đứng xa.
Kẻ tìm giết con bủa giăng cạm bẫy,
đứa mưu hại con buông lời độc địa,
suốt ngày chúng nghĩ kế phỉnh gạt con.
(Tv 38, 12-13)
Con làm ơn thì chúng trả oán,
con theo đuổi điều lành, chúng lại tố cáo con.
(Tv 38, 21)
Người bị bệnh “liệt giường liệt chiếu” (Tv 41, 4) kêu
lên: « Lạy CHÚA, xin thương xót và chữa lành con » (v. 5),
không chỉ bị kẻ thù lên án mà còn bị bạn bè phản bội :
Lũ địch thù buông câu nguyền rủa
bao giờ nó mới chết, cho tên tuổi xoá
nhoà ?
(Tv 41, 6)
Cả người bạn thân con hằng tin cậy,
đã cùng con chia cơm sẻ bánh,
mà nay cũng giơ gót đạp con !
(Tv 41, 10)
Người bệnh vốn ngày không ăn, đêm không ngủ, đến độ chỉ còn da bọc
xương, nhưng còn bị kẻ thù nguyền rủa nữa :
Quân thù địch cả ngày phỉ báng,
giận điên lên, chúng nguyền rủa thân
này.
(Tv 102, 9)
Chúng ta vừa nêu ra những dữ kiện đến từ chính bản văn Thánh Vịnh.
Những dữ kiện này đã làm cho mọi người kinh ngạc. Để giải thích, người ta thường
dừng lại ở bình diện khách quan, và cố đi tìm những dữ kiện tương tự có ở mọi
thời và mọi nơi, dựa vào sự khôn ngoan của các dân tộc và kinh nghiệm cá nhân.
II. Tương quan giữa bệnh tật và tội lỗi
Chúng ta sẽ đúc kết những giải thích theo những hướng khác nhau,
và sau đó, sẽ tìm cách dẫn những giải thích này tới điểm chính yếu liên quan đến
mầu nhiệm cứu độ.
1. Bị buộc tội nên bị bệnh
Ở bình diện khách quan, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong
các nhà tù, những người vừa bị kết án và vừa bị bệnh. Trường hợp nghiêm trọng
nhất, đó là người bị kết án chết: người này sẽ bị đưa đến chỗ vừa mất mọi tương
quan thân hữu và vừa mất sự sống của mình. Đó chính là hoàn cảnh của người kêu
cầu trong Tv 22: “Tại sao Ngài đã bỏ rơi con?” Trong trường
hợp này, chúng ta có thể nói rằng người kêu cầu bị bệnh vì có kẻ thù.
Ngoài ra, ở nơi các dân tộc xa xưa, và đôi khi ngày nay vẫn còn
tồn tại, kẻ thù của người kêu cầu có thể làm cho người này bị bệnh bằng cách
« bỏ bùa ». Trong Kinh Thánh, có một số câu có lẽ có dính líu đến
chuyện bỏ bùa (x. Tv 38, 13; 69, 24 ; và 2 Sm 3, 29) !
Tuy nhiên, tương quan giữa bệnh tật và bị kết tội còn có thể
mang nhiều sắc thái khác nữa: kẻ buộc tội do thù ghét chưa cần làm gì cả, nạn
nhân chỉ cần nhận ra sự thù ghét thôi, điều đó cũng đủ làm cho mình ngã bệnh.
Khi tìm cách hiểu những người bị bách hại, chúng ta đôi khi quên đi sự lợi hại
khủng khiếp này của lòng thù ghét. Do đó, chẳng cần gì đến các câu bùa chú để
cho lòng ghen ghét gây tác hại (x. Tv 55, 3b-6). Các Thánh Vịnh minh họa điều
này nhất là trong trường hợp bệnh tật đi đôi với sự sợ hãi cái chết, với tác động
từ xa mà cái chết ngay bây giờ đã gây ra rồi.
2. Bị bệnh nên bị buộc tội
Có những người khác đã xoay ngược cách giải thích ở trên: có người
buộc tội mình vì mình bị bệnh! Cách giải thích này có thể kiểm chứng được ở
bình diện dân tộc học, khi có một dân tộc tin rằng bệnh tật xẩy đến như một
hình phạt đối với một tội kín ẩn. Thực vậy, người Do thái đã giải thích một
cách tự phát bệnh tật là do tội lỗi (x. Ga 9, 2). Nhưng các dân tộc khác cũng
hiểu như thế ! Chẳng hạn, các cư dân ở Malta, là những người ngoại giáo,
đã chứng kiến con rắn độc cuốn vào tay thánh Phaolô, vốn vừa mới thoát khỏi vụ
đắm tàu, và họ kết luận: “Chắc chắn người này là một tên sát nhân: hắn vừa được
cứu khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lý đã không để cho sống”
(Cv 28, 4). Trở lại với dân tộc Israel, sáchÔng Gióp cho thấy những người bạn của người bệnh,
lúc đầu đã đến để an ủi, nhưng sau đó trở thành kẻ thù và quay ra tố cáo người
bệnh. Ông Gióp chính là kiểu mẫu hoàn chỉnh của người vừa bị bệnh vừa bị kết tội;
vì thế, ông đã lên tiếng giống như các tác giả Thánh Vịnh đã lên tiếng. Ông
Gióp bị phong hủi đầy mình đã không ngần ngại kêu lên: “Thiên
Chúa đã trao tôi cho bọn điên khùng, quẳng tôi vào tay phường gian ác”
(Gi 11, 14 ; 16, 11-20). Quả thực, những người bạn của Gióp, người bệnh phong
ngay lành, đã tố cáo thẳng thừng: “Anh hãy ném xa điều gian ác trong tay, và
không để cho bất công cư ngụ trong lều ! (Gi 11, 14)
Và ông Gióp đã đối đáp lại trong một cuộc tranh đấu nẩy lửa: “Thật vậy,
các anh nói: làm sao săn đuổi nó, để có lý mà cáo tội nó đây? Bấy giờ các anh
hãy sợ lưỡi gươm kề cổ mình, vì cơn giận của các anh đáng tội chết”
(19, 28); nghĩa là theo ông Gióp, khi kết tội người bệnh phong ngay lành, những
người này sẽ chuốc lấy lưỡi gươm phán xét của Thiên Chúa[6]. Chúng ta sẽ phải
vượt qua cách giải thích ở bình diện dân tộc học vốn chỉ dựa trên những thái độ
đặc thù. Thật vậy, như chúng ta sẽ thấy, ông Gióp không phải là nạn nhân của một
tình cảnh thật đặc thù; thảm cảnh của ông diễn ra ở bình diện toàn nhân loại ở
mọi nơi và mọi thời.
III. “Người đã mang lấy các tật nguyền
của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta”
(Mt 8, 11; x. Is 53, 4)
Chúng ta hãy khởi đi từ chính kinh nghiệm sống của mọi người thuộc
mọi nơi mọi thời, theo đó một điều khốn khó thường chẳng bao giờ xẩy ra một
cách riêng lẻ. Những điều khốn khó thường xẩy ra dồn dập và kéo theo
nhau ; chúng thường qui tụ lại từ đâu đâu trên cùng một điểm. Bệnh tật,
nghèo đói, cô đơn hay bị ruồng bỏ có khuynh hướng qui tụ lại với nhau. Mỗi người
chúng ta đều đã có kinh nghiệm về một hay nhiều giai đoạn “xui xẻo”, với những
hoạn nạn đủ loại.
Nhưng đó chưa phải là điều gây ngạc nhiên. Điều gây ngặc nhiên,
chính là trung tâm qui tụ, điểm đầy ứ những khốn khó, lại là nơi mà ở đó luôn
luôn tái hình thành các khuôn mặt mới và trung tâm của Kinh Thánh: chúng ta tìm
thấy ở đó khuôn mặt của người kêu cầu trong các Thánh Vịnh, chúng ta tìm thấy
khuôn mặt của ông Gióp và đặc biệt, khuôn mặt của người mà những lời ngôn sứ của Sách Isaia loan báo. Người này bị đau đớn ở trong
thân xác như ông Gióp, vì vẻ bề ngoài khiến chúng ta nghĩ đến một người bệnh
phong:
Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải
đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không
nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
(Is 53, 3)
Và đồng thời, người này cũng là nạn nhân của một vụ án bất công:
Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu (Is 53, 8). Những lời ngôn sứ trên
phác họa ra khuôn mặt của người đau khổ, như là đã đuợc sống bởi biết bao người.
Kinh Thánh đã cho chúng ta một cuộc hẹn ở « trục lộ » này; và, chúng
ta được mời gọi hiểu lời ngôn sứ này như một sự chờ đợi, cứ được làm mới lại từ
đời này sang đời kia, rằng một người sẽ đến và tương hợp trọn vẹn với điểm hẹn
này, một người sẽ đến từ Thiên Chúa để lấp đầy điểm hẹn này.
Điểm gặp gỡ giữa sự dữ thể lý (bệnh tật) và sự dữ luân lí (con
người hãm hại, kết án nhau) lôi kéo sự chú ý của loài người chúng ta, chính là
vì tương quan của chúng giúp giải đáp một câu hỏi “bí ẩn”: tại sao lại có bệnh
tật, tai họa, đau khổ và sự chết? Con người bị « hút hồn » bởi mối
tương quan này và tìm cách giải thích. Và sự thu hút này không phải là một điều
cổ xưa; bởi vì, không chỉ con người thuộc thời cổ đại mới liên kết tội lỗi với
tai họa, nhưng mọi người đều nhìn thấy, ít nhất ở mức độ vô thức, tội lỗi trong
mọi thất bại, mọi tai họa, và mọi bất lực. Con người, nhất là nạn nhân, không
phân biệt được ở mức độ vô thức, mình là nạn nhân gánh chịu tai họa, hay mình
là nguyên nhân gây ra tai họa.
Hẳn là ý thức sáng suốt của chúng ta vẫn cố cho rằng chẳng có bí
ẩn gì cả trong những chuyện như thế. Vô thức đã sai lầm cũng như chính ý thức
cũng vẫn sai lầm đấy thôi. Vì thế, mọi người và cả chính chúng ta nữa mạnh mẽ
cho rằng chẳng có tương quan gì hết giữa sự dữ thể lý và tội lỗi. Nhưng không
ai có thể thay đổi được những chiều sâu của hữu thể vô thức nơi chính mình với
những tuyên bố hợp lý ! Nhưng dầu sao cũng có một tương quan giữa chúng bởi
sự kiện mọi sự dữ thể lý đều kéo theo, một cách tất yếu như là sự truyền động bằng
bánh răng cưa, một tiến trình buộc tội và mặc cảm tội lỗi thuộc bình diện luân
lý: buộc tội mình, buộc tội người khác, buộc tội Thiên Chúa ; thậm chí,
còn kết án, vì thái độ này không chờ đợi và cũng chẳng tìm kiếm một lời biện hộ
nào của người bị buộc tội. Đó chính điều mà Ông Gióp,
những người công chính bị bách hại lên tiếng trong các Thánh Vịnh và Người Tôi
Tớ Đau Khổ muốn soi sáng cho chúng ta, và qua đó loan báo ơn giải thoát của mầu
nhiệm Thập Giá.
(1) Những người công chính chịu đau khổ, cho thấy đó không phải
vì tội của họ mà bị Thiên Chúa đánh phạt. Và điều này đúng một cách tuyệt đối
nơi Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó. Như thế, chúng ta được chữa lành, được giải
thoát khỏi cảm thức bị đánh phạt vì tội lỗi, khi gặp đau khổ, bệnh tật tai họa.
(2) Trong đau khổ và thử thách, người công chính đau khổ tín
thác nơi Tình Yêu và sự Công Chính của Thiên Chúa, và không để mình rơi vào
vòng xoáy của hành động buộc tội. Thực vậy, ông Gióp đã không để mình rơi vào
vòng xoáy buộc tội. Ông không tuyên bố mình có tội, và cũng không cho rằng
Thiên Chúa đã thi hành sự công bình một cách chung cục. Khi ông Gióp
« trách » Chúa (x. Tv 22 ; 88), thì đó không phải là để nói lời
sau cùng, nhưng ngược lại, chính là để Thiên Chúa lên tiếng, cậy dựa vào lòng
tin cháy bỏng của ông (x. Gi 38).
(3) Chính lòng tín thác nơi Thiên Chúa của người công chính đau
khổ mặc khải hành vi buộc tội là sự dữ, nhưng không phải để kết án, nhưng để chữa
lành. Thực vậy, sự dữ thể lý của ông Gióp mặc khải sự dữ luân lý nơi những người
bạn xấu của ông, họ vốn đã thuận theo vòng xoáy buộc tội. Nhưng mặc khải này
mang lại điều gì tốt lành, nếu chỉ là để những người bạn xấu kia bị kết án?
Chúng ta thấy rằng sự thể xoay theo một chiều hướng khác: ông Gióp là câu chuyện
điển hình của người bệnh bị lên án. Nhưng khi vụ án kết thúc, chính những người
bạn xấu, vốn là những người buộc tội ông Gióp, lại được tha thứ! Đó là vì Sự tín thác sống động của nạn nhân nơi sự công
chính của Thiên Chúa dập tắt mọi lời buộc tội. Ông Gióp, vì đã
thành tâm trong thử thách và đã không sợ lên tiếng trước mặt Thiên Chúa, đã làm
cho những người bạn trở nên lành mạnh, vốn là những người chẳng có vẻ bệnh tật
gì ! Đó không phải là vì ông đã chịu đau khổ dùm cho họ[7], như người ta vẫn
thường nói, nhưng chính là vì ông cho họ thấy bản chất thật sự của họ, điều này
không kết án họ, nhưng chữa lành họ.
Đức Ki-tô, Đấng mà sách ngôn sứ Isaia loan báo, cũng sẽ đem lại
cùng một điều như thế, nghĩa là mặc khải sự dữ và ơn chữa lành, cho những người
đã nói :
Còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người
bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục
nhã ê chề.
(Is 53, 4)
Một ánh sáng không đến từ chính họ, cho họ thấy trong lời buộc tội
này, khuôn mặt thật của họ, và đó chính là điều sẽ cứu thoát họ, nếu họ muốn
nhìn.
* * *
Thập Giá mời gọi chúng ta không kết tội Chúa, cho dù người ta và
Sự Dữ ngang qua người ta kết tội Chúa, vì Chúa vô tội. Và chúng ta cũng không kết
tội mình và người khác, và cả kết tội Chúa, khi gặp mình gặp tai họa, hay người
khác, nhất là những người thân yêu gặp tai họa. Bởi vì :
a. Kết tội tự nó là điều dữ (Sự Dữ kết tội Đức Ki-tô bị lộ
nguyên hình, trong mức độ, cho thấy kết tội là điều dữ ; tội ở nơi người kết
tội, chứ không phải nơi người kết tội.
b. Và cho dù mình và người khác đáng bị kết tội, thì Chúa đã
trao ban sự công chính của Người cho chúng ta rồi, để chúng ta đừng kết tội
nhau :
Trong Đức Ki-tô, không còn lên án nữa.
(Rm 8, 1)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
[1] Kitô học “từ trên xuống” khởi đi từ tín điều “Ngôi Lời nhập
thể”, vốn là điểm tới của cả một quá trình suy tư về đức tin trong 3 thế kỉ đầu
tiên của Giáo Hội. Chúng ta thường được dạy về nội dung các tín điều, chứ không
về quá trình, bối cảnh và lí do tại sao Giáo Hội lại tuyên tín như thế. Trong
khi, hành trình đức tin của các chứng nhân đầu tiên và của Truyền Thống mới là
khuôn mẫu cho niềm tin của các tín hữu mọi thời.
[2] Đối với chúng ta, Đức Kitô trở nên như các thánh mà các nhà
viết tiểu sử chỉ biết ca tụng những nhân đức mà không chịu mô tả bối cảnh của
những nhân đức này.
[3] Chẳng hạn tình cảnh của bà Susana đuợc kể lại trong sách
Đaniel (Đn 13).
[4] Khởi đi các câu Thánh Vịnh được trích dẫn ở đây, chúng ta
nên mở sách Thánh Vịnh ra đọc, và không chỉ đọc các câu trích,
nhưng đọc cả Thánh Vịnh hay ít nhất những câu chung quanh..
[5] Có thể đọc thêm Kn 2, 12-20.
[6] Còn chúng ta, chúng ta được nên công chính nhờ Máu của ĐKT,
vì thế, chúng ta còn còn sợ ai buộc tội nữa, và cũng không buộc tội mình nữa;
vì “trong ĐKT, chúng ta không còn bị lên án nữa” (Rm 8, 1).
[7] Và như chúng ta vẫn thường hiểu như thế về cuộc thương khó của
Đức Giêsu.