AI VÁC THẬP GIÁ, THẬP GIÁ CỦA
AI (Bài 2)
CHÚA GIÊ-SU VÁC THẬP GIÁ
Ngày nào trong thánh lễ, khi chủ tế bẻ bánh thì cộng đoàn
đọc hoặc hát ba lần: “Lạy Chiên Thiên Chúa…” Rồi trước khi cho cộng đoàn
rước Mình Thánh Chúa, chủ tế nâng Mình Thánh lên cao và nói: “Đây Chiên
Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên
Thiên Chúa ». Hai câu này Phụng Vụ lấy ở đâu trong Sách Thánh?
Câu thứ nhất “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”, là lời đầu
tiên ông Gio-an Tẩy giả giới thiệu Chúa Giê-su với dân chúng (Ga 1,
29). Câu thứ hai “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” là
lời trong sách Khải huyền loan báo Tiệc Cưới của Con Chiên (Kh 19,
6-9) trước khi diễn ra hai trận chiến quyết liệt đánh bại Con Rắn Xưa và bè lũ
tay sai của nó (Kh 20) để Cô Dâu có thể xuất hiện trong vinh
quang rực rỡ (Kh 21, 1-27).
Để hiểu câu thứ nhất, gồm hai vế: Con Chiên
của Thiên Chúa và Đấng xóa tội trần gian, cần
trở lại Cựu Ước: sách Sáng Thế, chương 22 và sách I-sai-a,
“Bài Ca Người Tôi Tớ Đau Khổ” (Is 52-13 – 53, 12).
Con Chiên của Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, con chiên là con vật dùng tế lễ trong
nhiều trường hợp (coi sách Xuất Hành, sách Lê-vi). Nhưng cụm
từ “con chiên của Thiên Chúa” không xuất hiện nguyên dạng, mà hàm chứa trong
câu chuyện ông Ap-ra-ham vâng lời Thiên Chúa đem con một yêu dấu là I-xa-ác (St 22).
Thiên Chúa nói với ông:
“Hãy đem con của ngươi, đứa con
một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ
toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.
3 Sáng hôm sau, ông
Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ
củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo.4 Sang
ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa.5 Ông
Áp-ra-ham bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên
tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
6 Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai
I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi.7 I-xa-ác
thưa với cha là ông Áp-ra-ham: “Cha! “8 Ông Áp-ra-ham đáp: “Cha
đây con! ” Cậu nói: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu? ”
Ông Áp-ra-ham đáp: “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ.”
Rồi cả hai cùng đi.
9 Tới nơi Thiên Chúa đã
chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại,
và đặt lên bàn thờ, trên đống củi.10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay
ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
11 Nhưng sứ thần của ĐỨC
CHÚA từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham! “Ông thưa: “Dạ, con đây! “12 Người
nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con
của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc! “13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy
phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt
con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
Đây là một đoạn văn kể chuyện với nghệ thuật tuyệt vời,
và kịch tính mãnh liệt. Suốt đời ông Áp-ra-ham cầu xin, mong đợi co đứa con nối
dòng theo lời Thiên Chúa đã long trọng thề hứa với
ông (x. St 15). Thiên Chúa để ông chờ mỏi mắt, mãi tới
năm ông mừng thọ 100 và vợ ông 90 tuổi, ông bà mới được hưởng niềm vui này.
Niềm vui đã khiến hai ông bà lần lượt cười suốt năm, đứa con ấy sẽ làm cho mọi
người cười, và cái tên gọi “I-xa-ác” (Ông Cười) như hứa hẹn nụ cười không bao
giờ tắt… Hãy đếm những lần động từ cười xuất hiện trong ba bản văn sau đây liên
quan tới chuyện này, và chú ý lần cuối: “Mọi người nghe biết sẽ cười với
tôi” (tôi dịch lại câu này)
15 Thiên Chúa phán với ông
Áp-ra-ham: “Xa-rai, vợ ngươi, ngươi không được gọi tên là Xa-rai nữa, nhưng tên
nó sẽ là Xa-ra.16 Ta sẽ chúc phúc cho nó, Ta còn cho nó sinh
cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho nó, nó sẽ trở thành những dân tộc;
vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó.17 Ông Áp-ra-ham cúi rạp
xuống; ông cười và
nghĩ bụng: “Đàn ông trăm tuổi mà có con
được sao? Còn bà Xa-ra đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao?“ (St 17, 15-17).
9 Khách nói với ông: “Bà
Xa-ra vợ ông đâu? ” Ông đáp: “Thưa nhà tôi ở trong lều.”10Người nói:
“Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con
trai.” Bà Xa-ra bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau.11 Ông
Áp-ra-ham và bà Xa-ra đã già nua tuổi tác, và bà Xa-ra không còn điều thường
xảy đến cho đàn bà.12 Bà Xa-ra cười thầm tự bảo: “Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà
mình lại là một ông lão! “13 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ra-ham: “Tại sao Xa-ra lại cười và nói: “Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng?14 Nào
có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA? Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm
ngươi, và Xa-ra sẽ có một con trai.”15 Bà Xa-ra chối và nói: “Con đâu có cười! ” Vì bà sợ. Nhưng Người bảo: “Có, ngươi đã cười! ” (St 18,
9-15)
1 ĐỨC CHÚA viếng thăm bà
Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa.2 Bà
Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời
kỳ Thiên Chúa đã hứa.3 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho đứa con sinh
ra cho ông là I-xa-ác, đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông.4 Ông
Áp-ra-ham cắt bì cho I-xa-ác, con ông, lúc nó được tám ngày, như Thiên Chúa đã
truyền cho ông.5 Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi sinh được
người con là I-xa-ác.6 Bà Xa-ra nói:
“Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; mọi
người nghe biết sẽ cười với tôi.” (St 21,
1-6)
Nhưng rồi một hôm Thiên Chúa tỏ ra như muốn lấy lại nụ
cười muộn màng này của hai ông bà khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn nhận lại “Ông Cười”
như một của lễ toàn thiêu. Lời Thiên Chúa phán từng lời như ngắt từng mảnh quả
tim già của ông Áp-ra-ham [tôi dịch sát]:“Hãy đem con của ngươi, đứa con một của ngươi mà ngươi
yêu dấu làI-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng
nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên
một ngọn núi mà Ta sẽ bảo ngươi.” Thậm chí ngọn núi nào
Thiên Chúa cũng chưa cho biết, cũng như từ đầu Thiên Chúa bảo ông ra đi đến
miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi, khiến ông ra đi mà không biết mình đi đâu (x. Hr 11,
8). Hôm nay ông lại bt đầu một khúc quanh vô định mới: trả lại nụ cười cho
Thiên Chúa tại một ngọn núi mà ông chưa biết, nó ngầm chứa cả một tương lai vô
định: những lời thề hứa của Thiên Chúa sẽ ra sao? Dòng dõi của ông đâu? Ông cảm
thấy như mình đang bị thả cho rơi tự do trong không gian!
Ông không đáp lại một tiếng, chỉ lặng lẽ một mình “dạy sớm,
thắng lừa, rồi đem hai người tôi tớ trẻ và đem I-xa-ác con mình theo, rồi chẻ
củi để dùng cho lễ toàn thiêu, rồi trỗi dạy đi tới nơi Thiên Chúa đã bảo ông”.
Con đường như dài vô tận, chỉ nghe bước chân người nhẹ nhàng và tiếng bước chân
lừa lộp cộp hòa theo. Mãi đến ngày thứ ba ông Áp-ra-ham ngước mắt
lên mới thấy nơi đó ở đàng xa. Đoàn lữ hành nhỏ bé tách
làm hai: Ông Áp-ra-ham bảo hai người tôi tớ với con lừa ở lại, “cha con tôi đi
lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ phượng rồi sẽ trở lại với các anh”.
Lời ông Áp-ra-ham kín đáo, như hé cho chúng ta một tia hy vọng vẫn còn chập
chờn cái thinh lặng trên đường hai ngày nay. Nói rồi, ông lặng lẽ chuyển “củi
dùng cho lễ toàn thiêu” từ lưng lừa lên vai I-xa-ác con ông, còn ông cầm lửa và
dao trong tay, “rồi cả hai cùng đi”.
Hãy thinh lặng nhìn từng bước và nghe kỹ từng lời trong
chuyến lên núi trang trọng này. Từ khi Ông Cười ra đời tới hôm nay chúng ta mới
được nghe Ông nói, còn người cha già Áp-ra-ham thì đang được nghe con gọi lần
cuối: “Ba ơi!” Và đây cũng là lần cuối ông được nói với con:
“Ba
đây, con ơi!” Hãy nhìn đôi mắt ngây thơ như nai vàng ngước lên cha,
và giọng của một cậu bé đang đi bên cha trong cuộc hành trình trang trọng lên
núi để tế lễ, ngỡ ngàng hỏi cha: “Lửa và củi đây, còn con chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?”
Hãy thử vào trong trái tim người cha già này mà nghe âm vang và cảm nghiệm…
Nhưng một lần nữa ông lại bất ngờ hé cho chúng ta thấy, trong đáy lòng ông niềm
hy vọng vẫn sáng: “Chiên làm lễ toàn thiêu, Thiên Chúa sẽ lo liệu cho mình, con
của Ba à!” Rồi cả hai cùng đi.
Một sự thinh lặng, thanh thản và những bước chân cuối
cùng. Rồi hãy nhìn Ông Áp-ra-ham trân trọng dựng bàn thờ, xếp từng cây củi lên
trên. Ông đang dọn chiếc giường cuối cùng cho con ông. Hãy nhìn ông trói con
lại và đặt con lên trên cái giường kỳ lạ này. Hãy nhìn đôi mắt I-xa-ác ngơ
ngác, nhìn đôi mắt người cha già… Không biết mỗi người đang nghĩ gì trong long.
Bây giờ hãy nhắm mắt lại, vì cử chỉ hãi hùng nhất sắp diễn ra đấy. “Ông
Áp-ra-ham đưa tay ra… cầm lấy dao… để sát tế đứa con của mình”, đứa
con một của mình, đứa con mình yêu dấu, đứa con mang tên Ông Cười… Nụ cười sắp
được ngọn lửa từ cái giường cuối cùng ông dọn cho con, biến thành làn khói bay
lên trời…
Nhưng bỗng có tiếng uy nghi từ trời vang lên, liên tiếp
hai lần “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!” như gọi giật để kịp ngăn tay
ông Áp-ra-ham lại trước khi ông kịp cầm lấy dao giơ lên. “Đừng giơ
tay lên hại đứa trẻ, đừng làm gì nó!” Thiên Chúa long trọng tuyên
bố đón nhận lòng thành của ông: “Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kinh sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của
ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”
Thế là Ông Cười được xuống khỏi cái giường đặc biệt của
cha dọn trên núi, để trở về với cái giường mẹ dọn trong lều mỗi đêm. Nhưng ngọn
núi không tên bây giờ có tên: “Núi Chúa Lo Liệu”, đứng mãi với thời gian để làm
chứng về lòng tin của một người dám “trông cậy khi không còn gì để cậy trông” (Rm 4,
18), vì tin vào “Chúa Lo Liệu” và làm chứng về lòng yêu thương và thành tín của
Thiên Chúa, Đấng giữ lời hứa, “Đấng không bao giờ để kẻ trông cậy vào Người
phải thất vọng”, khiến chúng ta dám cầu xin: “Xin đổ tình thương xuống chúng
con, lạy Chúa, như chúng con hằng trong cậy nơi Ngài – Con trông cậy nơi Ngài,
lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ”, ở cuối kinh “Lạy Thiên
Chúa” (Te Deum).
Nhưng người kể chuyện lại ngừng ở đây, không kể nỗi vui
mừng của ông Áp-ra-ham vì được giữ lấy nụ cười Thiên Chúa đã nhận như hương
thơm nhưng không biến thành khói, rồi cho lại ông. Và thay vì một đứa con duy
nhất, Thiên Chúa cho ông một niềm hy vọng mới: “Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời
gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa16 và nói: “Đây là sấm ngôn của
ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã
làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi,17 nên
Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều
như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển.”
“Ông Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông; họ đứng dậy và cùng
nhau đi đến Bơ-e Sê-va”. Nghệ thuật kể chuyện ở đây đạt tới đỉnh
cao bằng nghệ thuật tạo hình, giống như điện ảnh ngày nay: lấy cận
ảnh cho chúng ta nhìn ông Áp-ra-ham một mình đi xuống núi. Sự
vắng mặt của một đứa con, “hai cha con cùng đi” lên núi, được thay bằng hình ông
một mình xuống núi, gợi cho chúng ta nhớ là sau khi hiến tế đứa con một, ông
đang mang một sứ mạng mới: ông đang ôm cả một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển không
ai đếm nổi cùng đi xuống núi…
Câu chuyện mời chúng ta cùng với ông Áp-ra-ham rời “núi
Chúa Lo Liệu” để nhìn về một chân trời mới. Sách Tin Mừng Gio-an cho
chúng ta thấy Thiên Chúa lo liệu cho mình một con chiên để làm lễ toàn thiêu
như thế nào, và “Con Chiên của Thiên Chúa” sẽ làm cho lời hứa “một dòng
dõi đông đúc như sao trời cát biển” thành sự như thế nào.
Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.
Thiên Chúa sẽ làm cho dòng dõi Áp-ra-ham sẽ nên đông đúc
như sao trời cát biển bằng cách nào?
Tin Mừng Mát-thêu sẽ kể cách biến hóa nhiệm màu, tiếp tục
câu chuyện từ lúc ông Áp-ra-ham xuống núi: “núi Thiên Chúa đã truyền cho ông Áp-ra-ham đem con lên tế lễ”
và tại đó Thiên Chúa xác nhận lại lời hứa về dòng dõi, bây giờ là “ngọn núi
Người đã truyền cho các ông đến”, Đức Giê-su phục sinh sai môn đệ
đi làm cho muôn dân thành dòng dõi Áp-ra-ham nhờ Tin Mừng và phép rửa (xin đọc
trong cuốn sách của tôi “Tự đáy lòng” [Tĩnh Tâm với Tin Mừng Mat-thêu] đã
xuất bản năm 2017).
Tin Mừng Gio-an tiếp tục câu chuyện từ lúc đi lên ngọn núi
sẽ mang tên là “Núi Thiên Chúa Lo Liệu” và Con Chiên mà Thiên Chúa sẽ lo liệu
cho mình, “Con Chiên của Thiên Chúa”. Con Chiên này sẽ làm
cho lời hứa kia thành sự thật bằng cách “xóa bỏ tội trần gian”, “Người cho tất
cả những ai đón nhận Người, tức là tin vào Danh Người, quyền trở nên con Thiên
Chúa” (Ga 1, 12). Con Chiên Thiên Chúa lo liệu cho mình
là chính Con Một của Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,
16).
Cách thức Thiên Chúa thực hiện điều này khiến chúng ta
phải ngỡ ngàng kinh khiếp, nhưng lại không được phép nhắm mắt mà phải mở mắt
đức tin ra mà nhìn lên: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng
sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”
(Ga 3,
14). [Xin đọc lại câu chuyện “con rắn bằng đồng” trong sách Dân Số (21,
9) và lời giải thích trong sách Khôn Ngoan: “Họ được một dấu hiệu cứu thoát, nhắc họ nhớ đến luật Ngài truyền.
Vì bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu thoát, không phải do bởi
vật họ nhìn, nhưng là do chính Ngài, Đấn cứu độ muôn người hết thảy”
(Kn 16,
6-7).
Gio-an sẽ tìm thấy lời giải thích:
Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha, làm thượng
tế năm ấy, nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả,50 các ông cũng
chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn
là toàn dân bị tiêu diệt.”51 Điều đó, ông không tự mình nói ra,
nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân,52 và không
chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
khắp nơi về một mối. (Ga 11,
49-52)
Từ tiệc cưới Cana, Đức Giê-su đã kín đáo nói tới “giờ của
tôi chưa đến” (Ga 2, 4). Dịp lễ Vượt Qua ở Giê-ru-sa-lem cùng
với các môn đệ lần đầu tiên Người đã nói các bí ẩn về việc “phá Đền
Thờ” và “dựng lại Đền Thờ”. Nhưng mãi sau này, khi Người từ cõi
chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó và hiểu ra: “Đền Thờ
Đức Giê-su nói ở đây là chính thân thể Người”. “Họ tin
vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.” (Ga 2,
21-22)
Người nhận ra tín hiệu giờ ấy đã đến, khi những người Hy
Lạp lên dự lễ Vượt Qua xin gặp Người. Lúc ấy Người thoáng rùng mình khiếp sợ,
không biết nói gì.
27 “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con
đã đến.28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ
trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa! “29 Dân
chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm! ” Người khác lại bảo:
“Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy! “30 Đức Giê-su đáp:
“Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.31 Giờ
đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp
bị tống ra ngoài!32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi
người lên với tôi.”33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ
phải chết cách nào. (Ga 12, 27-33).
Người chập nhận đi vào giờ này, vì “Những
việc đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng
như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14, 31).
Áp-ra-ham đã không tiếc con một của mình, đã đem con đi
tế lễ đúng như Thiên Chúa truyền, tại nơi Thiên Chúa chỉ định. Bây giờ thì
Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người đối với loài người, đến nỗi ban chính
Con Một cho thế gian; “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8, 32).
Thiên Chúa đã tha cho con một của Áp-ra-ham, ngăn tay ông
lại khi ông đưa tay ra cầm lấy con dao để sát tế con đã đặt sẵn trên đống củi:
“Đừng
giơ tay hại đứa trẻ!” Thiên Chúa không chịu thua lòng quảng đại của
Áp-ra-ham. Áp-ra-ham tự tay chẻ củi rồi tự tay chất củi lên vai con. “Rồi hai
cha con cùng đi”. Ông tự tay dựng bàn thờ, tự tay chất củi lên bàn
thờ, tự tay trói con và đặt lên bàn thờ. Ông giơ tay cầm lấy dao để tự tay sát
tế con. Lúc này Thiên Chúa mới can thiệp, gọi giật và bảo ông “đừng giơ
tay hại đứa trẻ!”
Con của Thiên Chúa đã trở thành con của Áp-ra-ham. Trong
tư cách là con của Áp-ra-ham, Chúa Giê-su biểu lộ lòng yêu mến Thiên Chúa như
Áp-ra-ham và I-xa-ác. Trong tư cách là Con Thiên Chúa, Chúc Giê-su biểu lộ tình
yêu của Thiên Chúa cho loài người, chu toàn Ý Cha, “để cho thế gian biết Thầy
yêu mến Cha”, và biết Cha yêu mến thế gian tới mức nào.
I-xa-ác vác củi, Áp-ra-ham cầm dao và lửa. Hai cha con
cùng đi lên núi Thiên Chúa đã truyền. Chúa Giê-su Con Thiên Chúa tự vác lấy
thập giá đi ra, đến nơi gọi là Núi Sọ cho người ta đóng đinh. Ta tưởng Chúa
Giê-su đi một mình, nhưng chính Chúa đã nói với các môn đệ: “32 Này
đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để
Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với
Thầy” (Ga 16, 32). Chúa Cha cùng đi với Con Một của mình
đang vác thập giá, như Áp-ra-ham cùng đi với con một I-xa-ác đang vác củi. Và
sẽ không có ai để ngăn tay Chúa Cha được nữa… Chúa Giê-su sẽ công bố: “Đã hoàn
tất” (Ga 19, 30). Thế là câu chuyện Áp-ra-ham đem con
lên núi để dâng làm củ lễ toàn thiêu giúp ta hiểu ý nghĩa việc Chúa Giê-su tự
vác lấy thập giá, không có ai vác đỡ, trong ách Tin Mừng Gio-an.
“Đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy”
Ý muốn của Thiên Chúa mà Chúa Giê-su thi hành triệt để thì
Tin Mừng Gio-an cho chúng ta biết là Thiên Chúa đã biểu lộ từ đầu Sách Thánh,
qua hình ảnh Áp-ra-ham và I-xa-ác và Con Chiên làm của lễ mà Thiên Chúa lo liệu
cho mình, hình ảnh Con Chiên Vượt Qua là con chiên làm dấu chỉ ơn cứu độ Thiên
Chúa đã ban cho dân của Người, “Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần
gian”, lại được diễn tả qua hình ảnh người tôi tớ đau khổ của sách I-sai-a (53,
12 – 52, 13). Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh đọc bài này trước khi đọc bài Thương
Khó theo thánh Gio-an.
Chúa Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa, vì là Con Chiên
Thiên Chúa tự lo liệu cho mình. Chúa Giê-su lại là Con Chiên Vượt Qua đích thật
đem ơn giải thoát khỏi tội lỗi. Con chiên vượt qua mà dân chúa đã ăn tại Ai-cập
trở thành dấu hiệu của ơn giải thoát và hàng năm họ cử hành lễ Vượt Qua, ăn con
chiên vượt qua để nhớ nguồn gốc của mình là dân nô lệ được Thiên Chúa giải
thoát. Con Chiên của Thiên Chúa thành Con Chiên Vượt Qua đích thật để đem ơn
giải thoát khỏi tội lỗi bằng cách xóa bỏ tội trần gian. Xóa bỏ bằng cách nào?
Bằng cách mang vào thân mình và đóng đinh nó vào thập giá (x. Cl 2, 34), gánh
lấy mọi hậu quả vào thân như những hình phạt:
4 Sự thật, chính người đã mang lấy những
bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
5 Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.
6 Tất cả chúng ta lạc lõng
như chiên cừu,
lang thang mỗi người một ngả.
Nhưng ĐỨC
CHÚA đã đổ trên đầu người
tội lỗi của tất cả chúng ta.
7 Bị ngược đãi, người cam
chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng. (Is 53,
4-7)
Hình ảnh con chiên là cầu nối nhưng hình ảnh này. Thánh
Phê-rô cũng chỉ cho cbúng ta thấy:
18 Anh em hãy biết rằng
không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu
thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.19 Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô
tỳ tích, là Đức Ki-tô.20 Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ
trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong
thời cuối cùng này.21 Nhờ
Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và
ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên
Chúa. (1Pr 1, 18-20)
Trình thuật Cuộc Thương Khó của Gio-an xoáy
vào hình ảnh Con Chiên Vượt Qua. Lễ quan trọng nhất của dân Chúa trong Cựu Ước
là lễ Vượt Qua. Cấu trúc Tin Mừng Gio-an lấy lễ này làm cột mốc, nêu lên ntới
ba lần: lần thứ nhất (ch. 2) Chúa Giê-su thanh tẩy Đền Thờ và loan báo Đền Thờ
Mới. Lân thứ hai (ch. 6) Chúa Giê-su nuôi dân trên núi trong nơi hoang vắng và
nói về Manna đích thực. Lần thứ ba (ch.12-19) thì Chúa Giê-su là Con Chiên Vượt
Qua đích thật.
Gio-an khởi đầu và kết thúc trình thuật Cuộc Thương Khó
với mốc thời gian: sáu ngày trước lễ Vượt Qua (12, 1; x. Xh 12, 3) là ngày mỗi
gia đình phải sắm con chiên Vượt Qua (ngày mồng mười, chiều ngày 14 khi mặt
trời lặn thì sát tế và tối hôm đó thì ăn – tức là ngày 15, vì ngày mới bắt đầu
khi mặt trời lặn và kết thúc khi mặt trời lặn, khác với chúng ta, tình ngày từ
lúc mặt trời mọc), như vậy từ lúc sắm con chiên tới lúc ăn là 6 ngày. Sáu ngày
trước lễ Vượt Qua, Chúa Giê-su, Đức Giê-su đến làng Bêtania, trong gia đình gồm
ba người mà Dức Giê-su yêu mến và đã cho Ladarô ra khỏi mồ sau khi đã chôn được
4 ngày. Trong bữa ăn, cô Maria đem một cân dầu thơm quý giá xức lên chân Đức
Giê-su. Việc này gợi cho ta liên kết với quy định sắm chiên Vượt Qua sáu ngày
trước.
Bữa Tiệc Ly trong các Tin Mừng Nhất Lãm là bữa ăn lễ Vượt
Qua (con chiên vượt qua). Còn trong Tin Mừng Gio-an thì tối hôm sau mới là lễ
Vượt Qua. Ngày dọn mừng lễ Vượt Qua, lúc 12 giờ trưa, người ta đem con chiên
lên Đền Thờ giao cho tư tế và khoảng ba giờ chiều thì bắt đầu sát tế.
Khoảng mười hai giờ trưa, Phi-la-tô đưa Chúa Giê-su ra
trước mặt dân lần cuối. Các thượng tế gào lên tuyên
xưng lòng trung thành với hoàng đế Xê-da, và đòi dóng đinh Chúa
Giê-su. “Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ [các
thượng tế] đóng đinh vào thập giá” (Ga 19,
16). Chiên vượt qua phải được sát tế trong Đền Thờ do tay các tư tế. Chúa Giê-su
là Con Chiên của Thiên Chúa, nên được sát tế trên thập giá do tay các thượng
tế.
Không được đánh giập cái xương nào của con chiên Vượt Qua
(Xh 12,
46), Chúa Giê-su cũng không bị đánh giập cái xương nào. Theo Tv 34,
21 thì người ẩn náu nơi Chúa cũng được bảo đảm: “Xương cốt họ đều được giữ gìn,
dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34/33, 21).
Thế là chi tiết này lại nối kết với hình ảnh người tôi tớ đau khổ của I-sai-a
nữa.
Chúa Giê-su Con Thiên Chúa làm người, quả là Con Chiên
Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian qua con đường của người
tôi tớ đau khổ. Gio-an kể Chúa Giê-su tự vác lấy thập gía đi ra,
tới nơi cho người ta đóng đinh Người vào thập giá, gợi cho chúng ta nhớ rằng “Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế gian”.
(Muốn hiểu thêm, xin đọc trong cuốn “Ngài đến đây làm gì?” và nhất
là đọc trọn sách Tin Mừng Gio-an cùng với những sách liên hệ trong Cựu Ước).
Giêrusalem, ngày Thứ Ba trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh năm 2018
L.M. Giuse Nguyễn Công Đoan s.j.