KHÁM
PHÁ LẠI CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU
TRONG
CUỘC ĐỜI MÌNH
Các
sách Tin mừng trình thuật biến cố Đức Giêsu chịu tử nạn bắt đầu từ bữa tiệc ly.
Truyền thống phụng vụ của Giáo hội cũng cử hành cuộc khổ nạn của Đức Giêsu bắt
đầu bằng việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể vào tối Thứ Năm Tuần Thánh.
Tận
dụng những ngày cuối mùa chay, chúng ta nhìn lại cuộc đời mình trong cuộc
thương khó Chúa Giêsu:
- Để đi
vào Tuần Thánh với tâm tình sâu lắng và hiệp thông với Chúa hơn.
-
Để thấy rõ mình hơn qua các nhân vật trong cuộc thương khó của
Chúa.
-
Để làm một cuộc hoán cải sâu xa hơn, nhờ đó có khả năng góp phần
với Chúa để đem lại niềm vui ơn cứu độ cho anh chị em mình.
I. BỮA TIỆC LY
Chúa Giêsu ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, cũng là bữa tiệc cuối
cùng trên dương thế, gọi là bữa Tiệc Ly. Đó là bữa tiệc linh thiêng vì Ngài để
lại một di chúc kép cho các môn đệ, là việc rửa chân cho các ông và việc lập Bí
tích Thánh Thể, đi liền với Bí tích Truyền chức. Rửa chân nói lên sự yêu thương
phục vụ con người đến tận cùng mà đỉnh cao là việc hiến thân trên thập giá. Qua
đó Bí tích Thánh Thể được cụ thể hóa, trở nên một thực tại linh thiêng và sống
động trong đời Kitô hữu giữa trần gian.
1. Rửa chân cho các môn đệ
Bữa
tiệc ly bắt đầu bằng một cử chỉ khiêm hạ đến lạ lùng. Chúa Giêsu rửa chân cho
các môn đệ, cho Phêrô và cho cả Giuđa, một anh thì chối Thầy, một anh thì phản
Thầy. Rửa chân là hành động của tôi tớ phục vụ chủ. Rửa chân đòi Ngài phải cuối
xuống thật gần, thật sát, thật sâu để làm công việc mà người ta cho là hèn kém.
Tình yêu đã khiến Ngài hạ mình xuống dưới cả các môn đệ của mình.
Điều đặc biệt ở đây là Ngài
truyền cho họ giới răn mới là “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em”. Đức Giêsu yêu các môn đệ bằng một tình yêu đồng cảm. Ngài biết rõ nhược
điểm và tâm ý không tốt của từng người, nhưng vẫn yêu thương họ. Điều cao vượt
nơi Chúa Giêsu là luôn tha thứ và đón nhận các môn đệ trong mọi tình trạng của
họ. Nhờ đó mà họ luôn có được một cơ may để làm nên cuộc sống mới.
Những người yêu thương chúng ta
thật sự là những người biết rõ những điều tệ hại nhất nơi chúng ta mà vẫn yêu
thương. Tình yêu đích thực thì bao giờ cũng mong cho người kia trở nên tốt hơn,
nhưng vẫn đón nhận những điều chưa tốt.
Bản thân chúng ta có học nổi
bài học khiêm hạ để phục vụ như Chúa Giêsu không?
- Khi nhìn Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, chúng ta hiểu mình phải
thay đổi thái độ và cách cư xử với mọi người. Không sống như một ông chủ, nhưng như một tôi tớ. Không coi mình
là quan trọng nữa, nhưng coi người khác trọng hơn mình.
- Từ khi Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho cả Giuđa, kẻ phản bội, ta mới thấy không ai là không xứng đáng để
cho mình phục vụ. Con người dù đốn
mạt đến đâu, thì Chúa vẫn yêu thương, nên đừng bao giờ khinh dễ bất cứ ai, và
đừng để mình xa lìa tình yêu Chúa.
2. Lập Bí tích Thánh
Thể
“Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng… Rồi
Ngài cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn…” (Mt 26,26-28).
Việc thiết lập Bí tích Thánh Thể đã thực hiện trước dưới
hình thức bí tích về những gì Chúa Giêsu sẽ thực hiện trong Tam Nhật Vượt Qua.
Ngài cho thấy chính Ngài là chiên hiến tế thực sự, nằm trong kế hoạch của Chúa Cha
từ khi thành hình thế gian (x. 1Pr,18-20), để canh tân lịch sử và toàn thể vũ
trụ.“Đó là bí tích tình yêu, dấu
chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc phục sinh, trong đó khi lãnh nhận Chúa
Kitô, tâm hồn ta được tràn đầy ân sủng và bảo chứng cho ta một vinh quang tương
lai” (SC 47).
Qua Bí
tích Thánh Thể: Chúa Giêsu vẫn hiến thân để cứu chuộc loài người chúng ta; vẫn
đang yêu bằng một trái tim bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta; vẫn là Tấm Bánh bẻ
ra để tiếp tục trao ban sự sống mới của Ngài cho nhân loại.
Cử hành
Thánh Thể không phải là một nghi thức hay nghi lễ, mà là một thực tại: biến sự
sống của ta thành sự sống của Chúa, để ta trở thành sự sống cho anh chị em
mình. Bởi vậy, những khó khăn, thử thách và đau khổ hằng ngày của ta, nếu được
nhìn từ Bí Tích Thánh Thể, thì rõ ràng đó là tấm bánh mầu nhiệm đang được bẻ ra
để trao ban cho người khác, đang được nghiền nát dần dần trong từng ngày hiến
thân.
Thánh Thể thật là Mầu Nhiệm vô biên của lòng thương xót
Chúa trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Cũng vì chúng ta mà có Thánh
Thể. Cũng nhờ Thánh Thể mà có chúng ta. Đức Gioan Phaolô II xác quyết: “Ai nuôi mình bằng Chúa Kitô trong Bí Tích
Thánh Thể, không cần đợi chờ một thế giới bên kia để nhận lãnh sự sống đời đời,
họ đã chiếm hữu nó ngay từ đời nầy, như hoa quả đầu mùa của sự sung mãn sẽ tới,
liên hệ đến toàn thể con người”[1].
Cả cuộc đời ta phải thành lời ca cảm tạ và
là chứng nhân tình yêu cho mầu nhiệm rất thánh này.
-
Cũng như Chúa Giêsu, ta hãy hiến dâng thân mình làm của lễ
sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. (Rm 12,1).
-
Trong Chúa Giêsu, ơn gọi đích thực của mỗi người chúng ta là
trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người. Cụ thể là phải chia sẻ, vui chịu những đau khổ hằng ngày, biết nhẫn
nhục để sống cho nhau, vì nhau.
-
Hiệp nhất với Chúa Giêsu Thánh Thể phải đưa đến sự hiệp
nhất với nhau, vì Chúa đang hiện diện ẩn mình nơi anh chị em mình, nhất là nơi
những người nghèo khổ và bất hạnh (x. Mt 25).
3. Đêm tối của Giuđa
Cuối bữa ăn tiệc ly của tuần
rượu thứ nhất, Chúa Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến, Ngài tuyên bố: “Thật Thầy bảo thật anh em, có một người
trong anh em sẽ nộp Thầy. Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói
về ai… (Ga 13,21-24). Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy” (Ga 13,26).
Theo truyền thống Do Thái, chủ tiệc chấm bánh trao
cho một người nào đó, thì đó là một cử chỉ rất ưu ái. Trao
tấm bánh cho Giuđa (x. Ga 13, 26), Chúa muốn mở cho ông một lối thoát sau này.
Ngài muốn các môn đệ khác không hận thù, không tẩy chay, nhưng vẫn để cho Giuđa
là thành viên của nhóm Mười Hai. Ngài mong ông thay đổi dù chỉ là tia hy vọng
hết sức mong manh. Cũng như phần đầu bữa tiệc ly, Chúa Giêsu rửa chân cho Giuđa
để mong ông tỉnh thức, để các tông đồ khác sau này hiểu rằng: dù biết trước sẽ
bị bán đứng, nhưng Ngài vẫn luôn yêu thương Giuđa. Nếu Giuđa nhận ra tình
thương đó, chắc ông đã có một cuộc sám hối đầy hy vọng chứ không đi đến mức
tuyệt vọng.
Điều
này khiến ta nhớ lại điều Daniel Rops đã viết:“Có những lúc lòng người đầy thù hận cho nên một cử chỉ thân thiện
chẳng những không đem người đó trở về với ánh sáng, ngược lại còn khiến người
đó dấn sâu hơn vào đêm tối”. Đó là trường hợp của Giuđa : “Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền ra đi. Lúc đó trời đã tối”
(Ga 13,30).
Thật
ra, trời đã tối từ khi lòng Giuđa tìm cách thực hiện ý riêng mình. Bóng đêm phủ
kín lòng anh khi Satan nhập vào anh, điều khiển anh (c.2 và 27). Anh đã tự
nguyện bước ra khỏi ánh sáng của thế giới để đi vào bóng đêm của những kẻ khước
từ đường lối tình yêu. Phần Đức Giêsu, Ngài đã nỗ lực hết mình để kéo người môn
đệ này ra khỏi đêm tối. Thật đáng tiếc, lòng Giuđa không hề lay chuyển, tâm hồn
anh chìm trong bóng tối.
Bất cứ
lúc nào người ta chạy theo ý riêng mà bất xét ý Chúa thì trời luôn luôn tối,
tối bên ngoài và tối ở cõi lòng. Trong bóng tối có bao nhiêu nguy hiển rình
chờ, có nhiều tai ương đang đợi, và cái chết bất hạnh là thảm họa cuối cùng.
Chỉ có con đường duy nhất là can đảm trở lại với ánh sáng, trở lại với tình yêu
Chúa, dù có đau thương nhưng rồi sẽ được chữa lành, dù có xấu hổ nhưng sẽ được
an vui trong cuộc đời mới.
Trong
đêm tối của lòng mình, Giuđa giả dạng và ngụy trang thật khéo, ông đóng kịch
rất tài tình. William Barclay nói rằng: “Giuđa
giấu tấm lòng của một con quỉ dưới hành vi, cử chỉ của một ông thánh”. Thực
vậy, mới vài bữa trước, anh ta đưa ra chiêu bài vì người nghèo để chỉ trích
thái độ hào phóng của Maria đối với Chúa Giêsu, xem ra anh ta rất thương người
nghèo và có vẻ rất đạo đức còn hơn Thầy mình. Hôm nay anh ta vẫn tỉnh bơ giữa
những người anh em đồng môn khi Chúa Giêsu tuyên bố có một môn đệ sẽ nộp Thầy.
Bao nhiêu toan tính, sắp xếp và mưu đồ phản bội của anh ta, không hề có ai phát
hiện ra. Anh ta đã qua mặt được tất cả, ngoại trừ một mình Chúa Giêsu. Ngài
biết tất cả âm mưu của Giuđa từ đầu tới cuối, nhưng vẫn cư xử với ông bằng một tình
thương chân thành, tế nhị, kiên trì, mở đường.
Hãy tin
rằng, Chúa vẫn luôn mở ra cho chúng ta những cơ hội mới. Ngài không bao giờ
thất vọng về chúng ta trong mọi tình trạng. Chúng ta cũng thếy, đừng bao giờ
thất vọng về chính mình. Mọi sự đều có thể làm mới lại trong tình yêu và ân
sủng của Chúa.
Nhìn
lại chính mình
Chắc
chắn Chúa không lầm khi chọn Giuđa làm tông đồ, cũng như không lầm khi chọn
chúng ta trở thành những Kitô hữu. Bởi vì Kinh Thánh cho thấy: đâu phải Thiên
Chúa chỉ chọn những con người xứng đáng, mà Giuđa cũng như chúng ta đã được
chọn để thanh luyện, để được nâng cao, để nên xứng đáng hơn.
Giuđa
không xuất hiện từ đầu như một người quay lưng lại với Chúa, bởi không ai bỗng
dưng mà phản bội, hoặc thay trắng đổi đen một sớm một chiều, mà ông đã bước dần
đến hố thẳm từng bước một. Cũng như Giuđa: ban đầu chúng ta được gọi, được
chọn, và đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa. Ngay từ đầu, chúng ta đều có mục đích
và một ý hướng cao đẹp. Nhưng rồi tình yêu ban đầu đã phai nhạt dần, động lực
trước kia đã bị biến dạng, khiến chúng ta đang từng bước đang suy giảm sự nhiệt
tình, thêm sự cứng cỏi, sự biếng nhác cầu nguyện, sự tự mãn kiêu căng trong đời
sống đạo đức, tính ham mê lời khen và sự nể vì, cả những sai phạm ngày càng
nặng hơn. Ban đầu còn có vẻ ray rứt, nhưng rồi cái gì cũng thành thói quen, vẫn
cảm thấy thoải mái với Chúa, vẫn an tâm với công việc mà ta gọi là bổn phận,
vẫn ung dung vì thấy mình cũng dấn thân phục vụ.
Con
người Giuđa có thể ít nhiều cũng đang hiển hiện nơi mỗi người chúng ta:
- Cũng thương yêu người nghèo, nhưng kèm theo
là những tính toán đầy vụ lợi.
- Cũng với khuôn mặt nhân ái bên ngoài, nhưng
bên trong là lòng ganh ghét và đố kỵ.
- Cũng với đôi môi đầy lời lẽ vị tha, nhưng
tâm tư đầy nguyên do vị kỷ và thấp hèn.
- Cũng luôn nói đúng, nhưng lại làm sai
hoặc chẳng làm gì cả.
- Cũng vẫn phục vụ Thiên Chúa và tha nhân,
nhưng luôn quy về chính mình.
- Cũng vẫn theo Chúa nhưng lại tìm cách
thực hiện ý riêng mình.
II.
TRONG VƯỜN CÂY DẦU
1. Giờ phút bi thương
Khi rời phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu đi đến
một khu vườn trồng cây ô liu, còn gọi là Ghếtsêmani. Tại
đây, cơn thử thách đã đè nặng trên Ngài như một
cơn hấp hối. Tin Mừng thánh Luca ghi là: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi” (Lc 22,44).
Từ Hy lạp mà thánh Luca dùng trong
câu này là agonia: không chỉ là một tình trạng hấp hối, sắp chết, mà còn
là “chiến đấu”. Quả thật, đây là một cuộc chiến đấu giữa sự sống và sự chết;
giữa ý muốn của Thiên Chúa và sự yếu đuối của thân phận làm người.
Trong giờ phút bi thương và chiến đấu như vậy, Ngài cũng hết sức
cần đến bạn hữu: "Tâm hồn Thầy buồn
đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức". Khốn nỗi thay! Lúc Chúa cần đến tình bạn nhất, thì các tông đồ lại vô tâm nhất,
các ông vẫn vùi mình trong giấc ngủ, mặc dù Chúa Giêsu nài nỉ: “Anh
em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?”. Không
được cảm thông bởi những người mình yêu thương nhất, nên lại càng thêm cô đơn,
sợ hãi và lo âu. Thánh Luca miêu tả: “Mồ hôi Người như những giọt máu rơi
xuống đất” (Lc 22,44).
Để vượt qua cơn giông bão của lòng mình, Người phải đi cầu
nguyện đến ba lần trong đêm. Người thành khẩn kêu lên: “Abba, Cha ơi! Cha có thể
làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con,
mà theo ý Cha” (Mc 14,36). Một lời nguyện tràn đầy yêu mến và tin tưởng vào Cha
là Thiên Chúa toàn năng.
Qua lời nguyện này, Chúa Giêsu muốn
nhủ bảo chúng ta rằng:
-
Chỉ khi
làm cho ý muốn của mình phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa, con người mới đạt
được sự cao cả đích thực của mình, trở thành “thần linh”.
-
Chỉ khi
ra khỏi mình với tiếng “xin vâng” trước Thiên Chúa, thì chúng ta mới hoàn toàn
tự do và an vui để thực hiện chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
2. Chúa Giêsu bị bắt
Trong
cuộc vây bắt Đức Giêsu, các thầy Lêvi của Đền thờ là chủ chốt. Các Phúc Âm cũng
nói đến sự có mặt của “các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục”(Lc 22,52),
nhưng cũng có mặt quan quân La mã. Những người đi bắt không biết rõ mặt Đức
Giêsu, nên Giuđa đã quy ước với họ một dấu hiệu “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy” (Mt 26,48).
Trong
mọi nền văn hóa, cái hôn là biểu lộ sự yêu thương và kính trọng, còn Giuđa lại
dùng cái hôn để nộp Thầy, dùng một cử chỉ cao đẹp để thực hiện một ý đồ xấu xa.
Tại sao người môn đệ này lại làm như vậy?
Người ta thường vịn vào việc
xức dầu tại Bêtania, ở Mt 26, 15 và Cv 1, 15-19 để nói Giuđa vì tham tiền nộp
Thầy. Thật ra, ba năm theo Thầy, Giuđa cũng đã tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu là
Đấng Mêsia, vì đã chứng kiến bao phép lạ Thầy làm. Ông nghe Thầy nói về Nước
Thiên Chúa, nhưng không biết thực tế như thế nào. Ông chỉ mong Thầy thực hiện
uy quyền của một Đấng Mêsia là tống cổ bọn La mã khỏi xứ Do Thái. Nếu chỉ hiển
dung cho một nhóm nhỏ tông đồ thì ích gì? Do đó, ông tìm cách đưa Thầy vào chỗ
nguy hiểm nhất, để Thầy phải “xuất chiêu”. Ít nhiều gì thì Giuđa cũng ham mê
tiền bạc, nhưng điều quan trọng nhất chính là tham vọng và mưu đồ theo ý riêng mình.
Người Do
Thái luôn có những phong trào nổi dậy chống lại Roma để giành độc lập, có những
đảng phái bạo động như Jelot, và luôn có những nhà ái quốc cực đoan, được gọi
là Sicarri, nghĩa là những người mang dao găm để ám sát. Có thể Giuđa khi theo
Chúa rồi, nhưng vẫn nằm trong những đảng phái này. Ông xem Chúa Giêsu như là
một lãnh tụ từ trời sai xuống với những quyền năng phi thường, có thừa khả năng
lãnh đạo một cuộc nổi dậy toàn diện. Ông thấy thời điểm đó đã chín muồi rồi mà
Chúa Giêsu cố tình đi hướng khác. Nắm lấy thời cơ, dồn Thầy vào thế triệt buộc,
để Thầy phải ra tay. Kế hoạch tiến hành của ông khá chu đáo, và chờ đợi thành
công trước mắt. Nhưng ai ngờ Chúa Giêsu lại đưa tay chịu chịu nộp chứ không
chịu phản kháng. Giuđa kinh hoàng như rơi vào giấc mộng hãi hùng. Hy vọng của
ông ta trở thành nắm tro tàn trong chốc lát. Ông đưa Thầy vào chỗ
chết mặc dù ông không hề muốn Thầy phải chết.
Cho đến phút cuối, Giuđa cũng
đã nhận ra tấm lòng của Thầy mình (x. Mt 27,3-10). Ông hối hận, quăng tiền trả
lại cho các thượng tế và kỳ mục, xưng thú tội công khai: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết
oan." (Mt 27,4). Nhưng điều quá đáng tiếc là cách hành xử của ông đã
làm uổng phí những cố gắng của Chúa Giêsu. Ông đã để lỡ cơ hội, vì không thể nghĩ
rằng mình còn đường để quay lại, vì không dám tin rằng mình được tha thứ, nên
đã tự sát.
Bài học để đời:
- Khi theo Chúa mà vẫn khư khư nắm giữ ý
riêng mình, thì cuối cùng là phản bội.
- Thiên Chúa luôn lớn hơn mọi tội lỗi của
chúng ta, luôn mở ra cho ta trong mọi tình trạng, dù là tình trạng tồi tệ nhất,
nên đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng.
- Điều gì con người không thể yêu thương tha
thứ được nữa, thì Thiên Chúa vẫn tha thứ yêu thương. Ngài vẫn đau trong nỗi đau
của ta, khổ trong nỗi khổ của ta, và vẫn chờ đợi ta từng bước trên mọi nẻo
đường đời.
3. Phêrô chối thầy
Trong vườn Cây Dầu Chúa Giêsu đã báo trước cho tất cả các
môn đệ là các ông sẽ vấp ngã vì Thầy, nhưng rồi Phêrô vẫn vênh vang tự phụ: "Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao
giờ vấp ngã".
Chúa liền cảnh báo ngay cho ông biết, ông sẽ chối Ngài ba
lần, nhưng ông vẫn dõng dạc tuyên bố:“Dầu
có phải chết vì Thầy con cũng không chối Thầy?”.
Sau đó
Chúa Giêsu bị bắt, và trước tiên được đưa vào trong dinh Thượng Tế Caipha để
được xét xử. Phêrô vẫn dõi bước theo Thầy xa xa, và rồi sau đó đi vào trong
sân. Ông cũng chen vào nói chuyện, mục đích là để dò la tin tức và xem việc xét
xử tiến triển như thế nào. Tuy nhiên giọng nói đặc biệt của miền Galilê khiến
ông bị nhận diện đến ba lần. Cả ba lần, ông đều chối là không biết biết Đức
Giêsu.
Lần thứ
ba xem ra trầm trọng hơn, vì ông “thề độc mà
quả quyết rằng: Tôi thề là không biết người ấy." (Mt 26, 74). “Ngay
lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa
đã bảo ông: "Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần."
Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Lc 22, 61-62).
Phải chi đám binh lính hùng hổ lăm le vũ khí
đến hạch hỏi, ông hoảng sợ thì còn hiểu được. Đàng này chỉ vài câu hỏi bâng quơ
của mấy đứa tớ gái đã làm ông hoảng loạn, chối từ mọi mối liên hệ với Thầy và
anh em. Cũng may là Chúa Giêsu quay lại nhìn ông, và ông bắt được cái
nhìn của Chúa. Ánh mắt thật buồn nhưng không
hàm chứa sự oán trách. Ánh mắt nhân từ và đầy lòng xót thương của Thầy khiến
Phêrô tan nát cõi lòng, nhưng giúp ông hiểu rõ con người thật của ông, một con
người hèn yếu hơn ông tưởng. Ánh mắt ấy đã làm ông bật khóc và “khóc thảm thiết”. Ông đã khóc như chưa
bao giờ được khóc…khóc với cả tình yêu mến Thầy.
Trước đây, ông càng coi thường
lời cảnh giác của Chúa, thì giờ đây ông càng ăn năn đau đớn, một sự đau đớn
không đi đến tuyệt vọng, như đã xảy ra với Giuđa, nhưng đưa ông trở về với Chúa.
Chính cái nhìn trước kia của Chúa đã quyết định ơn gọi và sứ mạng của Phêrô khi
gặp Ngài lần đầu tiên, thì giờ đây cũng cái nhìn đó vẫn tiếp tục đón nhận và
nâng ông dậy sau cuộc chiến bại.
Khi phục sinh, Chúa Giêsu lại nhìn ông và
hỏi: “Simon... anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Dù hèn
kém, dù thất bại ê chề, dù chẳng còn ra gì, ông vẫn nhiệt tình yêu mến Thầy. Ba lần hỏi,
Chúa Giêsu muốn ông xác nhận lòng yêu mến sâu xa trước khi Ngài giao phó
nhiệm vụ cho ông.
Nhiệm vụ càng cao thì phải yêu mến càng
nhiều. Bởi vì ai cũng rất sợ những người làm to mà trái tim thì quá nhỏ, chức
vụ thì nhiều mà tình yêu thì quá ít, trọng trách thì cao mà từ tâm thì quá
thấp. Phải chăng chính do tình yêu và lòng khiêm
tốn của Phêrô mà dù yếu hèn, dù sa ngã Thầy vẫn trao cho ông trọng trách chăn
dắt đoàn chiên của Thầy (Ga 21, 16-17), vẫn đặt ông làm nền móng, làm cột trụ
của Giáo Hội (Mt 16, 18)?
Nhìn lại chính mình:
- Cũng giống như Phêrô, đời ta là một sự
giằng co giữa yếu đuối và dũng mạnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa trời và
đất. Trái tim ta có u tối nhưng hãy vẫn cứ đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc nhưng cứ
vươn lên trong lý tưởng.
- Dù ta có yếu kém, non nớt, lầm lỗi lớn lao
hay bị sa ngã nặng nề, thì hãy vẫn giữ một ước mơ: muốn sống chết vì Chúa, muốn
cháy hết mình cho Chúa. Chúa không đếm bước chân ta đã đạt tới bậc thánh thiện
nào, Ngài cũng không chối từ vì ta đã bước sai bao nhiêu bước. Ngài chỉ nhìn
vào ước mơ trong trái tim ta, và với ước mơ đó, ta lại gặp được ánh mắt yêu
thương của Chúa mỗi ngày.
- Vấn đề đặt ra không phải
là tội phạm, mà thái độ sau khi phạm tội. Thất bại hôm nay luôn có thể là một
kinh nghiệm khai sáng và mang tính quyết định cho cuộc đời ngày mai. Hãy nhìn
mọi sự như một cơ may để vượt lên chính mình. Hãy can đảm đứng lên để làm mới
lại cuộc đời mình trong ơn thánh Chúa.
- Tuy
nhiên, hãy nhớ rằng, điều quan trọng nhất là lòng yêu mến. Lòng yêu mến là phép
lạ kỳ diệu. Nếu không có lòng yêu mến… bổn phận khiến ta dễ nóng giận; trách nhiệm đẩy ta tới chỗ bất nhã; công bằng làm cho ta đâm ra
tàn nhẫn; sự thật biến ta thành kẻ ưa soi mói; khôn ngoan dẫn ta tới chỗ láu
cá; sự đon đả biến ta thành kẻ giả dối; hiểu biết đẩy ta trở thành kẻ cố chấp;
quyền bính khiến ta trở thành kẻ áp bức; danh tiếng làm ta trở thành kẻ kiêu
ngạo; của cải làm ta trở nên tham lam; lòng tin biến ta thành kẻ cuồng tín.
Nếu Không Có tình yêu mến, trên đời này ta không là gì cả! Nhưng
với tình yêu, ta sẽ là tất cả. Chỉ có tình yêu mới làm nên những điều huyền
diệu chứ không phải tài năng hay đức độ. Thế giới này cũng vậy, chỉ được thu
phục bởi tình yêu mà thôi. Cha thánh Vianey cũng đã khẳng định: “thế giới sẽ
thuộc về tay ai biết yêu mến!”
“Con có yêu mến Thầy không?”. Đó là câu hỏi ta phải trả lời hằng ngày bằng chính cuộc
sống mình trước Chúa và trước mặt mọi người. Ước gì câu trả lời đó cũng chân
thật và sâu xa như thánh Phêrô: “Lạy
Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
1. Philatô xửa án
Philatô sau khi trao đổi với dân chúng ở ngoài phủ đường, ông đi
vào trong và ra lệnh đưa Chúa Giêsu đến trước mặt ông. Ông hỏi Chúa Giêsu: “Ông mà lại là Vua dân Do Thái?”. Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã
sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về
phía sự thật thì nghe tiếng tôi." (Ga 18, 33-37).
Philatô khi
nghe nói đến sự thật, ông chỉ mỉm cười. Bởi đỉnh cao của quyền lực và danh vọng
đang thuộc về ông. Sự sống của người khác cũng tùy thuộc vào ông. Đối với ông,
ý nghĩa và mục đích hiện hữu không phải là vấn nạn đáng quan tâm.
Tâm thức này
phản ánh rõ nét thực tại về con người hôm nay. Quả thật, con người hôm nay đang
muốn chiếm cứ quyền Thiên Chúa trong việc định đoạt sự sống của mình và người
khác. Cũng như Philatô, do chính nỗi ám ảnh quyền lực và danh vọng mà con người
hôm nay đã nhắm mắt trước sự thật. Sự thật mà Đức Giêsu đã mời gọi là con người
được tạo dựng là để yêu mến. Những mầm sống sơ đẳng nhất đều quy hướng sự sống
về bản thân mình, nhưng riêng con người lại được mời gọi vượt thoát khỏi bản
thân, khỏi cái tôi vị kỷ để sống và yêu thương người khác. “Anh em hãy yêu thương nhau”, đó là dấu chỉ duy nhất để chúng ta trở
nên chứng tá giữa một thế giới đang đánh mất căn tính và ý nghĩa hiện hữu của
mình[2].
Thái độ của Philatô trong phiên
xử này rất lưỡng lự, có thể chia làm ba hồi:
1. Tìm cách tha Chúa Giêsu. Thoạt
đầu, ông không muốn liên lụy đến vụ xét xử Chúa Giêsu, vì thấy đây chỉ là vấn
đề xung đột nội bộ tôn giáo. Ông tìm cách tha, và khẳng định đến ba lần Chúa
Giêsu vô tội (x. Ga 18, 38; 19, 4. 6). Tuy nhiên, những kẻ tố cáo cứ nằng
nặc đòi giết Đức Giêsu. Trước áp lực của người Do thái, ông tìm cách khác là
ra lệnh đánh đòn Đức Giêsu. Sau đó, đưa Ngài ra trình diện đám đông với một
thân thể tồi tàn, hy vọng rằng họ sẽ thương tình mà đồng ý tha Ngài. Nhưng họ
đòi phải lên án tử cho Ngài. Thánh Luca cho thấy chi tiết hơn về lời lẽ của
những người tố cáo:“Hắn đã xúi dân nổi
loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến đây” (Lc
23,5).
2. Tìm cách tránh né. Philatô
đang tìm một lối thoát cho mình, nên vừa nghe tới Galilê ông liền chộp lấy cơ
hội, giải Đức Giêsu sang vua Hêrôđê. Ông này cai trị vùng Galilê và hiện đang
có mặt ở Giêrusalem để dự lễ. Hêrôđê là một người hiếu kỳ. Từ lâu ông đã muốn
gặp mặt con người đặc biệt tên Giêsu ấy. Nhưng Đức Giêsu chẳng làm một phép lạ
nào cho ông thưởng thức. Thậm chí Ngài cũng chẳng nói một câu nào. Hêrôđê thất
vọng nên lại gởi trả Đức Giêsu về cho Philatô. Thế là quả bóng lại được chuyền
về phía Philatô. Ông này đành tiếp tục cuộc xử.
3. Hành xử vô trách nhiệm. Đang
lúc Philatô bối rối như thế thì bà vợ ông sai người đến nói với ông “đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính
này” (Mt 27,19). Những lời của bà vợ khiến Philatô càng muốn tha Đức Giêsu.
Nhưng để có lý do mà tha thì Philatô đưa một tên gian phi tên Baraba ra để cho
họ so sánh với Đức Giêsu, với hy vọng là họ sẽ xin tha Đức Giêsu. Nào ngờ người
Do Thái lại xin tha cho Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Trước tiếng la vang dậy
của người Do Thái xin Baraba làm ông ta kinh ngạc. Không còn cách nào khác, ông
tìm cách trút bỏ trách nhiệm cho người khác. Ông rửa tay, tuyên bố mình vô tội trong
việc đổ máu Chúa Giêsu.
2. Con
người Philatô
Các hoàng
đế Rôma (như Maximilen và Dioclétien) đã có chỉ dẫn cho các quan tòa rằng: “Quan tòa không được nghe theo những đòi hỏi
vô cớ của quần chúng, bởi vì họ thường muốn tha kẻ có tội và kết án người vô
tội”. Philatô cũng biết điều đó, nhưng tại sao cuối cùng ông giao Đức Giêsu
cho người Do Thái đem đi giết?
Sử gia
Philon cho rằng Philatô đang có nhiều điều sai trái mà ông không muốn cho Hoàng
đế biết: do cai trị kém cỏi, ông đã để xảy ra nhiều cuộc nổi loạn, kho báu của
Đền thờ bị mất cắp, trong thời gian cầm quyền ông đã tham nhũng, ức hiếp người
vô tội, điều hành quá kém, ra nhiều sắc lệnh sai trái v.v… Thật ra ông cũng làm
vài việc có lợi cho người Do thái, như xây dựng hệ thống dẫn nước mới, nhưng
lại dùng tiền trong ngân quỹ của đền thờ chi phí cho việc này, cho nên ông sợ
người Do thái sẽ cử một phái đoàn đi Rôma tố cáo ông. Vậy để tránh tai họa này,
ông đành làm theo đòi hỏi của họ.
Vậy là cuối cùng, dù biết Đức
Giêsu hoàn toàn vô tội, nhưng vì ham hố quyền lực và danh vọng, sợ người Do
Thái tố cáo, sợ mất cái ngai của mình, nên Philatô đành giao Đức Giêsu cho
người Do Thái đem đi đóng đinh. Con người của Philatô khiến chúng ta thương hại
hơn là ghét bỏ. Thương hại vì ông cũng là một nạn nhân của chính mình, của đám
đông. Philatô cũng là hình ảnh bi đát hơn là hình ảnh xấu xa. Bi đát ở chỗ có
quyền làm mà lại không dám hành quyền, để rồi mở đường cho sự ác lan tràn. Dù
ông có rửa tay ngàn lần thì cũng không thể rửa sạch tấm lòng và hành động ti
tiện của ông. Không biết có phải nghiệp chướng hay không, nhưng rồi hậu quả
cuộc đời ông chỉ vài năm sau thật là thê thảm.
Nhìn lại chính mình
-
Có thể nhiều lần ta cũng đã hành xử hèn nhát và vô trách
nhiệm khi không dám lên tiếng bênh vực công lý, che chở người lương thiện, nâng
đỡ kẻ cô thế cô thân, cứu giúp những người đang bị những thế lực gian ác hè
nhau hãm hại …
-
Biết
bao lần ta thực sự không có tự do trong hành động của mình, nên rất lưỡng lự trước
sự thiện và sự ác, không có khả năng quyết định. Cuối cùng cũng tìm lý do để
thoái thác, biện minh cho mình và đổ trách nhiệm cho người khác. Đó cũng là một
hình thức rửa tay để tuyên bố mình vô tội.
-
Có
những lần ta sống trong sợ sệt vì quá lo cho bản thân mình: sợ mất danh giá, sợ
bị liên lụy, sợ mất mát … Càng sợ hơn khi đã có những hành vi không trong sáng,
bị người khác lật tẩy, nên tìm cách che lấp dưới nhiều hình thức bất chính. Cũng
như Philatô, chính vì sợ sệt mà toa rập và đồng lõa với những điều gian ác.
3. Thái độ của dân chúng trong cuộc xử án
Sau khi cho đánh đòn và làm nhục Đức Giêsu, Philatô
đưa người ra ngoài cho dân chúng xem, hy vọng họ động lòng thương, nhưng “các
thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Đóng đinh, đóng đinh nó
vào thập giá!"
Ông
Philatô cho thấy Đức Giêsu chẳng có tội tình gì mà đóng đinh thập giá. Nhưng người
Do Thái đáp lại : "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó
phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa". (Ga 19, 5-7).
Thật
ra, dân chúng Do Thái chỉ là thành phần thụ động, bị giới lãnh đạo Do Thái điều
khiển và lèo lái, khiến họ bị mù quáng trước sự thật. Trớ trêu thay những kẻ
lãnh đạo, họ đã tố cáo Chúa Giêsu xách động dân chúng, xúi dân nổi loạn, nhưng
thực sự chính họ mới là thủ phạm để gây áp lực với Philatô để kết án Chúa
Giêsu.
Sau đó,
Philatô đưa ra một tên gian phi tên là Baraba để cho họ so sánh với Đức Giêsu,
với hy vọng là họ sẽ xin tha Đức Giêsu. Nào ngờ người do thái lại xin tha cho
Baraba và đòi giết Đức Giêsu: "Máu hắn đổ xuống đầu chúng tôi và con
cháu chúng tôi!" (Mt 27,24-25).Trước
tiếng la vang dậy của người Do Thái xin Baraba làm Philatô kinh ngạc.
Phúc Âm
Gioan cho biết thêm, khi Philatô còn đang lưỡng lự thì dân chúng gây áp lực
mạnh hơn, bằng cách đòi tố cáo ông với Xêda. Thấy nguy hiểm cho chiếc ngai của
mình, ông mới giao nộp Đức Giêsu, và họ la to: "Đem đi! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !" (Ga 19, 15).
Mỗi
ngày, người Do Thái đọc kinh Shema, trong đó họ tuyên xưng niềm tin của mình
vào Thiên Chúa duy nhất (x. Đnl 6, 4). Thế mà bây giờ, để kết án Chúa Giêsu, họ
sẵn sàng hô to: "Chúng tôi không
có vua nào cả, ngoài Xêda." (Ga
19, 15).
Nhìn lại chính mình.
- Cũng như đám dân Do Thái, nhiều khi chúng
ta chẳng nhìn ra được mình đang làm gì? Cũng hành động một cách mù quáng và vì ghen
tức.
- Nhiều khi chúng ta cũng dễ dàng nghe theo
sự xách động của người khác mà không có suy nghĩ và lựa chọn cá nhân, để rồi trở
nên đồng lõa với sự dữ.
- Chọn lựa của những người trong cuộc xử án và kết án Chúa Giêsu, cũng có thể là những
chọn lựa của chúng ta hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Khi chúng ta chẳng
làm gì tốt đẹp hơn cho những người trong tình cảnh ngặt nghèo và khốn khổ là
chúng ta đã tham gia đưa họ vào chỗ chết. Có thể có nhiều người đã chết vì
chúng ta cách này hay cách khác do cách hành xử hoặc lối sống vô tâm của mình.
- Chúa Giêsu bị xử án, nhưng lại được viết ra như thể tất cả mọi
người đang bị xử án, chứ không phải Ngài. Chính mỗi người chúng ta đang bị xử
án vì sự nông nổi, ghen ghét, nhu nhược, mù quáng tôn giáo và đức tin thiển cận
của mình.
Tạm kết
Đức
Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên
Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt Qua.
Suốt
một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết mọi sự đã hoàn tất.
Chủ
động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Chúa Giêsu đã rời khỏi thập giá để
cho ta bước lên: không phải thập giá của hận thù, nhưng là thập giá của tình
yêu; không phải thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là thập
giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Thập giá đó đã
biến thành Thánh giá do tình yêu vô cùng của Chúa Giêsu. Đó là Thánh giá của
niềm vui và ân phúc, thánh giá của tin yêu và hy vọng, thánh giá của chiến
thắng và vinh quang phục sinh, dành cho tất cả những ai bước theo chân Chúa để hiến
thân vì yêu.
Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta,
nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có
vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no
thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn
biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.
Chúa
Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng
sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr 1, 5).
Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu,
chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa,
với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu!
Trước mắt loài người, việc Chúa chịu chết trên thập giá là một thảm bại và ô
nhục,
nhưng sự thật đó lại là giờ Chúa được tôn vinh.
Chúa được tôn vinh vì Chúa đã chiến thắng tội lỗi, sự dữ,
sự chết,
bằng cách hy sinh mạng sống mình.
Đó cũng chính là mầu nhiệm Vượt Qua trong đời con để được
tôn vinh với Chúa.
Nhưng nhiều khi con chỉ lo vượt qua những trở ngại phàm
tục,
không lo vượt qua những trở ngại thiêng liêng;
lo chinh phục và chiến thắng người khác,
không lo chinh phục và chiến thắng chính
mình;
lo thành công về tiền tài danh vọng,
không lo thành công trên đường đức hạnh.
Hằng ngày, hằng tuần, con được tham dự
vào việc cử hành mầu nhiệm Vượt Qua,
nhưng con chưa tha thiết sống mầu nhiệm đó.
Xin cho con đặt mình trước mầu nhiệm ân sủng mà Chúa đã
thực hiện cho con,
để con biết hiện thực hóa mầu nhiệm này chính cuộc sống mình. Amen.
Lm. Thái Nguyên
[1] Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, số 18.
[2] Fr. Timothy Radcliffe OP, Con gấu và chị đan sĩ – Y nghĩa đời sống tu trì hôm nay, tr.4.