NIỀM VUI CỦA CHÚA LÀ THÀNH TRÌ CỦA CHÚNG TA
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.
Ngày 20 tháng 4 năm 2019
Sách Nơ-khê-mi-a kể
rằng sau khi dân lưu đầy được trở về Giê-ru-sa-lem, ngày ông Nơ-khê-mi-a và
kinh sư Ét-ra tổ chức long trọng công bố lại Luật Giao Ước, toàn
dân nghe đọc và giải thích Luật thì khóc lóc.
9 Bấy giờ
ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các
thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói
với họ rằng : “Hôm nay là ngày thánh hiến cho ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa
của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc.” Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân
đều khóc khi nghe lời sách Luật. 10 Ông Ét-ra còn nói với
dân chúng rằng : “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần
cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng
ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo
vệ anh em. (Nkm 8,9-10)
Tin Mừng Chúa Phục
Sinh là Tin Mừng lớn nhất, có sức bật, biến đổi và lan truyền. Hãy nhìn các phụ
nữ đã ra viếng mộ từ sáng sớm, được thiên sứ báo tin mừng, họ trở về như thế
nào : “Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi
vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.”(Mt 28,8)
1. Niềm vui của Chúa
trong Cựu Ước
Để dễ đi sâu vào Niềm
Vui của Chúa trong Tân Ước, chúng ta hãy nhìn lại Niềm vui của Chúa được diễn
tả thế nào trong Cựu Ước.
Đọc lại từ sách Sáng
Thế, chúng ta thấy niềm vui của Chúa khi có con người được mẹ sinh ra.
Người đàn bà đầu tiên sinh đứa con đầu tiên thì reo lên : Con
người ăn ở với E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in. Bà
nói : ‘Nhờ ĐỨC CHÚA, tôi đã được một người‘ (St 4,1).
Khi đứa con thừa tự sinh ra cho ông Áp-ra-ham sau bao năm mỏi mòn trông đợi,
thì tiếng cười vang lên trên môi miệng hai ông bà và lan tới mọi người nghe
biết, khiến ông đặt tên cho con là I-xa-ác, nghĩa là “CƯỜI” (St 17,17 ;
18,9-15 ; 21,6-7).
Niềm vui lớn hơn nữa
khi dòng dõi của Áp-ra-ham được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai-cập, niềm vui
bừng lên thành lời ca, điệu múa :
Bấy giờ ông Mô-sê cùng
với con cái Ít-ra-en hát mừng ĐỨC CHÚA bài ca sau đây…
Nữ ngôn sứ Mi-ri-am,
em ông A-ha-ron, cầm lấy trống ; mọi phụ nữ theo bà đi ra, đánh
trống và nhảy múa. 21 Bà Mi-ri-am xướng lên rằng :
“Hãy hát mừng ĐỨC
CHÚA,
Đấng cao cả uy
hùng (Xh 15,1.21).
Ngược với niềm vui của
Chúa là niềm vui dân tự mua lấy bằng ngẫu thần tay họ làm ra, đưa tới trác
táng :
Ông [A-ha-rôn] lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng
dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói : “Hỡi Ít-ra-en, đây là
thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 5 Thấy vậy, ông
A-ha-ron dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to : “Mai có lễ kính
ĐỨC CHÚA !”
6 Ngay hôm sau,
họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an. Dân
ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.
Niềm vui hân hoan bừng
lên với tiếng cười rộn rã, khi dân lưu đầy được trở về Đất Hứa :
Khi CHÚA dẫn tù
nhân Xi-on trở về,
ta tưởng mình như giữa
giấc mơ.
2 Vang vang ngoài
miệng câu cười nói,
rộn
rã trên môi khúc nhạc mừng.
Bấy giờ trong dân
ngoại, người ta bàn tán :
“Việc CHÚA làm
cho họ, vĩ đại thay !”
3 Việc CHÚA làm
cho ta, ôi vĩ đại !
Ta thấy mình chan
chứa một niềm vui (Tv 126/125,1-3)
Từ khi có “Nhà
Thiên Chúa” thì có niềm vui đi lên Nhà Thiên Chúa :
Vui
dường nào khi thiên hạ bảo
tôi :
“Ta cùng trẩy lên đền
thánh CHÚA !”
Niềm vui này làm nảy
sinh lời nguyện chúc bình an và bền vững :
Hãy nguyện chúc
Giê-ru-sa-lem được thái bình,
rằng : “Chúc thân
hữu của thành luôn thịnh đạt,
7 tường trong luỹ
ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi
an ninh.”
8 Nghĩ tới anh em
cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng :
“Chúc thành đô an lạc.”
9 Nghĩ tới đền
thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành
được hạnh phúc, hỡi thành đô. (Tv 122/121,1.6-9)
Thánh vịnh
104/103 chuyển cho chúng ta
niềm vui khi nhìn ngắm công trình tạo dựng của Thiên Chúa :
Suốt cuộc đời, tôi sẽ
ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn
hát kính Thiên Chúa của tôi.
34 Nguyện tiếng
lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm
vui của tôi ở nơi CHÚA. (Tv 104/103,33-34).
Niềm vui của Chúa,
niềm vui trong Chúa là niềm vui do ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện và bảo
đảm :
Còn những người trú
ẩn bên Chúa, ước chi họ đều được hỷ hoan
và reo vui mãi
tới muôn đời.
Chúa bảo vệ những
người mến yêu Danh Thánh, nhờ Ngài, họ phấn khởi mừng vui.
(Tv 5,12 ;
x. Tv 9,15 ; 14/13,7 ; 21/20,2.7 ;
33/32,21 ; 35/34,9)
Niềm vui ơn cứu độ
theo sau đau khổ trong gian truân :
Xin cho con được nghe
tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài
nghiền nát được nhảy múa tưng bừng
Xin ban lại cho
con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
và lấy tinh thần quảng
đại đỡ nâng con (Tv 51/50,10.14)
Niềm vui sinh con,
niềm vui được giải thoát hay niềm vui ngày mùa đều có chung một bước trước
đó :
Lạy CHÚA, xin dẫn
tù nhân chúng con về,
như mưa dẫn nước về
suối cạn miền Nam.
5 Ai nghẹn ngào
ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp
khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi
mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo ;
lúc trở về, về
reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng. (Tv 126/125,5-6)
Thánh vịnh 131/130 cho chúng ta một chuỗi những tình huống của niềm
vui reo hò sau cảnh gian truân :
Ước chi họ dâng lễ tế
tạ ơn Chúa,
cất
tiếng hò reo, tường thuật việc
Chúa làm. (Tv 107/106)
Điều này đưa chúng ta
tới tâm tình trẻ thơ trong thánh vịnh 131/130 :
2 hồn con, con
vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng,
giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình
lòng mẹ,
trong con, hồn
lặng lẽ an vui.
3 Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en
ơi,
từ nay đến mãi muôn
đời muôn năm (Tv 131/130,2-3).
Trong thời sự những
năm gần đây có hai bức hình mà tôi vẫn ghi nhớ như sự minh họa thánh vịnh này.
Trong một trận động đất bên Nhật, nhân viên cứu hộ thấy có một người phụ nữ
phục trên sàn dưới ngôi nhà đã sập. Khi họ nhấc được bà lên thì bà đã chết,
nhưng dưới ngực bà đứa con vẫn ngủ yên. Bà đã kịp để lại trên điện thoại di
động một tin nhắn cho con : “Nếu con tôi sống sót, xin hãy nói với nó
rằng mẹ yêu con lắm !”. Bức hình thứ hai là trong một cơn lũ lụt bên
Mỹ, một nhân viên cứu hộ bồng một bà mẹ người gốc Việt-nam lội qua nước lũ, đưa
ra nơi an toàn. Trên tay bà mẹ em bé vẫn ngủ yên.
Niềm vui của Chúa cho
chúng ta sự bình an thanh thản trong mọi hoàn cảnh :
Thiên Chúa là nơi ta
ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn
sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
3 Nên dầu cho địa
cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống
biển sâu,
4 dầu cho sóng
biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi
thuỷ triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì. (Tv 46/45,2-4).
2. Niềm vui của Chúa
trong Tân Ước
Trong Tân Ước, Tin
Mừng Mát-thêu và Lu-ca cho chúng ta thấy niềm
vui sinh con và niềm vui ơn cứu độ ngay ở hai chương đầu.
Niềm vui của các hiền
sĩ đã lần bước theo ánh sao, tới Giê-ru-sa-lem bỗng rơi vào mê hồn trận của vua
Hê-rô-đê, rồi lại được ánh sao dẫn tới tận nhà để gặp thấy Hài Nhi mà họ tìm
bái lạy :
“Bấy giờ ngôi sao
họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng
lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2,9-10)
Niềm vui của hai ông
bà già Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét và láng giềng cùng thân thich :
“Ông sẽ được vui
mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ
chào đời.” (Lc 1,14)
“Bà Ê-li-sa-bét vừa
nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà
được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng :
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng
được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế
này ? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì
đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (Lc 1,41-44)
“Nghe biết Chúa đã quá
thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với
bà.” (Lc 1,58)
Niềm vui thiên sứ mời
Đức Ma-ri-a đón nhận :
“Mừng vui lên,
hỡi Đấng đầy ơn phúc, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28)
Niềm vui làm Đức
Ma-ri-a bật lên tiếng ngợi khen và tấm trí hớn hở vui mừng :
46 Bấy giờ bà
Ma-ri-a nói :
“Linh hồn tôi ngợi
khen Đức Chúa,
47 thần
trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng
cứu độ tôi. (Lc 1,46-47)
Niềm vui lớn cho toàn
dân mà những người chăn chiên đón nhận :
“10 Nhưng sứ
thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng
trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : 11 Hôm nay, một
Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô
Đức Chúa” (Lc 2,10-11)
Niềm vui làm cho ông
Si-mê-ôn thỏa lòng đến nỗi không còn muốn gì khác trên trần gian, chỉ muốn được
ra đi :
29 “Muôn lạy
Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được
an bình ra đi.
30 Vì
chính mắt con được thấy ơn cứu độ “ (Lc 2,29-30).
Nhưng niềm vui ấy chưa
trọn vẹn. Điệu vui còn lẫn cung sầu.
Mát-thêu kể tiếp, ông Giu-se sẽ bị đánh thức giữa đêm khuya để lập
tức lên đường “đem Hài Nhi và mẹ người trốn sang Ai-cập… vì vua Hê-rô-đê sắp
tìm giết Hài Nhi” (Mt 2,13). Lu-ca cũng
kể tiếp chuyện năm trẻ Giê-su tròn mười hai tuổi : “Con ơi, sao con lại
xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng
tìm con ?... Nhưng ông bà không hiểu lời Người đã nói” (Lc 2,49-50).
Rồi khi Đức Giê-su bắt
đầu đi rao giảng, Lu-ca sẽ cho chúng ta thấy lời thiên sứ đã
báo cho các người chăn chiên thành sự như thế nào : “Tin mừng cho toàn
dân” (Lc 2,10).
“Mọi người đều sửng
sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau : “Hôm nay, chúng ta
đã thấy những chuyện lạ kỳ !” (Lc 5,26)
“Mọi người đều kinh sợ
và tôn vinh Thiên Chúa rằng : “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa
chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.” 17 Lời này về Đức
Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận” (Lc 7, 16-17)
Nhưng niềm vui ấy lại
cũng sớm phủ mây sầu, vì các kinh sư và người Pha-ri-sêu sớm rình
rập… “để tìm được cớ tố cáo Người”, rồi khi thấy Người chữa kẻ bại
tay trong hội đường, ngày sa-bát, “họ đã giận điên lên, và bàn nhau xem có
làm gì được Đức Giê-su không.” (Lc 6,7.11).
Bao giờ niềm vui mới
trọn vẹn ?
Tất cả các sách Tin
Mừng đều cho thấy rằng niềm vui ấy chỉ trọn vẹn khi bừng lên như mặt trời mọc
lên vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, sau khi mây sầu đã thành đêm đen cuốn
Đức Giê-su vào trong mộ, Người đã trỗi dậy và ra khỏi mồ. Đến đây chúng ta hãy đọc
kỹ hơn Tin Mừng Gio-an, vì sách này cho thấy chính Đức Giê-su nói về niềm vui
Người đem cho môn đệ mà “không ai lấy mất được” (Ga 16,22).
3. Niềm vui của Chúa
là thành lũy của ta.
Niềm vui của Chúa,
không phải niềm vui của bất cứ ai khác. Niềm vui của Chúa Phục Sinh, đã chiến
thắng cả thập giá và cái chết, để ở với chúng ta, mãi mãi đầy yêu thương dịu
dàng, làm đầy tâm trí và con tim của chúng ta như Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã hát
lên :
“Linh hồn tôi ngợi
khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ
tôi”(Lc 1,46-47).
Không có thành lũy nào
con người xây dựng trên trần gian này có thể cho người ta sự an toàn tuyệt đối.
Vạn Lý Trường Thành đã không chặn nổi vó ngựa của Thành Cát Tư Hãn, hay bước
tiến quân của Mãn Châu. Nhà họ Vương “thâm nghiêm kín cổng cao tường”
cũng chẳng ngăn được bước chân nàng Kiều qua nhà Kim Trọng ban đêm. Bức tường
tu viện càng không phải là thành lũy, nó chỉ thách đố người ở trong bốn bức
tường và khích cho Xa-tan leo tường vào tấn công, nhất là với các phương tiện
thông tin điện tử ngày nay, mà không “bức tường lửa” hay kỷ luật tu viện nào
ngăn được.
Thành lũy cuối cùng là
lòng con người. Lòng dân Việt đã
ngăn được vó ngựa quân Mông Cổ. Tướng nhà Minh đã mở cổng Vạn Lý Trường Thành
cho đoàn quân Mãn Châu tiến vào. Lòng dân Việt đã đuổi được quân Mãn Thanh khỏi
biên giới. Vì thế Chúa đặt NIỀM VUI làm thành lũy ngay trong lòng chúng ta.
Khi đứa trẻ đang vui
sướng, hạnh phúc trong tay mẹ hiền, đố ai dụ được nó theo mình bằng bất cứ một
thứ gì trên trần gian này.
Niềm vui của Chúa là
niềm vui do chính sự hiện diện của Chúa, Đấng tự ban mình làm kho tàng, làm tất
cả của chúng ta, như Chúa đã đề nghị với người thanh niên giàu có trong Tin
Mừng (x.Mc 10,21 ; Mt 19,21 ; Lc 18,22).
Đó mới là thành lũy an toàn. Khi lòng chúng ta đầy niềm vui của Chúa
thì không còn khoảng trống nào cho bất cứ một thứ gì chen vào. Khi Đấng
hiện diện với ta và trong ta để cho ta niềm vui, là Đấng đã “chiến thắng thế
gian”, đã chiến thắng mọi thứ cám dỗ, mọi thứ buồn phiền, lo lắng sợ hãi,
thì niềm vui của ta không ai lấy được và không gì đánh đổi được : “Vì
bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp
những ai bị thử thách” (Hr2,18). “Vị Thượng Tế của chúng ta không
phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu
thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Hr 4,15).
Thánh Phê-rô đã tuyên
xưng : “Bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời
ban sự sống đời đời” (Ga 6,68)
Thánh Phao-lô sẽ làm
chứng : “Người quả quyết với tôi : “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì
sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi
rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức
Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu
đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi
yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2 Cr 12,9-10).
Nhưng niềm vui ấy được
chính Chúa Giê-su ví như niềm vui của người mẹ sinh con :
“Thật, Thầy bảo thật
anh em : anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh
em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. 21 Khi
sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình ;
nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được
chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian”
Và Chúa cam kết :
“Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh
em, lòng anh em sẽ vui mừng ; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất
được (Ga 16,20-22).
Niềm vui của người mẹ
là “một con người đã sinh ra trong thế gian”, còn niềm vui của môn đệ làđược
gặp lại để ở mãi với Thầy của mình, Đấng đã trải qua cái chết để thành
Chúa Phục Sinh, và không bao giờ sợ cách ngăn nữa, vì “cái chết chẳng còn
quyền chi đối với Người” (Rm 6,9). Người thật sự là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta [Em-ma-nu-en] từng
ngày và mãi mãi cho đến tận cùng thời gian.” (Mt28,20)
Niềm vui này đi đôi
với Bình An, như em bé ở trong tay
mẹ, dù nước lũ hay đất rung, núi lở, nhà sập, vẫn cứ bình an. Sự bình an này
cũng là của Chúa, không ai trên trần gian này ban cho chúng ta được :
“Thầy để lại bình an
cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh
em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng
sợ hãi.” (Ga 14,27).
Bình an của Chúa giữ
cho lòng chúng ta “đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”, như lời Thánh
vịnh :
Thiên Chúa là nơi ta
ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn
sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
3 Nên dầu
cho địa cầu chuyển động,
núi
đồi có sập xuống biển sâu,
4 dầu
cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi
đồi có lảo đảo khi thuỷ triều dâng,
ta
cũng chẳng sợ gì. (Tv 46/45,2-4).
Xa-tan chẳng còn lối
nào để chen vào làm chúng ta xao xuyến sơ hãi được nữa. Đó là sự bình an thanh
thản mà Chúa Giê-su đã sống trong cuộc khổ nạn, khiến đối phương lúng túng (x.
Mt 26,63 ; Mc 14,60-61 ; Lc 22,67-69 ; 23,10), Hê-rô-đê cụt hứng
(x. Lc 23,8-11), Phi-la-tô ngẩn ngơ (x. Ga 19,9-11).
Niềm vui và bình an
của Chúa bảo vệ chúng ta, vì Xa-tan chỉ giỏi trò “nước đục thả câu”.
Nước trong thì mọi thứ mồi câu đều bị lộ. Nó là thầy chia rẽ, như người Rô-ma
đã nói : “Chia để trị”. Niềm vui và bình an của Chúa giữ lòng chúng
ta không bị phân tán vì xao xuyến, buồn sầu, sợ hãi ; nếu cộng đoàn giáo
xứ, họ đạo, tu sĩ của chúng ta không chia rẽ, rối ren, thì Xa-tan chỉ đứng
ngoài mà khóc.
3.1. Niềm vui và bình
an của Chúa Phục Sinh vốn không tách rời nhau, là thành trì của chúng ta. Chúa Phục Sinh đã ban cả hai cùng một trật :
Vào chiều ngày ấy,
ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ
người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho
anh em !” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (Ga 20,19-20)
3.2. Niềm vui và bình
an của Chúa cho chúng ta sức mạnh để thi hành sứ mạng
Trong bữa Tiệc Ly Chúa
đã sai các ông đi : “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính
Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và
hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,14)
Nhưng khi Chúa Phục
Sinh đến với các ông thì “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì
các ông sợ người Do-thái.” Chúa ban cho họ niềm vui và bình an để họ
có thể ra đi : “Các môn đệ vui mừng vì được thấy
Chúa. 21 Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh
em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”
Lý do là vì sứ mạng
Chúa trao gắn liền với gian truân thử thách : “Vì anh em không thuộc về
thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian
ghét anh em. 20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em : tôi tớ
không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. (Ga 15,18-20)
Họ như đứa bé sợ ma
lấy mền trùm kín, vì nếu “người Do Thái” muốn bắt họ thì cánh cửa nơi họ
ở có hơn gì cái mền trên đầu đứa bé ! Vì thế mà khi Chúa đến, Chúa đứng
giữa họ, nói với họ rồi cho họ xem tay còn vết đinh, và cạnh sườn còn vết giáo
đâm (x. Ga 20,19-21). Vết đinh vết giáo trở thànhdấu vết để
nhận diện, xác định căn cước của Chúa Phục Sinh. Chúa cho họ thấy quả thật
họ đang gặp lại Người như Người đã hứa, và họ được niềm vui và sự bình an của
Chúa Phục Sinh mà không ai lấy mất được. Bây giờ họ hiểu được lời Chúa đã
nói : “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được
bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm
lên ! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16,33)
Sau khi đã ban niềm
vui và bình an, Chúa mới nhắc lại sứ mạng :
Người lại nói với các
ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng
sai anh em”.(Ga 20,21).
Chúa còn ban thêm một
điều Chúa nhắc đi nhắc lại khi nói với họ sau bữa ăn cuối cùng :
Nói xong, Người thổi
hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh
em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy
bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
Sứ mạng của họ là đưa
người ta vào trong Giao Ước Mới mà Chúa đã công bố trong bữa ăn cuối cùng, khi
ban Điều Răn Mới, và thiết lập khi đổ máu và trao hơi thở trên thập giá. Ơn tha
tội là hiệu quả sự hiện diện của Thánh Thần để đưa người ta vào Giao Ước Mới
(x. Gr 31,33-34 ; Ed 36,22-28).
Thánh Thần biến đổi
người ta để có thể sống Giao Ước Mới, và sinh hoa trái ngọt ngào, như thánh
Phao-lô giải thích :
Còn hoa quả của Thần
Khí là : “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung
tín,23 hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều
như thế. 24 Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính
xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. 25 Nếu chúng
ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl 5,22-25)
“Trong
Thầy anh em được bình an”. Tương quan của
chúng ta với Chúa Phục Sinh không chỉ là hiện-diện-đối-diện, nhà ở
trong, như Chúa đã nói sau bữa ăn cuối cùng :
Hãy
ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không
gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. 5 “Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong
người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng
làm gì được. 6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như
cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7 Nếu anh
em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh
em cứ xin, anh em sẽ được như ý. 8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh
là : Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
9 “Chúa Cha đã
yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở
lại trong tình thương của Thầy. (Ga 15,4-9)
Để ở lại trong
Chúa, thì phải ở lại trong Tình Yêu của Chúa, mà cách ở lại
trong tình yêu của Chúa là ở lại trong Lời (x. Ga 8,31) và để
cho “Lời Chúa ở lại trong” ta (x. Ga 15,7). Lời Chúa có
thể ví như cuống rốn nối chúng ta với Chúa và Chúa là LỜI “từ ban đầu vân ở
nơi Thiên Chúa”, “ở trong lòng Chúa Cha và hằng hướng về Chúa Cha” (Ga 1,1.18)
nối chúng ta với Chúa Cha.
Các ngôn sứ trong Cựu
Ước là những người “đứng trước mặt Thiên Chúa”, như Ê-li-a và Ê-li-sa tự
xác nhận (x. 1V 17,1 ; 18,15 ; 2 V 3,14 ; 5,16)
- bản dịch xuôi của
chúng tôi [CGKPV] là phục vụ, nhưng như thế là đã giới hạn ý nghĩa
âm vang của động từ này -
Thiên Chúa sẽ phán với
ngôn sứ Giê-rê-mi-a :
Còn ngươi, ngươi hãy
thắt lưng.
Hãy đứng dậy !
Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.
Trước mặt chúng, ngươi
đừng run sợ ;
nếu không, trước mặt
chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.
18 Này, hôm nay,
chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại
cả xứ : từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong
xứ. (Gr 1,17-18)
Thánh vịnh 16/15 khẳng định :
Trước Thánh
Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng
hề vơi (câu 11).
Chúa Phục Sinh
là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 28,20),
chúng ta không chỉ ở trước mặt Người, ở bên Người mà ở trong Người nữa. Đời
sống của chúng ta là “nhờ Người, với Người và trong Người”.
Trong Cựu Ước kinh sư
Ét-ra mời dân đang khóc lóc hãy vui lên, Hội Thánh ngày nay cũng mời chúng ta
vui lên ngay giữa Mùa Vọng và Mùa Chay và khi công bố lễ Phục Sinh. Lễ Phục
Sinh và mùa Phục Sinh là mùa của “Vui sướng tràn trề, hoan lạc chẳng hề vơi”.
Dân Ít-ra-en cho đến
nay vẫn mừng lễ Vượt Qua hàng năm để nhớ nguồn gốc của mình. Năm nay trùng hợp
với ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh đúng như Tin Mừng Gio-an.
Chúng ta mừng lễ Phục
Sinh cũng là để nhớ mình đã được cứu chuộc bằng giá nào (x. 1 Pr 1,17-19),
nhờ thế biết mình là ai và nhớ mình đã cam kết sống như thế nào. Mầu Nhiệm Phục
Sinh là khởi đầu cuộc sống của Hội Thánh và của mỗi người chúng ta. Chúng ta
gia nhập Hội Thánh và bắt đầu cuộc sống Ki-tô hữu bằng Phép Rửa. Tuyên lại lời
hứa khi chịu phép Rửa trong đêm Vọng Phục Sinh, là chúng ta cam kết lại bắt
đầu :
Anh em không biết
rằng : khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô
Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? 4 Vì
được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với
Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh
hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. 5 Thật
vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì
chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống
lại.” (Rm 6,3-5)
Niềm vui của chúng ta
có ba chiều, ta vui vì Chúa đã sống lại và đang ở
với ta, vui vì chính chúng ta đã được sống lại với Chúa và đang
sống đời sống mới, và vui vì niềm hy vọng Chúa sẽ đến đem
chúng ta vào trong vinh quang với Chúa.
Thánh Phao-lô đã cho
chúng ta thấy và mời gọi chúng ta sống niềm vui ấy trong bức thư viết từ cảnh
ngục tù, gởi tín hữu Phi-lip-phê : “Thưa anh em, anh em hãy vui
mừng vì Chúa” (Pl 3,1).
“Anh em hãy vui
luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại : vui lên anh em ! 5 Sao
cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. 6 Anh
em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ
đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những
điều anh em thỉnh nguyện. 7Và bình an của Thiên Chúa là bình an
vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức
Ki-tô Giê-su.” (Pl 4,4-7)
Những lời thánh
Phao-lô nhắn nhủ có chút âm vang lời kinh sư Ét-ra kêu gọi dân chúng. Thánh
Phao-lô chan chứa niềm vui của Chúa, và nhắc đi nhắc lại lời kêu gọi “vui
lên” khi đang chìm trong tăm tối của ngục tù, chứ không phải lúc thịnh vượng
vinh quang.
Trong thư Rô-ma,
thánh Phao-lô ca khúc khải hoàn và giải nghĩa cho chúng ta nền tảng của niềm
vui, bình an và hy vọng :
Đúng thế, tôi tin chắc
rằng : cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực,
hiện tại hay tương laị, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực
thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra
khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng
ta. (Rm8,38-39)
Trong thư thứ
hai Cô-rin-tô, thánh Phao-lô liệt kê những gian truân Ngài đã trải
qua, lúc nào cũng trong vui tươi và tin tưởng :
Nhưng kho tàng ấy,
chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi
thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. 8 Chúng
tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp ; hoang mang, nhưng không tuyệt
vọng ; 9 bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi ; bị quật ngã,
nhưng không bị tiêu diệt. 10 Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc
thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân
mình chúng tôi. 11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe
doạ vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác
phải chết của chúng tôi (2 Cr 4,7-11)
Chúng tôi lấy sự công
chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, 8khi vinh cũng như khi nhục, lúc được
tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng
tôi chân thành ; 9 bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực
chúng tôi được mọi người biết đến ; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực
chúng tôi vẫn sống ; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết
chết ; 10 coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn
vui vẻ ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người
trở nên giàu có ; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có
tất cả. (2 Cr 6,7-10 ;
x. 12,23-33).
Thánh Phao-lô đã đích
thân trải nghiệm rằng “Niềm vui của Chúa là thành trì của chúng ta” và
lời thánh vịnh :
Con yêu mến Ngài, lạy
CHÚA là sức mạnh của con ;
3 lạy CHÚA là
núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con ;
lạy Thiên Chúa con
thờ, là núi đá cho con trú ẩn,
là khiên mộc, là Đấng
cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ. (Tv 18/17,2-3)
Lời thánh vịnh phong
vương cũng áp dụng cho chúng ta :
Thiên Chúa là Thiên
Chúa của ngài
đã tôn phong ngài vượt
trổi các đồng liêu, và xức cho dầu thơm hoan lạc. (Tv 45/44,8-9).
Giê-ru-sa-lem, ngày thứ Sáu Tuần Thánh 2019,
ngày Dọn Lễ Vượt Qua, 14 tháng Nissan năm 5779 từ khi Tạo Dựng
(x. Ga 19,31)