SỐNG TUẦN THÁNH
Bài Suy
Niệm Của Chiara Lubich, Phong Trào Focolare
Mừng thứ
Năm Tuần Thánh! Trong tháng Tư này cuộc nói chuyện của chúng ta trùng với ngày
thật quan trọng đối với các Kitô hữu. Và vì linh đạo của chúng ta nẩy sinh từ
đặc sủng Chúa Thánh thần đã ban, chúng ta cảm thấy ngày này rất đặc biệt, ta
không thể không ngừng lại đôi chút để suy niệm, chiêm ngắm, tìm cách sống lại
những mầu nhiệm mà ngày này tỏ bày cùng với những mầu nhiệm ngày thứ sáu và thứ
bẩy tuần thánh và chủ nhật Phục sinh.
Chúng ta có thể gọi mỗi ngày trong những
ngày này bằng một tên mà từ hơn 50 năm nay trong Phong trào vẫn dùng, tôi muốn
kêu lớn lên lý tưởng của chúng ta: đó là Tình thương ngày Thứ năm tuần
thánh, Chúa Giêsu bị bỏ rơi thứ sáu tuần thánh; Đức Maria thứ bẩy tuần thánh;
Đấng sống lại, chủ nhật Phục sinh.
Như vậy hôm nay là ngày Tình thương.
Thứ năm Tuần thánh, ngày mà trong nhiều năm chúng ta đã thường nghiệm được sự
êm dịu, vìï sự gần gũi đặc biệt với Thiên Chúa, nhắc nhớ cho ta tình thương
tràn đầy mà Chúa đã đổ tràn xuống đất.
·
Thực vậy Tình thương là Thánh thể ban cho ta trong ngày
này.
·
Tình thương là chức linh mục, công cuộc phục vụ của tình
thương, và trong nhiều điều, chức vụ ấy đem lại cho ta Thánh thể.
·
Tình thương là Hiệp nhất, hậu quả của tình thương mà Chúa
Giêsu đã nài xin Chúa Cha: "Xin cho tất cả nên một như con với Cha"
(Ga 17:21).
·
Tình thương là điều răn mới Người đã mạc khải cho ta trong
ngày này trước khi chết: "Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy
thương yêu nhau như vậy. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ
của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13:34-35). Điều răn cho
phép ta, ngay ở trên trần gian, có được một cuộc sống theo mẫu gương của Chúa
Ba ngôi rất thánh.
Ngày mai
thứ sáu tuần thánh. Chỉ có một tên gọi: đó là Chúa Giêsu bị bỏ rơi. Tôi
đã viết một cuốn sách về Người trong những ngày này tựa đề là "Tiếng
kêu". Tôi viết cuốn sách này về Người, có ý là viết nhân danh anh chị em,
nhân danh toàn thể Công trình Đức Maria. Sau đây là lời đề tặng "Như một
lá thư tình gởi đến Chúa Giêsu bị bỏ rơi". Sách đó nói về Người, Đấng mà
trong cuộc sống duy nhất Chúa ban cho ta, vào một ngày nhất định đối với mỗi cá
nhân, Ngưới đã kêu gọi ta theo Người, kêu gọi ta hiến thân cho Người. Và rõ
ràng, như tất cả những gì tôi muốn nói trong những trang này, đó không thể là
một đề tài, cho dầu điều đó rất quen thuộc, thân tình, nhận thức rõ ràng; nhưng
sách đó muốn là một lời ca, bài vui ca, và nhất là bài ca biết ơn Người.
Người đã
cho đi tất cả: cuộc sống bên cạnh Đức Maria trong những khó khăn và trong vâng
phục. Ba năm giảng dạy, ba giờ trên thập giá, nơi Người tha thứ cho những kẻ
giết mình, mở cửa Thiên đàng cho kẻ trộm, ban Mẹ Người cho ta (...) Người chỉ
còn lại thiên tính. Sự hiệp nhất giữa Người với Chúa Cha, niềm hiệp nhất êm đềm
cùng không thể diễn tả nổi với Cha, niềm hiệp nhất đã làm cho Người có quyền
năng trên trần gian, vì là Con Thiên Chúa, và rất vương giả trên thập giá; cảm
thức ấy về sự hiện diện của Thiên Chúa phải đi xuống đến tận cùng tâm hồn Người,
đến độ Người không còn cảm nhận thấy sự hiệp nhất ấy nữa, một cách nào đó nó
chia rẽ Người khỏi Đấng mà Người vẫn nói là hiệp nhất với Ngài "và Người
kêu lớn: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Chúa bỏ con?" (Mt 27:46).
Sau ngày
mai là Thứ bẩy tuần thánh: Đức Meï một mình. Người một mình với người
con-Thiên Chúa đã chết. Đó không phải là một vực thẳm buồn đau không thể lấp
đầy, một cơn hấp hối vô cùng sao? Phải, nhưng Đức Mẹ đứng thẳng, Người trở
thành mẫu gương cao cả, một đài các nhân đức. Người hy vọng, tin tưởng: những
lời của Chúa Giêsu mà khi còn sống đã oan báo cái chết cũa Người, nhưng cũng
loan báo sự sống lại của Người; nếu những người khác đã quên thì Đức Mẹ đã
không hề quên: Người giữ những lời này, cùng với tất cả những lời khác, trong
tâm hồn và suy niệm (Xem Lc 2:51). Vì thế Đức Mẹ không ngã gục vì đau đớn mà
Người chờ đợi.
Cuối
cùng là Chúa nhật Phục sinh. Đây là cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu sống lại,
Đấng chúng ta biết và sống lại cuộc đời của Người trong cuộc sống nhỏ mọn riêng
của ta; sau khi đã chấp nhận Đấng bị bỏ rơi, hay khi thực sự hiệp nhất nhân
danh Người, chúng ta cảm nhận được những hiệu quả sự sống của Người, những hoa
quả của Thần linh Người.
Đấng
sống lại phải luôn hiện diện cùng sống đông nơi ta trong năm 2000 này, năm mà
thế giới không chỉ chờ đợi những người tin tưởng cùng mến yêu Người một cách
nào đó, mà chờ đợi những chứng nhân đích thực, những người có thể nói cho mọi
người trong sự thật, như bà Ma-đa-lê-na đã nói với các tông đồ sau khi gặp
Người gần mộ, những lời chúng ta đều biết, nhưng vẫn mới mẻ: "Chúng tôi đã
thấy Người, phải, cho dầu chỉ bằng những giác quan của tâm hồn; chúng tôi đã
khám phá ra Người trong ánh sáng mà Người đã soi sáng chúng tôi; chúng tôi đã
động đến Người trong niềm an bình Người đổ vào lòng chúng tôi; chúng tôi đã cảm
nhận thấy Người trong tiếng nói của Người ở tận đáy lòng; chúng tôi đã nếm được
niềm vui không thể lầm lẫn của Người."
Vậy trong những ngày này chúng ta ghi
nhớ bốn lời nói ở trên: tình thương, Chúa Giêsu bị bỏ rơi, Đức Maria, Đấng sống
lại. Và ngõ hầu những lời ấy trở nên sự sống, không gì hơn là hãy tiếp tục sống
như vậy: "Điều làm tôi đau đớn là của tôi", đối với những người anh
em (bằng cách yêu thương họ); đối với những đau khổ bản thân, bằng cách đón
nhận Chúa Giêsu bị bỏ rơi; trong những cơn thử thách nơi mình ta phải vượt qua,
những thử thách của Công trình, sự hiện diện mầu nhiệm của Đức Maria trong Giáo
hội và trên thế giới; trong nỗ lực hầu không bao giờ để vắng bóng Người nơi ta
và giữa chúng ta: Đấng sống lại.
"Điều làm tôi đau đớn là của
tôi!" Đó là tất cả.
Chiara Lubich