NGÀI ĐẾN ĐÂY LÀM GÌ?

Câu hỏi trên đây là tựa đề một bài viết của Cha Nguyễn Công Đoan, S.J., cho tờ Đứng Dậy, số Giáng Sinh năm 1978, cũng là số cuối cùng của tờ báo này. Tôi còn nhớ rõ, đó là một số báo Giáng Sinh tuyệt vời, và chẳng thấy dấu vết gì của những điều tiếng nào đó vốn đã nghe nói nhiều về tờ báo. Nhiều cây bút bậc thầy của các dòng tu cùng góp mặt, y như một cuộc tổng động viên để ‘đánh một trận’ rồi giải tán vậy. Số báo ấy gồm toàn những bài ‘chất lượng cao’ xung quanh chủ đề Giáng Sinh – mà ám ảnh tôi nhiều nhất chính là bài “Ngài đến đây làm gì?” Từ đó đến nay đã 31 năm, bao nhiêu nước chảy dưới cầu, song cứ mỗi độ Giáng Sinh về, nhìn vào Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, tôi lại thấy mình vẫn còn đứng trước dấu hỏi miên man: Ngài đến đây để làm gì vậy?

 Để cứu độ, dĩ nhiên. Tôi nhớ ít nhất hai điều mà tác giả bài viết rất hay ấy muốn nhấn mạnh. Một là, Đức Giêsu đã không chờ cho đến khi chịu đóng đinh và chết trên thập giá mới cứu độ, mà ngay từ cuộc Nhập Thể của Ngài, sự cứu độ đã bắt đầu hiện thực rồi. Tất cả mầu nhiệm Đức Kitô là mầu nhiệm cứu độ. Như lời tuyên xưng đức tin: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế…”

Vĩnh Cửu đi vào thời gian, đó là cứu độ.

Vô Hạn đảm nhận hữu hạn, đó là cứu độ.

Thiên Chúa ở trong xác phàm, đó là cứu độ.

Và đó là lý do vì sao gọi đêm Giáng Sinh là Đêm Thánh.

Hai là, Chúa làm người để cứu độ loài người chứ không để chỉ cứu một nhóm người, và Ngài cứu độ con người một cách toàn diện chứ không chỉ cứu linh hồn người ta mà thôi. Đây cũng là niềm thâm tín được nêu rõ trong chính lời tuyên xưng ấy: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi…” chứ nào phải “Vì linh hồn chúng tôi, và để cứu rỗi linh hồn chúng tôi…” đâu!

Và như vậy, tôi trộm nghĩ rằng không chỉ có đêm ấy hay một khoảnh khắc của đêm ấy là thánh, mà toàn bộ dòng thời gian kể từ đêm ấy, kể từ khoảnh khắc ấy đã trở thành thời gian thánh. Chúa chào đời ở một nơi tầm thường nhất, để từ đây không chỉ trong Đền Thờ mới có nơi Thánh hay nơi Cực Thánh, mà bất cứ xó xỉnh nào, dù hôi hám tối tăm bần cùng nhất, cũng được ướp tràn sự thánh thiện của Thiên Chúa rồi. Bầu không khí nhiều ô nhiễm này tôi đang hít thở, bữa cơm đạm bạc này tôi đang ăn, trang sách hay này, lời phiền trách kia, những con người xung quanh tôi đây – dễ thương hay dễ ghét – tất cả đang chìm ngập trong sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã đảm nhận phận người, trong chính không gian và thời gian này.

Quả là Ngài đến đây để cứu độ và quả là năng lực cứu độ nằm ngay trong sự hiện diện của vị Thiên Chúa Nhập Thể. Nhưng tất cả câu chuyện không chỉ sơ sài có vậy. Thiên Chúa đã không hiện diện trong xác phàm theo kiểu bất kỳ (nghĩa là không kiểu này thì kiểu … khác!) Nơi con người Giêsu, Thiên Chúa đã hiện diện, thánh hóa, cứu độ theo kiểu của Ngài. Mượn ngôn ngữ thời thượng hôm nay, có thể nói rằng kiểu làm người của Đức Giêsu có ‘nhãn hiệu cầu chứng’, có ‘thương hiệu’ hẳn hoi. Nếu điều này vô tình bị bỏ qua, thì câu chuyện Đức Giêsu sẽ trở thành khá tẻ nhạt, vì nó mất đi một phần thiết yếu, ví như một bài văn vụng về chỉ có nhập đề và kết luận. Câu hỏi “Ngài đến đây làm gì?”, vì thế, vẫn còn y nguyên đó. Nó đòi một câu trả lời đủ rõ, một câu trả lời được đầu tư và được quan tâm đủ. Câu trả lời ấy, dĩ nhiên, tiên vàn không ở đâu khác ngoài các trang Sách Tin Mừng.

Nhớ hồi còn bé mới bảy, tám tuổi, tôi học giáo lý về Chúa Giêsu: Hỏi, trong Ba Ngôi, Ngôi nào ra đời? Thưa, Ngôi thứ Hai ra đời… Hỏi, Chúa Giêsu có mấy bản tính? Thưa, Chúa Giêsu có hai bản tính, một là bản tính Đức Chúa Trời; hai là bản tính loài người ta. Thế là thằng bé được nghe giải thích dông dài về ‘ngôi vị’ và ‘bản tính’, về sự phân biệt giữa hai đàng, và về sự thật “hai bản tính trong một ngôi vị” của Đức Giêsu. Nói theo ngôn ngữ giới trẻ bây giờ là thằng bé ‘hiểu chết liền’! Mà thật, đến nay đã là một ông linh mục, những ý niệm triết học Hy Lạp ấy vẫn còn chưa hết đánh đố tôi. Tôi tự hỏi: Phải chăng câu chuyện Đức Giêsu trong Tin Mừng (vốn không hề dùng những ý niệm ấy) không có sức chuyển tải cùng một chân lý đức tin kia?

Thật may là các em thiếu nhi học giáo lý ngày nay xem ra được tiếp cận nhiều hơn với câu chuyện Đức Giêsu trong Tin Mừng, chứ không chỉ bám vào những câu giáo lý đôi khi đầy gai góc. Tuy nhiên, vẫn còn đó băn khoăn. Hình như các bản tuyên tín (truyền thống) của mình vẫn chưa đủ bao hàm, trong đó câu chuyện Đức Giêsu – vốn là trọng tâm qui chiếu của đức tin – hơi bị cụt ngủn? Phải chăng vì khuôn khổ của một công thức cô đọng bắt phải thế? Tôi không biết. Chỉ biết là:

- Kinh Tin Kính Ni-xê: [Chúa Giêsu Kitô] … đã nhập thể và sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào Thập Giá …

- Kinh Tin Kính Các Tông Đồ: Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô…

- Kinh Tin: Ngôi thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết mà chuộc tội…

- Kinh Ăn Năn Tội (cũng bao gồm phần tuyên tín): Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con…

Nghe dễ có ấn tượng rằng Chúa sinh ra làm người là để … chịu chết! Mà đó nào phải là sự thật! Sự bất cập này cũng được thấy trong Kinh Mân Côi truyền thống, vốn gồm Năm Mầu Nhiệm Vui (Chúa sinh ra, Chúa còn bé) rồi chuyển sang Năm Mầu Nhiệm Thương (Chúa chịu khổ nạn) và Năm Mầu Nhiệm Mừng (Chúa sống lại, lên trời…) Còn cả một ‘đời người’ của Chúa thì dường như không phải là mầu nhiệm! Điều đáng nói là nếu bỏ qua cái ‘khúc giữa’ của cuộc đời Chúa, thì không dễ gì hiểu được ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Ngài. Dường như chính vì nhìn ra lỗ trống ấy mà Đức Gioan Phaolô II đã đưa thêm Năm Sự Sáng vào Kinh Mân Côi, để thúc đẩy việc chiêm ngắm Chúa Giêsu trong đời thường của Ngài, cũng chính là trong hành trình sứ mạng. Không chạm đến câu chuyện cuộc đời của Đức Giêsu, nhất là không chạm đến sứ vụ của Ngài, là đã bỏ qua một phần thiết yếu, và như vậy chưa trả lời đúng mức cho câu hỏi “Ngài đến đây làm gì?”

Ở đây, tôi chợt nhớ một đoạn Tin Mừng thú vị trong tuần III Mùa Vọng. Khi Gioan sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu về căn tính của Ngài: “Thầy có phải Đấng phải đến không?” (Lc 7,19) – thì Chúa đã không nói Ngài là ai hay không là ai, Ngài chỉ yêu cầu các môn đệ ấy về kể lại cho Gioan một câu chuyện, câu chuyện Ngài đang làm gì làm gì, và là câu chuyện mà chính họ trực tiếp kinh nghiệm: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Lc 7,22-23).

Ngài đến đây làm gì? Câu hỏi không khó, câu trả lời cũng không.

Khó chăng là tôi có dám đối diện với câu trả lời, và đưa ra câu trả lời của chính mình, ở đây và hôm nay, cho câu trả lời ấy. Cũng ví như mùa Thường Niên rồi sẽ về sau mùa Giáng Sinh này vậy, khó chăng là nhận ra rằng ngay cả những ngày những tháng gọi là ‘thường’ ấy thực sự chẳng thường chút nào – chẳng thường chút nào như cuộc đời thường của Con Thiên Chúa.

Giáng Sinh 2009 Lm. Lê Công Đức

Một năm mới đang về. Năm mới sẽ đem về gì đây? Tôi không có ý nói đến một viễn tượng nào đó cho thế giới, cho tình hình chính trị, hay cho Giáo Hội. Tôi muốn nghĩ đến viễn tượng của chính mình – của tôi. Dấu hỏi này và nỗi ưu tư này không hề vu vơ. Vì rồi sẽ tới lúc tôi ra đi, sẽ tới lúc tôi không còn có mặt trên trần đời này nữa. Và chính đức tin – chứ không phải những tưởng tượng lẩn quẩn về mình – cho tôi biết rằng dù ra đi nhưng mình sẽ vẫn tồn tại thực sự, và tồn tại trong tất cả sự thực mà mình đã trở thành ở đây và bây giờ, rằng toàn bộ thời gian đang trôi chảy đây được thâu họp vào thực tại mệnh danh là “vĩnh cửu” – vĩnh cửu của tôi, vĩnh cửu của bạn, vĩnh cửu độc nhất, không thể chuyển và không thể đổi.

Vì thế tôi có lý do để băn khoăn rằng năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi. Mà nói cho cùng, tất cả lịch sử rốt cục cũng chỉ quan trọng ở chỗ nó đem lại gì cho mỗi con người, cho bạn và cho tôi, trong vĩnh cữu ấy (dù có thể nhiều người nông cạn không nhìn ra tầm quan trọng này). Vì mọi cái khác đều trôi qua, chúng không quan trọng lắm bởi chúng nay còn mai mất. Rõ ràng ta có thể nói rằng cái thực tại chóng qua này đây – nếu được hiểu đúng – chính là vĩnh cữu trong tiến trình đang trở thành; thực thể vĩnh hằng là thực thể phàm trần đã được mang đến mức viên mãn, chứ không phải là một cái gì sẽ đến sau này theo cách hiểu thông thường – vì nếu thực thể vĩnh hằng chỉ là cái sẽ đến sau, thì rồi cũng sẽ tới lượt nó trôi đi mất, tiêu vong!

Đó là lý do tại sao tôi quan tâm tới vấn đề năm mới này sẽ đem lại gì cho mình. Với tất cả niềm trân trọng đối với vĩnh cửu, tôi muốn đặt câu hỏi này ra. Vì những gì đang đến sẽ không tan biến mất. Nó đến để ở lại. Nó có mặt để lưu tồn chứ không phải để tiêu vong. Nó cắm vào trong khoảng trống của thời gian để lấp đầy thời gian. Nó là huyền nhiệm của vĩnh cửu trong thời gian. Năm mới này sẽ đem lại gì đây – vấn đề này tôi trân trọng mấy cũng không vừa. Vì bao lâu tôi còn đi qua dòng chảy của thời gian trong thân phận con người mình, tôi vẫn luôn nghĩ rằng thời gian không chứa đựng gì ngoại trừ chính nó. Tôi phải thường xuyên tự cảnh tỉnh mình. Vĩnh cửu đang diễn ra nơi tôi bây giờ, một lần và cho tất cả, vĩnh cửu đang có mặt bây giờ dẫu tôi tưởng rằng những gì đang trôi qua đây chẳng có mấy tầm quan trọng.

Không phải mọi khoảnh khắc đời tôi đều có đầy giá trị lưu dấu vĩnh cửu như nhau. Vậy, khi nào thì một khoảnh khắc của đời tôi được “viên mãn” (theo nghĩa: khi thời gian đến hồi “viên mãn”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và đi vào trần gian)? Rõ ràng khoảnh khắc ấy sẽ xảy đến khi mà – với tất cả ý thức, can đảm và quyết tâm – tôi huy động trọn vẹn con người mình và với tự do của mình tôi trao phó trọn vẹn con người tôi cho Thiên Chúa, một cách hoàn toàn không nhuốm màu vị kỷ, một cách khôn tả vì đó chính là nhờ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa, Đấng mà tôi chỉ thực sự biết khi nào tôi đạt đến cuộc dâng hiến khôn tả nầy. Và người ta đạt đến điều này không phải bằng con đường thông thuộc đầy dấu vết của cảm tính và giảo hoạt, nhưng là bằng thái độ nghiêm túc triệt để và bền bỉ trung thành, vì Thiên Chúa là Đấng ta không thể hiểu thấu. Như vậy, tôi chỉ có một cách để làm chủ chính mình: làm chủ qua hành vi thí bỏ và trao hiến trọn vẹn con người tôi!

 Và rõ ràng, đó là tất cả ý nghĩa của hành vi Kitôhữu. Vì, dù người ta có ý thức hay không, trong trật tự của cuộc sống hiện tại, một hành vi như thế không thể được thực hiện ngoài đức tin và ân sủng. Sở dĩ ta có thể bước tới được với Thiên Chúa, đấy là bởi vì chính Ngài – Đấng vô cùng – đã đến gần gũi với ta nơi Đức Giêsu Kitô (dù người ta có biết điều này hay không).

Thật là đúng đắn, đáng khen, và rất có ý nghĩa khi nói (miễn là ta biết dè dặt đúng mức chứ không lạm dụng bừa bãi) rằng chúng ta suy tưởng về Chúa, chúng ta có thiện chí, chúng ta giữ các giới răn của Ngài thì (ta nghĩ) sẽ chẳng có sự cố gì có thể xảy đến cho mình, chắc hẳn Ngài phải tỏ ra ưu ái ta, thưởng công cho ta (như nhiều người Công Giáo nghĩ) hay ít nhất Ngài cũng phải tha thứ tội lỗi cho ta (như nhiều người khác nghĩ).

Dĩ nhiên cách nghĩ ấy có thể đúng. Hay phải nói rằng quả thực cách nghĩ ấy đúng. Song đó không phải là tất cả sự thực mà tôi đang quan tâm ở đây. Nói cho cùng, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với hết lòng, hết sức lực, với trọn linh hồn mình. Và đàng khác, chúng ta phải yêu như vậy ngay khi mình còn trong thân phận lữ khách hành hương cách xa Chúa vời vợi, ngay khi mình vẫn không nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Vì phúc ân mà ta được hứa nằm ở trong sự hoàn thành trọn vẹn cuối cùng và vĩnh viễn của thời gian, của tình yêu trong thời gian.

Vì thế chúng ta phải tận hiến chính mình cho Ngài trước đã, bằng chính sự tự do trong hiện tại này, để có thể hoàn toàn đón nhận được Ngài. Đó phải là một hiến dâng trọn vẹn, không thể có một cắt xén nào, một châm chước nào. Tất cả các phúc ân mà Ngài ban cho ta cũng cốt ở chỗ giúp ta thực hiện hành vi dâng hiến này. Tuy nhiên duy chỉ việc Chúa ban ơn cho ta cũng không đủ để làm ra hành vi dâng hiến đó; nó phải là một việc làm của ta nữa (một việc làm trong thời gian mang ý nghĩa vĩnh cửu). Ngay cả người kẻ trộm bị đóng đinh thảm hại kia cũng được nhận lời khi – vào giây phút cuối cùng – anh ta bắt đầu tin yêu với trọn tấm lòng, trọn năng lực và trọn linh hồn anh.

Nhưng khi nào thì điều này xảy đến cho tôi? Và ở đâu ơn Chúa sẽ hoàn toàn chiến thắng và hoàn toàn khuất phục sự tự do của tôi – để con người nhát đảm và khiếp sợ của tôi (vốn không dễ gì chịu bỏ mình) có thể tìm ra được đủ can đảm để dám thực sự hoàn toàn quên mình vì Chúa? Ở đâu và khi nào tôi sẽ đạt đến điều đó? Chắc hẳn là tôi đã được điều đó rồi, tôi có thể tự nhủ mình một cách đầy an ủi như thế. Vì, dĩ nhiên, tôi xác tín rằng mình đang sống trong ân sủng Chúa, tôi xác tín rằng mình đã gặp thấy lòng khoan nhân của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài – là chính tình yêu của Thiên Chúa – vẫn được đổ tràn vào lòng ta. Và do đó, (có thể nói) tình hình không có gì là quá bi đát hay quá mờ mịt cho tôi, vì tình yêu của Thiên Chúa tràn trào; nếu không nhận được tình yêu ấy thì chẳng một ai có thể gặp thấy được Thiên Chúa của mình.

Câu hỏi có thể đặt ra: Phải chăng chúng ta có thể nói rằng ta phải yêu mến Thiên Chúa từ nơi sâu thẳm nhất của con người mình, yêu một cách đích thực và chân thành – nhưng ta không cần phải thu tóm trọn cả cuộc sống mình vào trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa “ngay lúc này”, lúc mà chúng ta đang xao xuyến đặt câu hỏi này ra? Khi tự hỏi như vậy là chúng ta cho thấy rằng mình vẫn còn đang bước đi trong cuộc hành trình dang dở, vẫn đang còn ở trong giòng lịch sử phận người…. Không được phép cố tình giậm chân tại chỗ, chết cứng. Chúng ta phải hăng hái tiến lên và trưởng thành trong tình yêu này.

Và nếu chúng ta làm thế, thì rõ ràng là mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp ngay trong hiện tại này – nghĩa là ngay khi mà chúng ta còn chưa có được một tình yêu có sức làm cho mình biến đổi hoàn toàn, ngay khi chúng ta còn tham lam và ích kỷ – dù vẫn có niềm tin và thiện chí. Chúng ta có tấm lòng và tấm lòng đó sẽ triển nở nếu ta không cố tình phung phí những cơ hội do cuộc sống và ơn Chúa ban cho.

Tất cả những điều ấy quả xác thực và sự xác thực này rất có tính khích lệ cho ta. Song như vậy không có nghĩa là có thể hoàn toàn thỏa mãn, vì dù sao chăng nữa một lúc nào đó trong cuộc đời ta cái khoảnh khắc “thời gian viên mãn” vẫn cần phải xảy ra. Cái khoảnh khắc linh thánh, tuyệt vời, trọn vẹn ấy phải xảy ra. Cái khoảnh khắc tĩnh lặng như đêm Chúa ra đời, trong đó với trọn lòng mình con người dâng hiến trọn vẹn chính mình trong bàn tay của Đấng mà mình không thể thấu hiểu (thật là khủng khiếp một sự phó thác như thế) – và cuộc dâng hiến ấy trọn vẹn đến nỗi món quà hiến dâng không bao giờ bị lén lút rút lại, như thực tế vốn thường xảy ra.

Ta có thể dám hy vọng không, hy vọng rằng một ngày nào đó mình cỏ đủ tấm lòng để thực hiện được hành vi dâng hiến ấy? Có phải thực ra ta đã hy vọng rồi – vì rất có thể ta đã bắt đầu hy vọng rồi, và vì ta nghĩ mình vốn vẫn yêu mến một mức nào đó hoặc vốn vẫn khao khát một tình yêu như thế? Có phải đó là một dấu chứng đầy đủ cho niềm hy vọng – vừa rất dũng cảm vừa vô cùng thiết yếu – rằng rồi sẽ đến lúc ta có thể thực sự biết yêu bằng trọn vẹn con người mình? Duờng như tuổi tác càng chất chồng thì tấm lòng người ta càng khó sẵn sàng để hiến dâng. Nó trở nên mỏi mệt, héo hắt, lạnh lẽo và chán chường. Người ta tự hỏi phải chăng mình tiếp tục bước tới bởi vì mình không thể làm bất cứ gì khác, mình đã hóa khô cứng do trải qua sự khổ luyện hằng ngày, hoặc phải chăng mình như bất lực không còn có thể làm gì khác bởi vì chính sự bất lực này là phần thưởng ân phúc của sự tự do đích thực? Có phải nhân đức đã xuống cấp trở thành chuyện thông thường, sự nỗ lực phấn đấu đã trở thành chuyện náo động vu vơ, và lòng trung tín chỉ còn là tập quán?

Sự viên mãn của thời gian trong đời tôi ở đâu, đâu là giờ phút quyết định trong đó toàn bộ thực tại con người tôi được huy động? Phải có một giờ phút như vậy. Bởi vì rõ ràng là con người ta không xây đắp cuộc đời mình bằng cách thu gom những việc lành của mình, từng việc từng việc lẻ tẻ, và dồn chúng lại. Đúng hơn, mỗi việc lành ấy đều có tiềm năng chứa đựng cái toàn thể, có tiềm năng hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao một hành vi riêng lẻ nào đó có thể quyết định cả cuộc sống con người. Thế mà mọi hành vi, hiểu theo nghĩa đầy đủ, đều có sức quyết định như thế. Tội “trọng” là cái có thực, và việc lành “trọng” cũng có thực. Một việc lành “trọng” tự yếu tính nó phải khác với một việc lành “nhẹ” – cũng như tội trọng khác với tội nhẹ. Nhưng đâu là những lúc mà tôi đã thực hiện những hành vi có tầm quan trọng như thế, những hành vi có trọng lượng bằng cả con người tôi – bởi vì chúng đặt cả con người tôi lên bàn cân của Thiên Chúa?

Người ta thường nói đến những phút giờ trọng đại nhất, những khoảnh khắc tuyệt vời và linh thánh nhất của đời người – và cứ dựa theo những biến cố đang được mừng thì đó là: dịp rước lễ lần đầu, ngày thành hôn, …, dịp lãnh chức thánh, vv… Có phải những biến cố ấy là những bước quặt của cuộc đời mà chúng ta đang tìm kiếm? Có phải những biến cố ấy chính là sự tròn đầy của vĩnh cửu đi vào trong một khoảnh khắc của thời gian? Chúng ta được phép nghĩ thế. Vì còn gì trọng đại hơn và quyết liệt hơn cái khoảnh khắc mà – chẳng hạn – người ta thực sự ăn tấm bánh vĩnh cửu là chính Thân Mình Chúa, Đấng đã tự hiến đến chết vì chúng ta?

Tuy nhiên ai cũng rõ rằng người ta không những có thể đón nhận tấm bánh vĩnh cửu ấy một cách bất xứng và vì thế tự chuốc lấy án vĩnh viễn cho mình – chúng ta còn biết rằng dù bí tích có giá trị trọn vẹn nhưng không phải bao giờ ta cũng lãnh nhận trọn vẹn thực tại mà bí tích hàm chứa, tức trọn vẹn ân sủng – dẫu là ta không đang lãnh nhận bí tích một cách bất xứng đi nữa. Không phải mỗi lần lãnh nhận sự viên mãn của thời gian là mỗi lần tôi nhận được sự viên mãn của đời mình. Người ta có thể sống trong khoảnh khắc của Đức Kitô mà cuộc sống của chính mình vẫn trôi qua một cách khô cằn trống rỗng – hay khá hơn thì cũng rất rời rạc vá víu. Sẽ tuyệt diệu biết bao nếu trong mô thức bí tích ấy người ta có thể tìm thấy được sự viên mãn của cuộc sống mình. Tuyệt diệu biết bao nếu sự viên mãn của thời gian có thể có mặt trong chính giòng đời tôi, ở đây và bây giờ. Lúc ấy sẽ không còn phải thiếu thốn gì nữa. Sự sung mãn vĩnh cửu của Thiên Chúa sẽ hiện diện – và sự hiện diện thâm sâu này sẽ hiện thực một cách khả giác trong chính biểu lộ của nó vừa ở chiều kích cá nhân vừa ở chiều kích Giáo Hội, vừa hết sức cụ thể vừa đượm tính phụng vụ. Sự sung mãn ấy sẽ được hiện thực tròn đầy trong dấu chỉ, trong biểu hiệu của bữa đại tiệc vĩnh hằng, bữa đại tiệc của sự hoàn thành đầy đủ. Người ta sẽ uống cạn chén rượu đời mình – và chén rượu ấy được cảm nhận đã tan hòa thành một trong chén của Đức Kitô.

Điều đó là có thể và là cần thiết. Song quả là ta không thể quyết chắc rằng Thiên Chúa đã đặt định sẵn cho mọi người để phút giờ quyết định ấy của mỗi người đều xảy ra đúng khi dấu chỉ của bí tích (diễn tả sự hoàn thành của thế giới và của từng người bằng ân phúc và thứ tha) được thực hiện trong cuộc đời họ. Xem ra chỉ một phần bé nhỏ của ân sủng ấy được đón nhận, xem ra trong cõi lòng người ta chỉ thực sự có chỗ để đón nhận chỉ một phần của ân sủng ấy – nếu như cõi lòng ấy không nhút nhát và hẹp hòi quá mức.

Nghĩa là, phút giờ trọng đại ấy, phút giờ sung mãn ấy rất có thể cũng xảy ra khi dấu chỉ của bí tích (theo nghĩa rộng) nghèo nàn hơn, mù mờ hơn và không phải là một opus operatum gì cả. Người ta có thể uống cạn chén rượu đời mình với trọn sự sống và sự chết của mình trong một phút giờ nào đó không phải là phút giờ của bàn tiệc Thánh Thể – dù vậy họ vẫn sống phút giờ ấy của mình trong sự kết hợp mật thiết với phút giờ của Đức Kitô. Vì Đức Kitô đã kết hợp phút giờ của mọi người vào trong phút giờ của Ngài – phút giờ trở thành hiện thực trong hy lễ tiến dâng và trong bàn tiệc Thánh Thể.

Người ta có thể bất chợt đột phá qua mọi rào chắn vốn vẫn giam hãm bản ngã đầy xao xuyến của mình và hòa nhập vào khung trời bao la của Thiên Chúa xuyên qua một sự từ bỏ rất âm thầm lặng lẽ, một hy sinh xem ra hết sức nhỏ nhặt tầm thường của họ. Có lẽ chính người ấy cũng không chú ý mấy đến điều đang diễn ra nơi mình, có lẽ chẳng có cảm nghĩ nào được người ấy xem là đáng đặc biệt ghi nhớ. Chỉ có điều là người ấy bỗng dưng trở nên thật quảng đại cởi mở. Bỗng dưng tồn tại một cái gì đó mà mình không thể gọi tên, một cái gì đó rất kỳ diệu, vô hình và không thể nào tả được.

Nhưng mọi sự khác hẳn. Thực tại đang có mặt ấy không thể được xếp bên cạnh những thứ khác lấp đầy đời sống như kiểu những món đồ đạc cũ kỹ được chất ngổn ngang đầy kín trong nhà kho. Thực tại ấy không thể được so sánh với bất cứ gì khác và không thể được gán cho là cùng loại hay khác loại với cái này hoặc cái kia. Con người ấy đã từ bỏ, đã ra đi, đã đoạn tuyệt. Bây giờ, thật bất ngờ, con người ấy lại có mặt khắp mọi nơi và nắm giữ tất cả, cái tưởng như “không là gì” ấy hóa ra chính là tất cả. Con người ấy không cần một chỗ tựa nào nữa, vì bây giờ chính bản thân mình đã trở thành một “toàn-thể-tính” ổn định, tự nâng đỡ mình (trong toàn-thể-tính của Thiên Chúa) đứng vững không té ngã – vì trong cô đơn này và trong sự từ bỏ này, không có gì mà con người ấy có thể té ngã vào được nữa.

Có thể có người đâm ra kinh sợ cái vô hạn rất trầm lặng đang mở ra cho mình này – không phải mở ra bằng những ý tưởng trừu tượng, nhưng là mở ra nơi cảm nghiệm về năng lực thực có của hữu thể mình, tức là tinh thần. Người ấy như hoảng sợ thoái lui, quay trở lại với những gì quen thuộc trong cuộc sống mình, quay trở lại với những gì khả giác, với những bổn phận có giới hạn, với những nguyên tắc được công thức hóa rõ ràng. Và như vậy người ấy không nhận ra đúng đắn rằng trong khi những điều ấy quả cần thiết (cần thiết theo lý chứ không phải theo tình cảm cuồng nhiệt) – thì người ta vẫn đâu phải cần đến chúng để trốn thoát khỏi những thứ khác.

 Những điều ấy là phương tiện để cho người ta đạt đến sự chấp nhận đích thực đối với cái vô hạn vốn phải thực sự được tìm thấy trong chúng – và là cái không chỉ được đặt ra trước mặt người ta như một phần thưởng cho những việc tốt lành hữu hạn mà họ thực hiện. Dĩ nhiên trong những việc tốt lành này có sự hiện diện của ân sủng (nếu đây là những việc lành đúng nghĩa như đã đề cập). Và ân sủng này, cuối cùng, là chính Thiên Chúa – là ‘ơn phi tạo’ – là Thánh Thần Tình Yêu vĩnh cửu. Thiên Chúa hiện diện đích thân trong những công việc tốt lành đó. Ngài không chỉ là phần thưởng hứa ban cho những kẻ làm việc lành, bởi chính Ngài – trong chân tính của Ngài – là Đấng trao ban những công việc ấy không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho chúng trở thành điều mà chúng nên thành và phải thành (thì mới có thể được gọi là những việc có giá trị đúng nghĩa – tức giá trị cứu độ): đó là chúng trở thành những lối mở dẫn vào sự vô hạn bỏ ngỏ của Thiên Chúa.

Những công việc và những tình cảm ngay lành xét theo tự nhiên (nếu chúng tồn tại một cách tinh thuần đúng nghĩa) sẽ là những thực tại mà tự thân chúng đáng được tưởng thưởng bằng một phần thưởng nào đó của Thiên Chúa – chứ không phải là chính Thiên Chúa. Còn những “việc lành” của các Kitôhữu (dù công khai hay âm thầm) thì chứa đựng sự vô hạn của chính bản thân Thiên Chúa – Đấng vừa là điều kiện quyết định sự hiện hữu của khả tính của chúng (bởi vậy nên gọi là ân sủng) vừa chính là phần thưởng của chúng (gọi là sự sống đời đời). Và bởi vì Thiên Chúa đã không muốn chọn một thế giới nào khác ngoài cái thế giới mà Ngài đã trao ban chính bản thân Ngài (chính bản thân Ngài, chứ không duy chỉ trao ban những thành quả do Ngài làm ra) cho nên rõ ràng là tất cả những gì hữu hạn chỉ có ý nghĩa trong tư cách là một lối mở dẫn vào cái vô hạn không thể hiểu thấu, trầm lặng và khôn lường.

Như vậy, chỉ cần một hay hai củ hành ném qua bờ giậu cho người nghèo khó cũng có thể là một bước quặt có tính quyết định – một chút lòng tốt mà trong đó thực sự không hề nhắm kiếm tìm sự biết ơn, thứ tha mà không hề chú ý đến sự kiện rằng mình đang tha thứ, một giọt máu chảy ra từ trái tim và rơi vào đâu đó – thực không thể biết là nơi nào – mà không hề xót xa, thái độ âm thầm chịu nỗi đớn đau cùng cực mà không hề hiểu vì sao – cũng không biết được liệu mình có sẽ còn khả năng chịu đựng. Hay một kẻ cô đơn cùng cực mà không trốn chạy khỏi nỗi cô đơn của mình, cũng không phóng chiếu mình trong nỗi cô đơn đó. Hoặc một người sống đàng hoàng tử tế trong cuộc sống bình thường và do đó bị khinh chê là khờ dại, song vẫn không phẫn nộ phản kháng lại cái điên rồ của một thế giới trong đó con người ngay thẳng bị xem là dại khờ.

Con người đó cũng không tự vỗ về an ủi mình (để bù trừ cho sự thiếu vắng lời khen ngợi của kẻ khác) bằng cách tự biểu dương và khâm phục tính cách tử tế của mình. Người ấy không âm thầm thu gom những cái tốt của mình lại – để sau này trình làng và gặt hái vinh dự, cũng không kể công với bạn hữu hay vợ/chồng mình nhân khi mình lên tiếng phiền trách vì bị xử tệ. Người ấy chỉ muốn tử tế, đơn giản vậy thôi! Kỳ diệu biết bao một sự tử tế hoàn toàn vô tư, vô cầu. Đó là sự tử tế hoàn toàn hồn nhiên như trẻ thơ. Đó là tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa trong thế giới đời thường. Thử hình dung một người chuyên chăm làm bổn phận mình, người ấy không ngoại tình – trong hành vi và cả trong tâm tưởng – mặc dù bổn phận chung thủy này cơ hồ như đòi người ấy phải chết đi chính mình, cơ hồ như đòi người ấy phải khước từ chính bản ngã. Một hình dung khác, một người cầu nguyện bỗng đột nhiên quên mất rằng mình đang cầu nguyện, đột nhiên quên mất rằng mình đang cần một sự gì đó (và dĩ nhiên là cũng quên mất rằng mình đang cố gắng tranh thủ cái mình cần), người ấy quên cả rằng mình đang lên lời.

Chỉ còn có Thiên Chúa ở đó thôi – rất trầm lặng, rất âm thầm nhưng cũng rất thực. Không thể thấu hiểu, không thể diễn tả, không thể so sánh, không thể bập bẹ được gì về Ngài – nhưng chính là Ngài đó, rất thực. Ngài ở đó dường như bởi vì ta không còn ở đó. Ta có được Ngài bởi vì ta đã bỏ mình và ra khỏi mình. Ngài ở đó, vì ta – rốt cục – không còn đồn trú trong vành đai bản ngã mình nữa. Nói cho cùng, không thể nào diễn tả xa hơn về cuộc siêu thoát này; vì một khi ta cố diễn nó thành lời trong chính cái khoảnh khắc mà mình đã để bản ngã lại đằng sau, thì lập tức ta đã quay trở về bên trong những lằn mức giới hạn rõ rệt của tình trạng và thực tại mình. Nếu ta có phát biểu về nó (đôi khi đây là điều ta phải làm), thì ta cũng không nhằm làm cho sự phát biểu của mình đóng vai trò phô diễn cái hành động chứa đựng trong lời phát biểu ấy.

Thực có những giờ phút quyết định như thế. những giờ phút ấy hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng ta không đạt được những giờ phút ấy duy chỉ bằng việc bàn luận về chúng. Bởi chỉ cần có một chút khả năng, người ta có thể ăn nói trơn tru về chúng duy chỉ nhờ nghe người khác kể lại hoặc nhờ ở việc phát hiện ra dấu vết rõ ràng của Thần Khí và ân sủng (dấu vết này thậm chí có thể được tìm thấy nơi những việc làm và những kinh nghiệm phàm tục và tầm thường nhất của đương sự). Vì nếu chúng ta không có một chút kinh nghiệm gì về cái mà ta chỉ đạt được trọn vẹn trong những giờ phút quyết định ấy, thì ta đâu còn thần tính nữa và đâu còn được ân sủng thu hút nữa – trong khi thực sự ta luôn còn thần tính (cho dẫu ta đang dã man vung dao giết người) và luôn luôn được thu hút về phía ân sủng. Nhưng không phải mọi kinh nghiệm đều được ta đón nhận và nắm giữ với tất cả năng lực của lòng mình. Ta không có được sự viên mãn của thời gian và vĩnh cửu trong lòng mình bởi vì ta tự hài lòng với chỉ một thoáng hương vị của nó và mê mải triết lý về chút hương vị bé nhỏ đó thôi.

Và như vậy câu hỏi vẫn còn: Phải chăng một giờ phút quyết định như thế – giờ phút mà thời gian của đời tôi đạt đến sự viên mãn – đã từng xảy ra? Một câu hỏi điên khùng! Người ta không thể thực sự đặt câu hỏi kiểu đó. Bởi vì chẳng ích gì cho tôi việc tôi có thể kể lại một khoảnh khắc như thế đã từng xảy ra trước đây trong đời mình. Có lẽ tôi có thể tuyên bố như thế. Có lẽ tôi có thể quyết đoán rằng khoảnh khắc ấy đã từng xảy ra hồi tôi còn bé, lúc rước lễ lần đầu, khi tôi mời Chúa ngự vào lòng tôi – một tấm lòng bé nhỏ nhưng chứa chan tình mến Ngài.

Nhưng khi đặt câu hỏi như vậy, chẳng khác nào tôi cho rằng những gì đã xảy ra vẫn còn có nghĩa lý với tôi bây giờ. Và điều đó hoàn toàn sai. Vì sự viên mãn của thời gian trong đời tôi chỉ thực sự đáng kể khi đó là cái chưa trôi qua. Vấn đề quan trọng là bây giờ hay ngày mai đây, một phút giờ mang tầm vĩnh cửu như thế có xảy đến với tôi hay không. Vì bao lâu con người còn trong thân phận khách hành hương, bao lâu thời gian vẫn còn là thời gian, thì mỗi khoảnh khắc vẫn tựa như người chạy tiếp sức với bó đuốc trong tay – người ấy không chỉ giữ ngọn lửa rực cháy ấy cho riêng mình mà còn phải trao nó cho người kế tiếp. Chỉ khi người sau nhận bó đuốc và mang nó chạy tiếp thì cuộc chạy của kẻ trước mới khả dĩ có được ý nghĩa và giá trị gì.

Đời sống quả thực không phải là một tổng hợp của những phần rời rạc riêng biệt (ở đây đang nói đến đời sống tinh thần chứ không phải sự sống thể chất); nhưng toàn thể đời sống xét như một thực thể thống nhất không tách chia được – vận hành qua thời gian và trong một tiến trình trở thành xuyên qua mọi sự. Vì vậy, duy chỉ sự kiện tôi đã được cái gì trước đây sẽ không hề có nghĩa rằng hiện giờ tôi đang có cái đó, song trong quá trình lâu dài này tôi có thể trở thành – một lần nữa trong hiện tại – như mình đã trở thành trước đây. Cái đã qua luôn luôn chỉ có nghĩa một tiếng gọi thúc giục ta hiện thực hóa điều vốn đã từng hiện thực, và đó cũng còn là một lời hứa đảm bảo rằng điều đã từng thành công trong quá khứ cũng sẽ thành công trong hiện tại này. Như vậy chỉ vì sự hiếu kỳ vu vơ hoặc vì nỗi day dứt ăn năn muốn biến quá khứ thành tương lai mà người ta mới quay trở lại với quá khứ của mình – để lục tìm những phút giờ cao cả của vĩnh cửu đã từng xảy ra trong đó.

Do đó, đừng nên hỏi rằng đã từng có một phút giờ quyết định như thế hay không trong đời mình – một cuộc đời nghèo nàn trống rỗng, một cuộc đời đầy những ảo ảnh ngay cả trong những điều gọi là tốt lành mà ta đã làm. Thay vào đó, tốt hơn nên hỏi một phút giờ như vậy sẽ xảy đến với tôi từ đâu trong quãng đường trước mặt mình. Tôi phải tìm ra nó ở trước mặt chứ không phải ở sau lưng. Và cũng chính ở phía trước mặt tôi là nơi tôi phải gặp thấy lại những phút giờ xưa cũ ấy. Vì những phút giờ mà Thiên Chúa từ nhân tuôn đổ ơn sủng của Ngài trên tôi chỉ có thể còn lại với tôi ở trên đường tôi đang đi tới mà thôi. Kho tàng của quá khứ là sự mở ngỏ của tương lai.

Vì rõ ràng chúng ta đã hành động là nhằm để có khả năng hành động, đã yêu thương là nhằm để có khả năng yêu thương. Thật ra toàn thể quá khứ của tôi có thể đến lại với tôi, bởi nó cần được bảo toàn hay được cứu độ. Vì một người tìm gặp được Thiên Chúa thì không thể đánh mất gì, và vì một khi chúng ta vẫn còn có thể có một trái tim và khả năng yêu mến Thiên Chúa với trọn tấm lòng mình thì chúng ta chẳng bị hụt mất gì cả.

Tuy nhiên, cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa ập xuống trên những ai không hết lòng tin vào sứ điệp hồng phúc của ân sủng đó của Ngài, ân sủng mà Ngài không hề tiếc rẻ, ân sủng quyết định tất cả sự sống của ta. Có một thứ tinh thần thực dụng trong đó người ta chỉ biết đến những gì nơi chính mình và nơi con người mà thôi, và thường quên chính điều thực tiễn đệ nhất là Thiên Chúa – là tương lai vĩnh cửu và là ân sủng nhờ đó mình có thể làm cho tương lai vĩnh cửu ấy thành tương lai của chính mình. Sự hoàn thành của tất cả khả năng này không phải ở đâu và lúc nào cũng nhất thiết phải xảy ra kèm theo với cảm xúc và với những giọt nước mắt vui mừng – như chúng ta thường muốn thế.

Cơ hội hồng phúc này chủ yếu được hứa cho những người mỏi mệt và nặng trĩu trong lòng, những người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vô hình của khổ đau và thất vọng: Phúc cho những ai than khóc, phúc cho những ai đói khát.

Một năm mới đang về. Một năm như bao năm khác. Một năm của rối ren và thất vọng với chính bản thân tôi và với bao người. Khi Thiên Chúa xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta, Ngài dựng giàn giáo tốt để triển khai công trình. Giàn giáo ấy tốt đến nỗi chúng ta muốn được sống luôn trong đo!. Chỉ có điều trớ trêu là giàn giáo ấy lại bị hạ xuống. Thế rồi chúng ta gọi sự tan rã này là tính mong manh vô thường bi đát của đời sống chúng ta. Chúng ta xót xa và sầu thảm nếu trong viễn tượng của một năm mới chúng ta nghĩ mình không thể gặp thấy gì ngoài sự sụp đổ của tòa nhà cuộc sống mình – cuộc sống mà thực ra đang được xây dựng âm thầm cho vĩnh cửu đàng sau giàn giáo được dựng lên và lại được hạ xuống.

Không, năm mới đang đến đây không phải là một năm thất vọng hay một năm của những ảo tưởng ru ngủ người ta. Đó là năm của Thiên Chúa, là năm mà trong đó những phút giờ quyết định đang đến gần tôi một cách âm thầm và êm ái, và sự viên mãn của thời gian đang đến để đi vào đời tôi. Tôi có sẽ nhận ra những phút giờ ấy không? Hay những phút giờ ấy vẫn trống rỗng chứ không có gì lạ? Vì đối với tôi chúng xem ra quá bé nhỏ, quá khiêm tốn và tầm thường?

Dĩ nhiên xét mặt ngoài thì những phút giờ ấy sẽ không trông có vẻ khác biệt gì so với những khoảnh khắc tốt lành thường ngày của bất cứ ai. Vì thế, tôi có thể dễ dàng bỏ nhỡ không nhận ra những phút giờ ấy: một chút nhẫn nhục làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút cho những người xung quanh tôi; sự bỏ qua một lỗi lầm của người khác; việc dám liều để xây dựng niềm tin thực sự vào một người mà mình có xu hướng không tin tưởng bởi vì mình nghĩ mình đã có những kinh nghiệm không tốt về người đó trước đây; sự chân thành chấp nhận rằng người khác có cơ sở đúng đắn để phê phán mình; sự bao dung đón nhận những vết thương người khác gây cho mình và để nó chết hẳn trong lòng mình chứ không kéo dài nó bằng sự than phiền, sân si, xót xa và báo oán; sự trung thành trong đời cầu nguyện dù không cảm nhận được những “niềm ủi an” hay những “cảm nghiệm sùng ngưỡng sốt mến”; sự cố gắng để yêu thương những người khiến mình bực bội (dù là sự sai quấy hiển nhiên thuộc về họ), và không duy chỉ là cố gắng thuận thảo với họ bằng cách nuốt giận vì thấy như vậy có lợi cho mình; sự cố gắng để nhìn thấy nơi sự “điên dại” của người khác một loại thông minh khác với sự khôn ngoan của mình nhưng đó không hẳn là ngu dại; sự nhẫn nhịn để không đáp lại sự bất bao dung của người khác theo kiểu ăn miếng trả miếng; sự cố gắng để không lấy nhân đức của mình biện minh cho những lầm lỗi của mình; một ý chí cải thiện chính mình khi nhìn thấy tội lỗi nơi người khác và chân tình muốn giúp họ đổi mới; sự xác tín vững vàng rằng mình rất sẵn lòng và rất dễ dàng tự gạt mình và lấp liếm nhiều lỗi lầm và gian ác mà mình vốn nhận thấy nơi bất cứ ai khác; không chì chiết kẻ khác cũng không tự đề cao mình, và nhiều điều khác nữa vốn chỉ thực sự là tốt khi được chuyên cần thực hành.

Chúng ta chỉ cần cố gắng làm nghiêm túc những bổn phận bình thường ấy trong đời sống hằng ngày. Và tất cả sẽ trở thành lớn lao. Song nếu vì quá phấn khích mà không lượng sức mình, sự việc sẽ hóa ra nguy hại. Vì để sống được như vậy, chúng ta phải là người chịu thiệt, chúng ta sẽ cảm thấy như mình cho đi nhiều mà không nhận lại bao nhiêu. Chẳng có mối lợi nào được thu vén cả – không được gì trước mắt người đời, cũng không được gì bên trong lòng mình (chẳng hạn, một lương tâm tốt lành hay một cảm thức rằng mình đã đắc thủ được nhiều nhân đức!); vì thậm chí những mối lợi ấy cũng không còn sức hấp dẫn nào đối với mình.

Rồi, một khi đã biết làm những việc nhỏ nhặt ấy với một thái độ thích đáng (tự căn bản đây chính là thái độ Kitô giáo, dù ta không ý thức như vậy) – sẽ đến lúc mà những nguyên tắc ứng xử hằng ngày thực sự trở thành chuẩn mực đạo đức và luân lý, trở thành cửa ngõ dẫn ta vào vĩnh cửu bất diệt. Sẽ đến lúc ta không được tưởng thưởng gì thêm – nghĩa là, ta không nhận được bất cứ gì đặc biệt dù bên ngoài hay ở trong lòng mình, vì Thiên Chúa đích thực hiện diện trong chính cái “không gì cả” ấy, và đánh mất hữu hạn lại chính là bắt được vô hạn. Hơn nữa, chính xuyên qua việc đánh mất những cái hữu hạn mà ta nhận thức được rằng mình đang đạt được cái vô hạn. Cuộc sống của ta là một cuộc trả giá chính bản thân mình để lấy cái vô hạn. Để được Thiên Chúa, ta không thể trả giá nào rẻ hơn.

Ta cần nhận hiểu chiều kích thần nhiệm ấy của cuôc sống thường ngày. Chỉ khi nhận hiểu như vậy, ta mới có thể tự nguyện nỗ lực – trong tinh thần con cái Thiên Chúa – để chu toàn lề luật vì lòng kính trọng đối với quyền cai quản tối cao trên vũ trụ (việc này ta không bao giờ có thể làm xong trọn vẹn; vì đây là việc khó chịu, làm ta ấm ức như một kẻ lao động khổ sai). Chiều kích thần nhiệm ấy của cuộc sống thường ngày chính là ân sủng. Hoàn toàn là ân sủng. Nhưng dĩ nhiên điều đó không có nghĩa rằng ta không cần phải làm gì cả ngoại trừ cố chấp đợi chờ cho đến khi ân sủng của Thiên Chúa cưỡng bức ta đấu tranh chống lại ý muốn của ta. Sự cưỡng bức của ân sủng, nếu có thể gọi như thế, chính là ở chỗ ta được trao ban ý chí hướng thiện – và ý chí hướng thiện, đành rằng tiên vàn do Chúa ban, song đó cũng là thành quả do công phu đắc thủ của con người. Thái độ thích đáng của ta là tập cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian qua việc sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày.

Sống chiều kích thần nhiệm ấy, tức là ta đang sẵn sàng để cảm nhận những khả năng tột đỉnh của cuộc sống, đó là những khoảnh khắc hy sinh anh hùng, những thử thách khủng khiếp, sự điên rồ thánh thiện và cuối cùng là nỗi chết của chính mình – ta chết trong cái chết của Đức Kitô! Làm sao ta có thể đón nhận những khoảnh khắc ấy nếu ta không tỉnh thức sẵn sàng và – trong khả năng hết sức có thể của mình – tự chuẩn bị cho mình những phút giờ tột đỉnh ấy, những phút giờ mà ta không thể nắm trước được, những phút giờ xảy đến ngoài mọi tiên lượng của ta?

Bất cứ ai chưa từng cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian sẽ kinh hoàng và lẩn trốn những phút giờ ấy. Họ khiếp sợ; họ cảm thấy mình bị đòi hỏi quá sức chịu đựng của mình. Thậm chí họ không nhận ra rằng ân sủng lớn lao của đời sống đang ở ngay trước mặt, trong tầm tay họ. Họ phớt lờ, họ cho rằng mình không thể “như thế” được. Và rõ ràng, họ không thể “như thế” được bởi vì họ quá nhu nhược và tự ti trong đánh giá chính bản thân mình.

Cần phải tập sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày. Nó khác hẳn với một thái độ “trung thành với bổn phận” nào đó của những người quá tủn mủn chi li, họ “đạo đức” một cách cứng nhắc và không ước ao gì khác hơn ngoài việc tiếp tục mãi mãi làm một “viên chức hạng quèn” của Thiên Chúa, miễn là họ luôn luôn nhận được “tiền lương” ngay trong cuộc sống hiện tại này. Dĩ nhiên là những công việc nhỏ nhặt thường ngày vẫn còn đó và chúng ta không thể thoát ra được. Thánh nhân cũng phải ngáp, cũng phải cạo râu … như bất cứ ai. Không có gì chắc chắn rằng những phút giờ sẽ được ban cho chúng ta trong những ngày tháng sắp tới đây sẽ là những phút giờ vĩ đại và đặc biệt quan trọng – ngay cả dù xét theo quan điểm của chính chúng ta. Vậy thì chắc chắn phải có một vĩnh cửu trong cuộc sống thường ngày. Vì chúng ta biết rằng mọi con người mà chúng ta gặp thấy xung quanh cuộc sống mình – có vẻ như quá đỗi bình thường thôi – song họ đều có đủ giá trị để trở thành một vĩnh cửu, và trở thành vĩnh cửu ngay trên mặt đất này, dù cho tất cả những gì họ làm dường như chỉ là nhọc nhằn lo toan sinh kế, cưới vợ lấy chồng, bình luận chính trị hoặc xem bóng đá hay tán gẫu về nghệ thuật Picasso …

Có lẽ chính vì lý do này mà những phút giờ quyết định ấy chỉ đến với chúng ta giữa chính nhịp sống thường ngày. Nhiều khoảnh khắc của nhịp sống thường ngày sẽ chẳng hề có ý nghĩa bước quặt quyết định gì cả. Dĩ nhiên chúng ta không thể dốc toàn lực mình mọi nơi mọi lúc. Và để có được sự tự do lớn nhất thì ta phải từ bỏ nhiều nhất, bởi vì thực tại thiết cốt nhất được đặt nền móng trên khả năng thâm sâu nhất và đây là một món quà được ban tặng cho chúng ta. Khả năng dốc được toàn lực mình trong sự tự do hoàn toàn chính là món quà tặng vĩ đại nhất. Khả năng ấy không được ban cho chúng ta trong hết mọi phút giây. Tuy nhiên, khả năng ấy hoàn toàn có thể được ban cho chúng ta trong một tình huống rất bình thường của cuộc sống thường ngày. Ai có thể nói trước được khi nào thì phút giờ ấy xảy đến? Chúng ta luôn luôn phải bước vào một tương lai bất quyết, với những rủi ro và những cơ hội mà tương lai bất quyết ấy bao hàm. Bất chợt, trong khi chúng ta chỉ cảm nhận được rất mù mờ về cái bất quyết ấy khi chấp nhận nó thì sự hoàn thành lớn lao sẽ được ban cho chúng ta. Dù sao đi nữa, sự hoàn thành ấy là của chúng ta vì chúng ta đã chấp nhận nó trong đức tin (dù không biết nó).

Một năm với những khả năng như thế đang đến với chúng ta. Chúng ta phải mừng năm mới với đức tin cao độ hơn bao giờ – Hãy bứt ra khỏi sự yếu nhược, sự chán chường và bất tín cố hữu của mình. Tương lai đang đến. Những kẻ điên rồ nghĩ rằng tương lai đến để tìm kiếm quá khứ như thể một ám ảnh khổ lụy và chết chóc. Kỳ thực nó đến vì nó muốn trở thành vĩnh cửu. Nơi những con người chiếm hữu được Thiên Chúa thì cái quá khứ này luôn hiện diện vô giới hạn. Tương lai vĩnh tồn ấy đang đến với chúng ta – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi, xuyên qua những phút giờ quyết định của sự tự do đầy năng lực tin, cậy, mến.

Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì khác nữa ngoài Thiên Chúa – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi. Mà này, rất có thể rằng chính cái khoảnh khắc ngắn ngủi lúc này đây sẽ không còn chuyển giao ngọn đuốc của sự sống vĩnh cửu cho một khoảnh khắc nào khác, thay vào đó ngọn đuốc bây giờ sẽ tự nó sáng soi như ánh sáng bất diệt. Biết đâu đó, như Thánh Tông Đồ Phaolô nói, tôi lao về phía trước, tôi không ngoái lại đằng sau. Tôi không nghĩ rằng mình đã đến đích, nhưng tôi lao về phía trước nhằm để đến đích. Đứng trước thềm năm mới này, chúng ta cũng có thể thốt lên lời cầu “Maranatha!” – Lạy Chúa, xin hãy đến! Vì quả Chúa đang đến – đang đến trong năm mới của đời tôi. Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì nữa nếu không phải là Đức Giê-su Kitô chịu đóng đanh và Phục Sinh! Còn gì nữa nếu không phải là mầu nhiệm sự chết và sự sống của Ngài trong sự sống và sự chết của tôi! Còn gì khác nữa nếu không phải là ánh sáng chói lọi của Ngài trong đức tin nhọc nhằn của tôi, lời hứa của Ngài trong đức cậy truân chuyên của tôi, tình yêu của Ngài dành cho tôi trong nỗ lực không ngừng tìm kiếm Ngài trên con đường yêu mến và chia sẻ định mệnh của Ngài.

Một năm mới lại về, năm của Chúa! 

Karl Rahner, S.J. (Lm. Lê Công Đức dịch)

ĐÔI NÉT VỀ MÙA GIÁNG SINH

Tại nhiều nước Tây phương, các công sở, trường học và xí nghiệp tiếp tục nghỉ trọn một tuần sau Lễ Giáng Sinh, cho đến Tết Dương Lịch. Tuy nhiên, xét trong khung cảnh gia đình thì đa số các truyền thống tôn giáo cũng như thế tục liên quan đến Lễ Giáng Sinh đều chấm dứt ngay sau ngày 25 tháng 12. Những sắc màu trang trí Nô-en có thể vẫn còn bịn rịn thêm một ít lâu, nhưng phần lớn các sinh hoạt đều nhanh chóng trở về nhịp sống bình thường.

Trong phụng vụ của Giáo Hội thì không thế. Những bài thánh ca giáng sinh vẫn còn tiếp tục cho đến Lễ Hiển Linh, ngày 6 tháng giêng. Hiện nay Lễ Hiển Linh được Giáo Hội cử hành vào ngày Chúa Nhật giữa ngày 2 và ngày 8 tháng giêng. Còn Lễ Thánh Gia sẽ rơi vào Chúa Nhật giữa Lễ Giáng Sinh và ngày đầu năm dương lịch, 1 tháng giêng. Ngày 26 tháng 12 được dành để kính nhớ vị thánh tử đạo đầu tiên: Thánh Stê-pha-nô. Ngày hôm sau, 27 tháng 12, kính nhớ Thánh Gio-an Tông Đồ, tác giả Sách Tin Mừng. Ngày 28 là Lễ Các Thánh Anh Hài, ôn lại câu chuyện trong Phúc Âm về những biến cố xảy ra xung quanh cuộc chào đời của Chúa Giê-su. Ngày 1 tháng giêng, đầu năm mới, là cuối Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Cuối cùng, mùa Giáng Sinh được khép lại bằng Lễ Hiển Linh. Hang Đá và các loại trang trí khác được thu dọn. .. Hẹn mùa đông năm sau!

những ngày lễ các thánh tử đạo 

Ngày nay chúng ta thật khó hình dung trong nhịp sống một năm của mình lại thiếu mất ngày Lễ Giáng Sinh – và thiếu mất bầu khí Giáng Sinh trong phụng tự cũng như ngoài đời sống xã hội. Thế nhưng, đã có một thời như thế. Truyền thống cử hành các ngày lễ mừng kính các thánh tử đạo đã tồn tại trước khi có ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên trong phụng vụ. Ngày nay, ba trong số những ngày lễ ấy được đặt vào liền sau Lễ Giáng Sinh.

Các vị tử đạo được mừng trong mùa Giáng Sinh này tiêu biểu cho ba hình thức tuẫn giáo vốn thường được ghi nhận trong những thế kỷ bị bách hại: Có những người vui lòng chịu chết (như Thánh Stê-pha-nô); có những người khác cũng vui lòng chịu chết, nhưng không bị xử tử (như Thánh Gio-an); và có những người khác nữa bị xử tử không phải do mình chọn lựa (như các Thánh Anh Hài).

Theo truyền thống, Thánh Stê-pha-nô (lễ ngày 26.12) được xem là người môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su chịu đổ máu đào để làm chứng cho đức tin. Tân Ước mô tả ngài là một trong những phó tế tiên khởi, phục vụ cho các nhu cầu của các Kitôhữu Do Thái nói tiếng Hi Lạp ở Giê-ru-sa-lem. Ngài bị bắt bởi Hội Đường trong một cuộc tranh luận giữa các Kitôhữu và những người Do Thái – và sau khi nêu chứng tá với đầy Thần Khí, ngài bị họ ném đá cho đến chết (cf. Cv 6 – 7).

Thánh Gio-an Tác Giả Sách Tin Mừng (lễ ngày 27.12) được truyền thống tưởng nhớ như là “người được Đức Giêsu yêu mến” và là người đã viết Sách Phúc Âm cuối cùng và Sách Khải Huyền. Ngài là một tông đồ ở Ê-phê-sô cho đến khi bị đày sang đảo Patmos. Tại một số vùng trên thế giới, vẫn còn tồn tại một truyền thống độc đáo gắn liền với lễ này: người ta làm phép và phân phát rượu của Thánh Gio-an. Dường như truyền thống này bắt nguồn từ một huyền thọai kể rằng Thánh Gio-an đã có lần uống phải rượu bị bỏ thuốc độc – nhưng ngài vẫn không hề hấn gì!

Việc chọn ngày 28 tháng 12 để kính nhớ Các Thánh Anh Hài là một hệ quả trực tiếp liên quan đến việc cử hành Lễ Giáng Sinh. Trong câu chuyện Chúa Giê-su giáng sinh theo Tin Mừng Mat-thêu (2, 13 – 19) có kể lại cuộc tàn sát các bé trai từ hai tuổi trở xuống – theo lệnh của vua Hê-rô-đê. Câu chuyện kết thúc với cuộc chạy trốn của Thánh Gia sang Ai-cập. Những chi tiết này trong sách Tin Mừng phản ảnh tính cách bạo ngược của vua Hê-rô-đê như được lịch sử ghi nhận: một vị vua sẵn sàng thanh trừng bất cứ ai mà ông coi là mối đe dọa cho quyền lực của mình, dù kẻ đó là người trong gia đình ông. Kể chuyện này, có lẽ Mat-thêu muốn đặt biến cố chào đời của Đức Giêsu trong một viễn cảnh thần học rộng lớn hơn: cũng như dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn đã ra khỏi Ai-cập để hình thành nên dân It-ra-en, thì Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Mê-si-a, cũng sẽ ra khỏi Ai-cập để thiết lập It-ra-en mới – là Giáo Hội.

thánh gia

Lễ Thánh Gia chỉ mới được mừng bởi Giáo Hội toàn cầu kể từ năm 1920. Nguyên thủy lễ này được đặt vào Chúa Nhật thứ ba sau Lễ Hiển Linh, nay được dời lui về Chúa Nhật giữa Lễ Giáng Sinh và ngày 1 tháng giêng. Lòng sùng kính đặc biệt đối với Thánh Gia vốn đã phổ biến hồi sau thế kỷ 16. Ngày nay, với những thách đố đặt ra cho đời sống gia đình hiện đại, chủ đề gia đình – là tiêu điểm của lễ này – càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiều giáo xứ vận dụng vào phụng vụ những sáng kiến nhằm giúp các gia đình làm mới lại tình yêu của mình.

ngày 1 tháng giêng

Việc cử hành ngày Tết Dương Lịch, 1 tháng giêng, với một chủ đề đặc biệt không phải là một truyền thống phổ quát toàn cầu. Các dân tộc khác nhau có những ngày tết khác nhau. Trước đây, nhiều dân tộc – chẳng hạn người Anh – chọn ngày xuân phân (25 tháng 3). Trong Đế Quốc Frankish, cho tới thế kỷ 8, ngày Tết được mừng vào ngày 1 tháng 3. Ở Pháp, trước thế kỷ 15, người ta mừng Tết vào ngày Lễ Phục Sinh. Ở Scandinavia và ở Đức, ngày Lễ Giáng Sinh được chọn làm ngày Tết cho đến thế kỷ 16. Còn ngày 1 tháng giêng vốn đã được Julius Caesar thiết định làm ngày Tết cho Đế Quốc Rô-ma vào năm 45 trước công nguyên – cùng với sự khai sinh của lịch Julian. Năm 1852, Giáo Hoàng Gregory XIII thúc đẩy một cuộc cải cách lịch Julian. Cuộc cải cách này đem lại một phương pháp tính toán và phân chia thời gian vẫn còn hiệu lực cho tới hôm nay. Lịch Gregorian vẫn duy trì ngày 1 tháng giêng làm ngày Tết. Các nước Tin Lành bác bỏ lịch này và, do đó, bác bỏ cả việc mừng Tết vào ngày 1 tháng giêng – đây là trường hợp ở nước Đức cho đến năm 1700, ở Anh và ở các vùng thuộc địa bên Mỹ cho đến năm 1752, và ở Thụy Điển cho đến năm 1753.

Trong lịch sử Kitô giáo cho đến nay, ngày 1 tháng giêng mang trong mình nó khá nhiều chủ đề tôn giáo. Nhưng không có chủ đề nào trong đó có liên hệ với ý nghĩa ‘Tết’ đậm sắc thái thế tục như cảm nhận thông thường trong xã hội chúng ta ngày nay. Đầu tiên, ngày này được mừng một cách đặc biệt bởi vì đây là ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Giáo Hội nhấn mạnh chiều kích thống hối và chay tịnh – để đẩy lùi ảnh hưởng của ngoại giáo trong ngày này (tức việc mừng Tết một cách náo động quá trớn). Năm 567, Công Đồng Tours thứ hai đã lập ra ba ngày giữ chay tương ứng với những ngày đầu tiên của năm mới.

Nhưng, dù nhấn mạnh đến chiều kích thống hối bao nhiêu đi nữa, Giáo Hội vẫn chưa bao giờ thành công trong việc đẩy lùi những tập tục mừng giao thừa năm mới một cách cuồng nhiệt của dân chúng. Vì thế, các chủ đề tôn giáo khác đã lần lượt được vận dụng cho ngày này. Đầu tiên, đó là chủ đề về Đức Maria – bởi vì ngày hôm nay giáo hoàng cử hành phụng vụ tại thánh đường cổ xưa nhất dâng kính Đức Maria. Ban đầu, Giáo Hội dùng ngày này để mừng sinh nhật Đức Mẹ, Đấng đã sinh hạ Chúa Giêsu – như vậy, chủ đề hôm nay vẫn liên quan chặt chẽ với Lễ Giáng Sinh. Về sau, lễ Sinh Nhật Đức Mẹ được dời sang ngày 8 tháng 9.

Ở Tây Ban Nha và ở Gaul, trong thế kỷ 6, Giáo Hội bắt đầu dâng ngày 1 tháng giêng để kính nhớ mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu cắt bì. Điều này phù hợp với trình thuật Thánh Kinh: biến cố này xảy ra tám ngày sau khi Đức Giêsu chào đời (Lc 2, 21). Cho đến thế kỷ 13 thì chủ đề này mới lan tới Rôma, và được bổ sung vào với hai chủ đề có sẵn: kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và Lễ kính Đức Mẹ.

Ngày nay, ngày 1 tháng giêng tiếp tục là một ngày có ý nghĩa đặc biệt thiêng liêng. Nó kết hợp nhiều chủ đề khác nhau: kết thúc Bát Nhật Giáng Sinh, mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa; và gần đây hơn, chủ đề về hòa bình thế giới cũng được gán cho ngày đầu năm mới này. Chủ đề về Đức Giêsu chịu cắt bì đã bị loại bỏ kể từ năm 1969. Dĩ nhiên, những âm thanh và sắc màu của Giáng Sinh vẫn còn đó, rất rõ, trong ngày này.

tết dương lịch

Chủ đề Tết Dương Lịch chưa bao giờ chính thức len vào trong cử hành phụng vụ 1 tháng giêng của Giáo Hội – dù người ta có thể nghe về chủ đề này khá nhiều trong các bài giảng. Đa số các truyền thống có liên quan đến chủ đề Tết Dương Lịch đều thuộc về bình diện thế tục hơn là bình diện tôn giáo. Truyền thống uống rượu giao thừa, chẳng hạn, vốn đã tồn tại từ xa xưa và có nguồn gốc từ các nghi thức tôn giáo của ngoại giáo. Một số nghi thức ngoại giáo cổ thời trong đêm giao thừa có bao gồm việc đốt lửa mới đầu năm, hiệp thông với người quá cố, thổi kèn, đánh trống, reo hò inh ỏi để xua đuổi tà ma năm cũ…, và chúng ta còn nghe được nhiều dư âm của những nghi thức ấy trong Lễ Halloween – (người Celt trước đây mừng Tết vào cuối tháng 10, tiền thân của Lễ Halloween ngày nay).

lễ hiển linh

Lễ Hiển Linh (Epiphany) vốn chính thức rơi vào ngày 6 tháng giêng, nhưng vì được dời vào Chúa Nhật nên bây giờ dao động giữa ngày 2 và 8 tháng giêng. Lễ này đánh dấu kết thúc Mùa Giáng Sinh. ‘Epiphany’ có gốc ở từ Hi lạp epiphanein – hàm nghĩa một sự tỏ hiện, xuất hiện, vén mở ra. Từ ngữ này vốn được dùng để mô tả những sự kiện thần khải hoặc những cuộc viếng thăm của các bậc vị vọng. Một cách tự nhiên, các Giáo Hội nói tiếng Hi lạp ở Đông Phương đã áp dụng từ ngữ này để mô tả sự kiện Thiên Chúa xuất hiện trong thân phận phàm nhân. Xuất phát từ ý nghĩa đó, một số Giáo Hội ở Đông Phương đã cử hành lễ ngày 6 tháng giêng để tưởng nhớ việc Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Gio-đan và việc Người làm phép lạ đầu tiên tại Cana. Một số Giáo Hội khác cử hành ngày này để tưởng nhớ cuộc giáng sinh của Chúa. Cuối cùng, cả hai được kết hợp lại.

Nhiều chứng cứ cho thấy rằng việc mừng Lễ Sinh Nhật Chúa ở Ai-cập và ở các Giáo Hội Cận Đông đã có từ rất xa xưa, có lẽ từ trước thế kỷ 3. Tại sao các Giáo Hội Đông Phương chọn ngày 6 tháng giêng làm ngày mừng Sinh Nhật Chúa? Những giả thuyết người ta đưa ra để trả lời câu hỏi này cũng song song với những lập luận giải thích tại sao bên Tây Phương đã chọn ngày 25 tháng 12. Một cách giải thích khá phổ biến – nhưng vẫn đang bị chất vấn – cho rằng ngày đông chí xảy ra vào ngày 6 tháng giêng, theo lịch được sử dụng tại vùng này thuở ấy. Vào thời ấy, những người ngoại giáo cử hành cuộc epiphanein (hiển linh) của thần Aion giữa dân chúng bằng một lễ mừng thấm đẫm ruợu, nước và ánh sáng. Aion là vị thần của thời gian và vĩnh cửu. Các Kitôhữu có lẽ đã vận dụng ngày này để mừng mầu nhiệm Nhập Thể; họ sáp nhập vào phụng vụ những câu chuyện Phúc Âm về những cuộc epiphanein của Chúa Giê-su: biến cố chào đời, biến cố các đạo sĩ viếng thăm, biến cố chịu phép rửa ở sông Gio-đan, biến cố làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu ở tiệc cưới Cana. Chủ đề hỗn hợp này rất có ý nghĩa đối với các tín hữu Đông Phương thời xưa, bởi vì dân chúng đã không được Đức Giêsu tỏ hiện mãi cho đến ngày Người xuất hiện trên bờ sông Gio-đan, xin Gio-an làm phép rửa.

Một giả thuyết gần đây hơn giải thích lai lịch của ngày 6 tháng giêng (đối chiếu với ngày 25 tháng 12 bên Tây Phương) căn cứ vào tiêu điểm mầu nhiệm Vượt Qua trong đời sống dân chúng. Cái chết và cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu có lẽ đã xảy ra vào ngày 6 tháng tư ở bên Đông, tương đương với ngày 14 tháng Nisan (là 25 tháng ba của Tây Phương, tính theo lịch Julian).

Lễ Hiển Linh được giới thiệu vào Gaul hồi giữa thế kỷ 4, bởi vì các Giáo Hội ở khu vực này của Châu Âu có mối gắn bó chặt chẽ với Đông Phương. Tại Gaul, các chủ đề của Lễ Hiển Linh như : cuộc viếng thăm của các đạo sĩ, biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, phép lạ ở Cana, và biến cố hiển dung của Người… đã được phát triển.

Đến cuối thế kỷ 4, các Giáo Hội Đông và Tây Phương hội nhập các ngày lễ mừng Sinh Nhật Chúa của nhau. Từ đó, Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh được cử hành ở cả hai bên. Cuộc hội nhập này đã dẫn đến việc tách chủ đề riêng ra cho mỗi ngày lễ. Ngày 6 tháng giêng, Giáo Hội Đông Phương vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến các biến cố hiển linh của Chúa theo các câu chuyện Tin Mừng kể trên. Còn ở Giáo Hội Tây Phương, Lễ Hiển Linh được dành để đặc biệt nhấn mạnh cuộc viếng thăm của các nhà đạo sĩ (Mt 2, 1 – 12): Chúa Giê-su hiển linh với dân ngoại!

các nhà đạo sĩ

Câu chuyện về các nhà đạo sĩ trong Sách Phúc Âm – gắn bó mật thiết với Lễ Hiển Linh – không nhằm gửi đến cho người đọc một biến cố lịch sử. Đúng hơn, đó là phản ảnh về một chiều kích quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể: Đấng Mê-si-a đã đến với mọi dân tộc chứ không chỉ riêng cho dân Do Thái mà thôi, một chủ điểm vốn rất được nhấn mạnh trong Tin Mừng Mat-thêu. Từ Hi lạp ‘magi’ qui chiếu đến một tầng lớp học thức ở Ba-by-lon, có lẽ nhằm chỉ các nhà chiêm tinh. Từ ngữ này phù hợp với tính biểu tượng của những sự kiện phi thường đã dẫn đưa các đại biểu của các dân ngoại đến với Đấng Mê-si-a. Những trích dẫn các sấm ngôn Cựu Ước (chẳng hạn, Is 60, 1 – 6) được tác giả Sách Tin Mừng sử dụng để nhấn mạnh rằng cuộc giáng sinh của Đức Giêsu có một mục tiêu phổ quát. Theo Thánh Vịnh 72 (câu 10 tt.), Vua Giu-đa, một tước hiệu của Đấng Mê-si-a, được hứa sẽ nhận được những tặng phẩm. Vàng, nhũ hương và mộc dược – ba món quà được đề cập trong Sách Tin Mừng – theo truyền thống Đông Phương, là những biểu tượng của sự thần phục. Cũng theo truyền thống, những tặng phẩm này nói lên định mệnh của Đức Giêsu: vàng tượng trưng cho vương quyền của Người, nhũ hương là biểu tượng của thiên tính Người, và mộc dược là dấu chỉ về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa.

Trải qua bao thế kỷ, câu chuyện Tin Mừng này về cuộc viếng thăm của các nhà đạo sĩ đã được bồi đắp thêm nhiều chi tiết. Con số các nhà đạo sĩ là 3 – đó là điều được thiết định bởi Origen (chết năm 254), vì căn cứ vào 3 tặng phẩm được nhắc đến trong câu chuyện Tin Mừng. Vào thế kỷ 6, các nhà đạo sĩ được chuyển thành các vua (tức Ba Vua) – để khớp với những tham chiếu Cựu Ước (cf. Tv 72, 10; Is 60, 3tt.). Việc mô tả các nhà đạo sĩ như là ba vị vua – với những dáng vẻ riêng của mỗi vị – xuất phát từ những giai thoại được truyền tụng trong thế kỷ 9. Ba vị vua này được mô tả như là tiêu biểu cho ba chủng tộc chính, với danh tánh lần lượt như sau: Melchoir, một ông già da trắng với chòm râu dài bạc phơ, mang vàng làm lễ phẩm; Caspar, trẻ hơn và da màu sẫm hơn, mang nhũ hương; Balthasar, một người da đen, tiến dâng mộc dược.

lễ truyền tin

Một lễ khác có liên quan chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể và, do đó, cũng liên quan với Lễ Giáng Sinh – đó là Lễ Truyền Tin. Lễ này được mừng vào ngày 25 tháng 3 trong Giáo Hội Tây Phương kể từ trước giữa thế kỷ 7. Chủ đề của lễ này nhắc nhớ đến quyết định của Thiên Chúa, quyết định được thông đạt cho Đức Maria thông qua thiên sứ Ga-bri-en rằng Trinh Nữ Maria sẽ là mẹ của một đứa con đặc biệt: “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1, 32). Việc chọn ngày 25 tháng 3 từ những thế kỷ đầu tiên có quan hệ mật thiết với việc chọn ngày 25 tháng 12 cho Lễ Giáng Sinh. Có lẽ vì ngày 25 tháng 3, ngày chết của Đức Giêsu và cũng là ngày lễ Vượt Qua cuối cùng, được các Kitôhữu sơ khai xem là ngày sáng tạo và cũng là khoảnh khắc đầu tiên Người đầu thai. Nếu người ta đã tưởng niệm Sinh Nhật Đức Giêsu hằng năm vào ngày 25 tháng 12, thì cũng là tự nhiên việc người ta tưởng niệm khoảnh khắc đầu tiên Người nhập thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria chín tháng trước đó, ngày 25 tháng 3!

Lm. Lê Công Đức tổng hợp, theo Catholic Customs & Traditions của Greg Dues, do Twenty-Third Publications xuất bản.

 

 


Mục Lục