ĐÔI NÉT
VỀ MÙA GIÁNG SINH
Tại nhiều nước Tây phương, các công sở, trường
học và xí nghiệp tiếp tục nghỉ trọn một tuần sau Lễ Giáng Sinh, cho đến Tết
Dương Lịch. Tuy nhiên, xét trong khung cảnh gia đình thì đa số các truyền thống
tôn giáo cũng như thế tục liên quan đến Lễ Giáng Sinh đều chấm dứt ngay sau
ngày 25 tháng 12. Những sắc màu trang trí Nô-en có thể vẫn còn bịn rịn thêm một
ít lâu, nhưng phần lớn các sinh hoạt đều nhanh chóng trở về nhịp sống bình
thường.
Trong phụng vụ của Giáo Hội thì không thế.
Những bài thánh ca giáng sinh vẫn còn tiếp tục cho đến Lễ Hiển Linh, ngày 6
tháng giêng. Hiện nay Lễ Hiển Linh
được Giáo Hội cử hành vào ngày Chúa Nhật giữa ngày 2 và ngày 8 tháng giêng. Còn
Lễ Thánh Gia sẽ rơi
vào Chúa Nhật giữa Lễ Giáng Sinh và ngày đầu năm dương lịch, 1 tháng giêng.
Ngày 26 tháng 12 được dành để kính nhớ vị thánh tử đạo đầu tiên: Thánh Stê-pha-nô. Ngày hôm sau, 27
tháng 12, kính nhớ Thánh Gio-an Tông
Đồ, tác giả Sách Tin Mừng. Ngày 28 là Lễ Các Thánh Anh Hài, ôn lại câu
chuyện trong Phúc Âm về những biến cố xảy ra xung quanh cuộc chào đời của Chúa
Giê-su. Ngày 1 tháng giêng, đầu năm mới, là cuối Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Cuối
cùng, mùa Giáng Sinh được khép lại bằng Lễ Hiển Linh. Hang Đá và các loại trang
trí khác được thu dọn. .. Hẹn mùa đông năm sau!
những ngày lễ các thánh tử
đạo
Ngày nay chúng ta thật khó hình dung trong
nhịp sống một năm của mình lại thiếu mất ngày Lễ Giáng Sinh – và thiếu mất bầu
khí Giáng Sinh trong phụng tự cũng như ngoài đời sống xã hội. Thế nhưng, đã có
một thời như thế. Truyền thống cử hành các ngày lễ mừng kính các thánh tử đạo
đã tồn tại trước khi có ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên trong phụng vụ. Ngày nay,
ba trong số những ngày lễ ấy được đặt vào liền sau Lễ Giáng Sinh.
Các vị tử đạo được mừng trong mùa Giáng Sinh
này tiêu biểu cho ba hình thức tuẫn giáo vốn thường được ghi nhận trong những
thế kỷ bị bách hại: Có những người vui lòng chịu chết (như Thánh Stê-pha-nô);
có những người khác cũng vui lòng chịu chết, nhưng không bị xử tử (như Thánh
Gio-an); và có những người khác nữa bị xử tử không phải do mình chọn lựa (như
các Thánh Anh Hài).
Theo truyền thống, Thánh Stê-pha-nô (lễ ngày
26.12) được xem là người môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su chịu đổ máu đào để làm
chứng cho đức tin. Tân Ước mô tả ngài là một trong những phó tế tiên khởi, phục
vụ cho các nhu cầu của các Kitôhữu Do Thái nói tiếng Hi Lạp ở Giê-ru-sa-lem.
Ngài bị bắt bởi Hội Đường trong một cuộc tranh luận giữa các Kitôhữu và những
người Do Thái – và sau khi nêu chứng tá với đầy Thần Khí, ngài bị họ ném đá cho
đến chết (cf. Cv 6 – 7).
Thánh Gio-an Tác Giả Sách Tin Mừng (lễ ngày
27.12) được truyền thống tưởng nhớ như là “người
được Đức Giêsu yêu mến” và là người đã viết Sách Phúc Âm cuối cùng
và Sách Khải Huyền. Ngài là một tông đồ ở Ê-phê-sô cho đến khi bị đày sang đảo
Patmos. Tại một số vùng trên thế giới, vẫn còn tồn tại một truyền thống độc đáo
gắn liền với lễ này: người ta làm phép và phân phát rượu của Thánh Gio-an.
Dường như truyền thống này bắt nguồn từ một huyền thọai kể rằng Thánh Gio-an đã
có lần uống phải rượu bị bỏ thuốc độc – nhưng ngài vẫn không hề hấn gì!
Việc chọn ngày 28 tháng 12 để kính nhớ Các
Thánh Anh Hài là một hệ quả trực tiếp liên quan đến việc cử hành Lễ Giáng Sinh.
Trong câu chuyện Chúa Giê-su giáng sinh theo Tin Mừng Mat-thêu (2, 13 – 19) có
kể lại cuộc tàn sát các bé trai từ hai tuổi trở xuống – theo lệnh của vua
Hê-rô-đê. Câu chuyện kết thúc với cuộc chạy trốn của Thánh Gia sang Ai-cập.
Những chi tiết này trong sách Tin Mừng phản ảnh tính cách bạo ngược của vua
Hê-rô-đê như được lịch sử ghi nhận: một vị vua sẵn sàng thanh trừng bất cứ ai
mà ông coi là mối đe dọa cho quyền lực của mình, dù kẻ đó là người trong gia
đình ông. Kể chuyện này, có lẽ Mat-thêu muốn đặt biến cố chào đời của Đức Giêsu
trong một viễn cảnh thần học rộng lớn hơn: cũng như dân tộc được Thiên Chúa
tuyển chọn đã ra khỏi Ai-cập để hình thành nên dân It-ra-en, thì Đấng được
Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Mê-si-a, cũng sẽ ra khỏi Ai-cập để thiết lập
It-ra-en mới – là Giáo Hội.
thánh gia
Lễ Thánh Gia chỉ mới được mừng bởi Giáo Hội
toàn cầu kể từ năm 1920. Nguyên thủy lễ này được đặt vào Chúa Nhật thứ ba sau
Lễ Hiển Linh, nay được dời lui về Chúa Nhật giữa Lễ Giáng Sinh và ngày 1 tháng
giêng. Lòng sùng kính đặc biệt đối với Thánh Gia vốn đã phổ biến hồi sau thế kỷ
16. Ngày nay, với những thách đố đặt ra cho đời sống gia đình hiện đại, chủ đề
gia đình – là tiêu điểm của lễ này – càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiều
giáo xứ vận dụng vào phụng vụ những sáng kiến nhằm giúp các gia đình làm mới
lại tình yêu của mình.
ngày 1 tháng giêng
Việc cử hành ngày Tết Dương Lịch, 1 tháng giêng, với một chủ đề đặc biệt
không phải là một truyền thống phổ quát toàn cầu. Các dân tộc khác nhau có
những ngày tết khác nhau. Trước đây, nhiều dân tộc – chẳng hạn người Anh – chọn
ngày xuân phân (25 tháng 3). Trong Đế Quốc Frankish, cho tới thế kỷ 8, ngày Tết
được mừng vào ngày 1 tháng 3. Ở Pháp, trước thế kỷ 15, người ta mừng Tết vào
ngày Lễ Phục Sinh. Ở Scandinavia và ở Đức, ngày Lễ Giáng Sinh được chọn làm
ngày Tết cho đến thế kỷ 16. Còn ngày 1 tháng giêng vốn đã được Julius Caesar
thiết định làm ngày Tết cho Đế Quốc Rô-ma vào năm 45 trước công nguyên – cùng
với sự khai sinh của lịch Julian. Năm 1852, Giáo Hoàng Gregory XIII thúc đẩy
một cuộc cải cách lịch Julian. Cuộc cải cách này đem lại một phương pháp tính
toán và phân chia thời gian vẫn còn hiệu lực cho tới hôm nay. Lịch Gregorian
vẫn duy trì ngày 1 tháng giêng làm ngày Tết. Các nước Tin Lành bác bỏ lịch này
và, do đó, bác bỏ cả việc mừng Tết vào ngày 1 tháng giêng – đây là trường hợp ở
nước Đức cho đến năm 1700, ở Anh và ở các vùng thuộc địa bên Mỹ cho đến năm
1752, và ở Thụy Điển cho đến năm 1753.
Trong lịch sử Kitô giáo cho đến nay, ngày 1
tháng giêng mang trong mình nó khá nhiều chủ đề tôn giáo. Nhưng không có chủ đề
nào trong đó có liên hệ với ý nghĩa ‘Tết’ đậm sắc thái thế tục như cảm nhận
thông thường trong xã hội chúng ta ngày nay. Đầu tiên, ngày này được mừng một
cách đặc biệt bởi vì đây là ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Giáo
Hội nhấn mạnh chiều kích thống hối và chay tịnh – để đẩy lùi ảnh hưởng của
ngoại giáo trong ngày này (tức việc mừng Tết một cách náo động quá trớn). Năm
567, Công Đồng Tours thứ hai đã lập ra ba ngày giữ chay tương ứng với những
ngày đầu tiên của năm mới.
Nhưng, dù nhấn mạnh đến chiều kích thống hối
bao nhiêu đi nữa, Giáo Hội vẫn chưa bao giờ thành công trong việc đẩy lùi những
tập tục mừng giao thừa năm mới một cách cuồng nhiệt của dân chúng. Vì thế, các
chủ đề tôn giáo khác đã lần lượt được vận dụng cho ngày này. Đầu tiên, đó là
chủ đề về Đức Maria – bởi vì ngày hôm nay giáo hoàng cử hành phụng vụ tại thánh
đường cổ xưa nhất dâng kính Đức Maria. Ban đầu, Giáo Hội dùng ngày này để mừng
sinh nhật Đức Mẹ, Đấng đã sinh hạ Chúa Giêsu – như vậy, chủ đề hôm nay vẫn liên
quan chặt chẽ với Lễ Giáng Sinh. Về sau, lễ Sinh Nhật Đức Mẹ được dời sang ngày
8 tháng 9.
Ở Tây Ban Nha và ở Gaul, trong thế kỷ 6, Giáo
Hội bắt đầu dâng ngày 1 tháng giêng để kính nhớ mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu cắt
bì. Điều này phù hợp với trình thuật Thánh Kinh: biến cố này xảy ra tám ngày
sau khi Đức Giêsu chào đời (Lc 2, 21). Cho đến thế kỷ 13 thì chủ đề này mới lan
tới Rôma, và được bổ sung vào với hai chủ đề có sẵn: kết thúc Tuần Bát Nhật
Giáng Sinh và Lễ kính Đức Mẹ.
Ngày nay, ngày 1 tháng giêng tiếp tục là một
ngày có ý nghĩa đặc biệt thiêng liêng. Nó kết hợp nhiều chủ đề khác nhau: kết
thúc Bát Nhật Giáng Sinh, mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa; và gần đây hơn,
chủ đề về hòa bình thế giới cũng được gán cho ngày đầu năm mới này. Chủ đề về
Đức Giêsu chịu cắt bì đã bị loại bỏ kể từ năm 1969. Dĩ nhiên, những âm thanh và
sắc màu của Giáng Sinh vẫn còn đó, rất rõ, trong ngày này.
tết dương lịch
Chủ đề Tết Dương Lịch chưa bao giờ chính thức
len vào trong cử hành phụng vụ 1 tháng giêng của Giáo Hội – dù người ta có thể
nghe về chủ đề này khá nhiều trong các bài giảng. Đa số các truyền thống có
liên quan đến chủ đề Tết Dương Lịch đều thuộc về bình diện thế tục hơn là bình
diện tôn giáo. Truyền thống uống rượu giao thừa, chẳng hạn, vốn đã tồn tại từ
xa xưa và có nguồn gốc từ các nghi thức tôn giáo của ngoại giáo. Một số nghi
thức ngoại giáo cổ thời trong đêm giao thừa có bao gồm việc đốt lửa mới đầu
năm, hiệp thông với người quá cố, thổi kèn, đánh trống, reo hò inh ỏi để xua
đuổi tà ma năm cũ…, và chúng ta còn nghe được nhiều dư âm của những nghi thức
ấy trong Lễ Halloween – (người Celt trước đây mừng Tết vào cuối tháng 10, tiền
thân của Lễ Halloween ngày nay).
lễ hiển linh
Lễ Hiển Linh (Epiphany) vốn chính thức rơi vào
ngày 6 tháng giêng, nhưng vì được dời vào Chúa Nhật nên bây giờ dao động giữa
ngày 2 và 8 tháng giêng. Lễ này đánh dấu kết thúc Mùa Giáng Sinh. ‘Epiphany’ có gốc ở từ Hi lạp epiphanein – hàm nghĩa một sự tỏ hiện, xuất hiện, vén mở ra. Từ
ngữ này vốn được dùng để mô tả những sự kiện thần khải hoặc những cuộc viếng
thăm của các bậc vị vọng. Một cách tự nhiên, các Giáo Hội nói tiếng Hi lạp ở
Đông Phương đã áp dụng từ ngữ này để mô tả sự kiện Thiên Chúa xuất hiện trong
thân phận phàm nhân. Xuất phát từ ý nghĩa đó, một số Giáo Hội ở Đông Phương đã
cử hành lễ ngày 6 tháng giêng để tưởng nhớ việc Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông
Gio-đan và việc Người làm phép lạ đầu tiên tại Cana. Một số Giáo Hội khác cử
hành ngày này để tưởng nhớ cuộc giáng sinh của Chúa. Cuối cùng, cả hai được kết
hợp lại.
Nhiều chứng cứ cho thấy rằng việc mừng Lễ Sinh
Nhật Chúa ở Ai-cập và ở các Giáo Hội Cận Đông đã có từ rất xa xưa, có lẽ từ
trước thế kỷ 3. Tại sao các Giáo Hội Đông Phương chọn ngày 6 tháng giêng làm
ngày mừng Sinh Nhật Chúa? Những giả thuyết người ta đưa ra để trả lời câu hỏi
này cũng song song với những lập luận giải thích tại sao bên Tây Phương đã chọn
ngày 25 tháng 12. Một cách giải thích khá phổ biến – nhưng vẫn đang bị chất vấn
– cho rằng ngày đông chí xảy ra vào ngày 6 tháng giêng, theo lịch được sử dụng
tại vùng này thuở ấy. Vào thời ấy, những người ngoại giáo cử hành cuộc epiphanein (hiển linh) của thần Aion giữa dân chúng bằng một lễ mừng
thấm đẫm ruợu, nước và ánh sáng. Aion
là vị thần của thời gian và vĩnh cửu. Các Kitôhữu có lẽ đã vận dụng ngày này để
mừng mầu nhiệm Nhập Thể; họ sáp nhập vào phụng vụ những câu chuyện Phúc Âm về
những cuộc epiphanein của
Chúa Giê-su: biến cố chào đời, biến cố các đạo sĩ viếng thăm, biến cố chịu phép
rửa ở sông Gio-đan, biến cố làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu ở tiệc cưới
Cana. Chủ đề hỗn hợp này rất có ý nghĩa đối với các tín hữu Đông Phương thời
xưa, bởi vì dân chúng đã không được Đức Giêsu tỏ hiện mãi cho đến ngày Người
xuất hiện trên bờ sông Gio-đan, xin Gio-an làm phép rửa.
Một giả thuyết gần đây hơn giải thích lai lịch
của ngày 6 tháng giêng (đối chiếu với ngày 25 tháng 12 bên Tây Phương) căn cứ
vào tiêu điểm mầu nhiệm Vượt Qua trong đời sống dân chúng. Cái chết và cuộc
Vượt Qua của Đức Giêsu có lẽ đã xảy ra vào ngày 6 tháng tư ở bên Đông, tương
đương với ngày 14 tháng Nisan (là 25 tháng ba của Tây Phương, tính theo lịch
Julian).
Lễ Hiển Linh được giới thiệu vào Gaul hồi giữa
thế kỷ 4, bởi vì các Giáo Hội ở khu vực này của Châu Âu có mối gắn bó chặt chẽ
với Đông Phương. Tại Gaul, các chủ đề của Lễ Hiển Linh như : cuộc viếng thăm
của các đạo sĩ, biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, phép lạ ở Cana, và biến cố
hiển dung của Người… đã được phát triển.
Đến cuối thế kỷ 4, các Giáo Hội Đông và Tây
Phương hội nhập các ngày lễ mừng Sinh Nhật Chúa của nhau. Từ đó, Lễ Giáng Sinh
và Lễ Hiển Linh được cử hành ở cả hai bên. Cuộc hội nhập này đã dẫn đến việc
tách chủ đề riêng ra cho mỗi ngày lễ. Ngày 6 tháng giêng, Giáo Hội Đông Phương
vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến các biến cố hiển linh của Chúa theo các câu chuyện
Tin Mừng kể trên. Còn ở Giáo Hội Tây Phương, Lễ Hiển Linh được dành để đặc biệt
nhấn mạnh cuộc viếng thăm của các nhà đạo sĩ (Mt 2, 1 – 12): Chúa Giê-su hiển
linh với dân ngoại!
các nhà đạo sĩ
Câu chuyện về các nhà đạo sĩ trong Sách Phúc
Âm – gắn bó mật thiết với Lễ Hiển Linh – không nhằm gửi đến cho người đọc một
biến cố lịch sử. Đúng hơn, đó là phản ảnh về một chiều kích quan trọng của mầu
nhiệm Nhập Thể: Đấng Mê-si-a đã đến với mọi dân tộc chứ không chỉ riêng cho dân
Do Thái mà thôi, một chủ điểm vốn rất được nhấn mạnh trong Tin Mừng Mat-thêu.
Từ Hi lạp ‘magi’ qui chiếu
đến một tầng lớp học thức ở Ba-by-lon, có lẽ nhằm chỉ các nhà chiêm tinh. Từ
ngữ này phù hợp với tính biểu tượng của những sự kiện phi thường đã dẫn đưa các
đại biểu của các dân ngoại đến với Đấng Mê-si-a. Những trích dẫn các sấm ngôn
Cựu Ước (chẳng hạn, Is 60, 1 – 6) được tác giả Sách Tin Mừng sử dụng để nhấn
mạnh rằng cuộc giáng sinh của Đức Giêsu có một mục tiêu phổ quát. Theo Thánh
Vịnh 72 (câu 10 tt.), Vua Giu-đa, một tước hiệu của Đấng Mê-si-a, được hứa sẽ nhận
được những tặng phẩm. Vàng, nhũ hương và mộc dược – ba món quà được đề cập
trong Sách Tin Mừng – theo truyền thống Đông Phương, là những biểu tượng của sự
thần phục. Cũng theo truyền thống, những tặng phẩm này nói lên định mệnh của
Đức Giêsu: vàng tượng trưng cho vương quyền của Người, nhũ hương là biểu tượng
của thiên tính Người, và mộc dược là dấu chỉ về cuộc khổ nạn và cái chết của
Chúa.
Trải qua bao thế kỷ, câu chuyện Tin Mừng này
về cuộc viếng thăm của các nhà đạo sĩ đã được bồi đắp thêm nhiều chi tiết. Con
số các nhà đạo sĩ là 3 – đó là điều được thiết định bởi Origen (chết năm 254),
vì căn cứ vào 3 tặng phẩm được nhắc đến trong câu chuyện Tin Mừng. Vào thế kỷ
6, các nhà đạo sĩ được chuyển thành các vua (tức Ba Vua) – để khớp với những
tham chiếu Cựu Ước (cf. Tv 72, 10; Is 60, 3tt.). Việc mô tả các nhà đạo sĩ như
là ba vị vua – với những dáng vẻ riêng của mỗi vị – xuất phát từ những giai
thoại được truyền tụng trong thế kỷ 9. Ba vị vua này được mô tả như là tiêu
biểu cho ba chủng tộc chính, với danh tánh lần lượt như sau: Melchoir, một ông già da trắng với chòm
râu dài bạc phơ, mang vàng làm lễ phẩm; Caspar,
trẻ hơn và da màu sẫm hơn, mang nhũ hương; Balthasar,
một người da đen, tiến dâng mộc dược.
lễ truyền tin
Một lễ khác có liên quan chặt chẽ với mầu
nhiệm Nhập Thể và, do đó, cũng liên quan với Lễ Giáng Sinh – đó là Lễ Truyền
Tin. Lễ này được mừng vào ngày 25 tháng 3 trong Giáo Hội Tây Phương kể từ trước
giữa thế kỷ 7. Chủ đề của lễ này nhắc nhớ đến quyết định của Thiên Chúa, quyết
định được thông đạt cho Đức Maria thông qua thiên sứ Ga-bri-en rằng Trinh Nữ
Maria sẽ là mẹ của một đứa con đặc biệt: “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi
là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1, 32). Việc chọn ngày 25 tháng 3 từ những thế kỷ đầu
tiên có quan hệ mật thiết với việc chọn ngày 25 tháng 12 cho Lễ Giáng Sinh. Có
lẽ vì ngày 25 tháng 3, ngày chết của Đức Giêsu và cũng là ngày lễ Vượt Qua cuối
cùng, được các Kitôhữu sơ khai xem là ngày sáng tạo và cũng là khoảnh khắc đầu
tiên Người đầu thai. Nếu người ta đã tưởng niệm Sinh Nhật Đức Giêsu hằng năm
vào ngày 25 tháng 12, thì cũng là tự nhiên việc người ta tưởng niệm khoảnh khắc
đầu tiên Người nhập thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria chín tháng trước đó,
ngày 25 tháng 3!
Lm. Lê Công Đức tổng hợp, theo Catholic Customs & Traditions của Greg Dues, do
Twenty-Third Publications xuất bản.