SUY NIỆM MÙA VỌNG 2015

 

LND: Hằng năm, tại Vatican, Cha Reniero Cantalamessa ofm.cap, vị giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng chia sẻ những suy niệm của mình vào các dịp chuẩn bị mừng các đại lễ. Theo thông lệ đó, năm nay, Năm Lòng Thương Xót, vị giảng thuyết cống hiến cho Giáo Triều và cả chúng ta ba suy niệm trong Mùa Vọng. Suy niệm với tựa đề: 1. Chúa Kitô, ánh sáng muôn dân;  2. Mọi người được kêu gọi nên thánh; 3. Đức Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương chuyển dịch.


ĐỨc Kitô, Ánh Sáng muôn dân:

Một lối đọc Lumen gentium theo hướng kitô học

1. Một Giáo Hội học mang tính kitô học

Kỷ niệm năm mươi năm kết thúc Công Đồng gợi lên trong tôi ý tưởng dành ba suy niệm Mùa Vọng này cho việc xem lại những chủ đề chính của Công Đồng.

Một cách cụ thể, tôi muốn thực hiện một vài suy tư lần lượt trên những tài liệu chính của Công Đồng đó là bốn Hiến chế về Giáo Hội (Lumen gentium) về Phụng Vụ, (Sacrosanctum concilium), về Lời Chúa (Dei Verbum), và về Giáo Hội trong thế giới hôm nay (Gaudium et spes).

Một nhận xét mang lại cho tôi sự can đảm để đề cập những chủ đề rất rộng lớn trong một thời gian ngắn mà tôi có và cũng đã được tranh luận nhiều. Đã có liên tục những nghiên cứu và tranh luận về Công Đồng, nhưng hầu như nó liên quan đến những áp dụng thuộc giáo lý và mục vụ của Công Đồng; nó tập trung rất ít và nội dung tu đức theo nghĩa chặt. Vì vậy, tôi muốn tập trung vào nội dung này bằng việc cố gắng nghiên cứu điều mà các tài liệu Công Đồng được xem như là những bản văn của tu đúc còn nói chúng ta rằng nó rất là có ích cho việc xây dựng đức tin.

Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc dành ba suy niệm Mùa Vọng này cho Lumen gentium, trong khi giữ phần còn lại cho Mùa Chay sắp tới, nếu Chúa muốn. Ba chủ đề trong hiến chế này tôi muốn suy tư đó là Giáo Hội như là thân thể và là hôn thê của Đức Kitô, ơn gọi phổ quát tới sự thánh thiện và giáo huấn về Đức Trinh Nữ Maria.

Ý tưởng cho suy niệm đầu tiên này về Giáo Hội đến với tôi trong việc đọc lại cách tình cờ từ phần đầu của Hiến chế trong bản văn Latin nói rằng: “Lumen gentium cum sit Christus – Chúa Kitô là ánh sáng của muôn dân”.[1] Tôi phải nói rằng tôi bối rối vì tôi không bao giờ để ý đến kết luận rất ý nghĩa được chứa đựng ngay ở khởi đầu này.

Vì tựa đề của Hiến chế chỉ có phần đầu của câu (Lumen gentium), tôi nghĩ rằng (và tôi không nghĩ rằng mình là người duy nhất) tựa đề “Ánh sáng muôn dân” được quy chiếu về Giáo Hội trong khi đó như chúng ta thấy, nó thực sự quy chiếu về Đức Kitô.

Đây là tựa đề mà ông già Simêon đã chào đón hài nhi Messia khi Người được đưa đến đền thờ bởi Đức Maria và thánh Giuse: “Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Người” (x. Lc 2,32).

Lời tuyên xưng đầu tiên này là chìa khóa để giải thích toàn bộ Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II. Đây là một nền Giáo Hội học mang chiều kích kitô học và vì thế nó có giá trị tu đức và thần bí trước giá trị xã hội và cơ cấu. Thật cần thiết đặt chiều kích kitô học lên trước hết của Giáo Hội học Công Đồng cả trong cái nhìn của việc tin mừng hóa hiệu quả hơn. Quả thế, con người không chấp nhận Đức Kitô bởi vì tình yêu dành cho Giáo Hội nhưng họ chấp nhận Giáo Hội bởi vì tình yêu dành cho Đức Kitô, dẫu một Giáo Hội bị biến dạng bởi tội lỗi của biết bao thành viên Giáo Hội.

Tôi phải nói ngay tức thì rằng tôi không phải là người đầu tiên làm sáng tỏ chiều kích kitô học cách chính yếu của Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II. Khi đọc lại nhiều tác phẩm của Đức Hồng Y Ratzinger về Giáo Hội, tôi càng ý thức về sự kiên định mà ngài đã cố gắng gìn giữ cách sống động chiều kích này của giáo huấn về Giáo Hội trong Lumen gentium. Ngài nhắc nhở chúng ta về những hệ luận thuộc giáo thuyết của câu đầu tiên này – “Lumen gentium cum sit Christus – Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân” – ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm của ngài khẳng định sau đây: “Nếu bạn muốn hiểu Vatican II cách chính xác, bạn phải cứ bắt đầu lại bắt đầu với câu đầu tiên này”.[2]

Chúng ta cần phải làm rõ ngay lập tức điều này để tránh mọi sự hiểu lầm: không ai phủ nhận cái nhìn tu đức sâu sắc này của Giáo Hội. Tuy nhiên, như thường xảy ra trong những điều của con người, cái mới có nguy cơ che khuất cái cũ, hiện tại làm mất cái nhìn vĩnh cữu, và đòi hỏi có lợi thế trên điều quan trọng. Như thế đã xuất hiện những ý tưởng của hiệp thông Giáo Hội và của Dân Chúa thường chỉ được phát triển trong ý nghĩa thuộc chiều ngang và xã hội của nó, nghĩa là theo cái nhìn của sự trái ngược giữa koinonia và phẩm trật, khi nhấn mạnh sự hiệp thông của các thành phần Giáo Hội với mỗi người hơn là nhấn mạnh sự hiệp thông của tất cả các thành viên với Đức Kitô. 

Điều này đã là một sự ưu tiên của một thời và là một lợi ích, như thánh Gioan Phaolô II đón nhận và làm nỗi bật nó trong Tông thư của ngài, Novo millennio ineunte.[3] Nhưng năm mươi năm sau khi kết thúc Công Đồng, nó có còn hữu ích để cố gắng tái lập sự cân bằng giữa cái nhìn này của Giáo Hội, bị ảnh hưởng bởi những tranh luận đương thời, và cái nhìn tu đức và mầu nhiệm trong Tân Ước và trong các Giáo Phụ của Giáo Hội. Câu hỏi nền tảng là không phải “Giáo Hội là cái gì?” nhưng “Giáo Hội là ai?”.[4] Đó là câu hỏi sẽ hướng dẫn tôi trong suy niệm lúc này.

2. Giáo Hội như là Thân Thể và là Hôn Thê của Đức Kitô

Trung tâm và nội dung kitô học của Lumen gentium nổi lên cách đặc biệt trong chương đầu nơi mà Giáo Hội được trình bày như là hôn thê của Đức Kitô và là thân thể của Đức Kitô. Chúng ta hãy lắng nghe một vài khẳng định của Công Đồng:

“Giáo Hội, được gọi là “thành Giêrusalem trên trời” và là “mẹ của chúng ta” được miêu tả (Gl 4,26); x. Kh 12,17), được mô tả như hiền thê trinh tuyền của Con Thiên Chúa không tì ố (x. Kh 19,7; 21,2 và 9; 22,17) được Chúa Kitô “yêu mến và hiến thân để thánh hóa” (Ep 5,25-26), được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly, được “nuôi dưỡng và săn sóc” không ngừng (Ep 5,29). Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín (x. Ep 5,24)”.[5]

Công Đồng nói điều này cho tước hiệu hiền thê, và “thân thể của Chúa Kitô”:

“Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bằng cái chết và phục sinh, trong nhân tính Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con người thành một thụ tạo mới (x. Gl 6,15; 2Cr 5,17). Thực vậy, Người tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ hợp từ muôn nước thành thân thể Người, bằng cách thông truyền Thánh Thần cho họ… Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân Thể của Chúa nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều nhưng là một tấm bánh, một thân thể vì hết thảy chúng ta đồng thông hưởng cùng một tấm bánh” (1Cr 10,17).[6]

Khi còn là Hồng Y Đức Ratzinger cũng đã cố gắng làm sáng tỏ tương quan nội tại giữa hai hình ảnh này của Giáo Hội: Giáo Hội là thân thể của Đức Kitô bởi vì Giáo Hội là hiền thê của Đức Kitô! Hay nói cách khác, thánh Phaolô dùng hình ảnh về Giáo Hội như là thân thể của Đức Kitô cách chính yếu dựa trên phép ẩn dụ về sự hòa hợp của các thành phần trong thân thể con người (cho dẫu thỉnh thoảng ngài áp dụng nó theo cách này như trong thư Rm 12,4 tt và 1Cr 12,12 tt), nhưng ngài có tư tưởng hôn phối về một thân xác mà người nam và người nữ làm nên khi họ kết hợp với nhau trong hôn nhân (x. Ep 5,29-32) và ngài còn có tư tưởng thuộc thánh thể về một thân xác được làm nên bởi những ai ăn cùng một tấm bánh: “Bởi vì tấm bánh là một, dầu tuy nhiều chúng ta là một thân thể, tất cả chúng ta tham dự một tấm bánh “(1Cr 10,17).[7]

Chúng ta cần phải nhắc lại rằng đây là tâm điểm của quan niệm thánh Augustinô về Giáo Hội, theo đó đôi lần ngài có những diễn tả đồng hóa cách riêng và đơn sơ thân thể Chúa Kitô là Giáo Hội với thân thể Chúa Kitô là Thánh Thể.[8][8] Điều này cho thấy sự phát triển của thành ngữ “thân thể huyền nhiệm” của Chúa Kitô để nói về Thánh Thể đã dần dần chuyển sang để ám chỉ là Giáo Hội như ngày hôm nay hiểu.[9][9] Như chúng ta biết, đây cũng là cái nhìn mà phần lớn đưa nền Giáo Hội học Công Giáo gần với Giáo Hội học thánh thể của Giáo Hội Chính Thống. Không có Giáo Hội và không có Thánh Thể, Chúa Kitô sẽ không có một “thân thể” trong thế giới.

3. Từ Giáo Hội đến tâm hồn

Một nguyên lý thường được lặp lại và được áp dụng bởi các Giáo phụ Giáo Hội là “Ecclesia vel anima”, “Giáo Hội hay là tâm hồn”.[10] Có nghĩa là điều ta nói về Giáo Hội nói chung, mutatis mutandis, ta áp dụng cho mỗi người nói riêng trong Giáo Hội, sau những phân biệt cần thiết. Một khẳng định được gán cho thánh Ambrôsiô nói: “Giáo Hội thật xinh đẹp trong các linh hồn”.[11] Khi muốn trung thành với ý định mà tôi đã đề cập để những suy niệm này để tập trung nhiều hơn cách trực tiếp xác định những phương diện của Giáo Hội học của Công Đồng, chúng ta có thể tự hỏi: “Đâu là ý nghĩa đối với đời sống tu đức của một Kitô hữu để sống và thực hiện ý tưởng này về một Giáo Hội như là thân thể và là hôn thê của Đức Kitô?”

Nếu Giáo Hội trong ý nghĩa sâu thẳm nhất và trung thực nhất là thân thể của Chúa Kitô, thể thì tôi hiện thực Giáo Hội trong tôi, tôi là một “hữu thể Giáo Hội”,[12] theo mức độ mà tôi để cho Chúa Kitô làm cho tôi trở thành thân thể Người, không chỉ trên lý thuyết nhưng cả trên thực hành. Thật kỳ diệu điều này không phải do vị trí mà tôi có trong Giáo Hội nhưng là vị trí mà Chúa Kitô chiếm giữ trong trái tim tôi!

Điều này được thực hiện một cách khách quan nhờ các bí tích, và đặc biệt hai trong các bí tích: Rửa tội và Thánh Thể. Chúng ta đón nhận bích tích Rửa tội một lần, nhưng chúng ta có thể đón nhận bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Đây là lý do tại sao Thánh Thể rất quan trọng để cử hành và đón nhận nó trong một cách thế như vậy để chúng ta có thể hoàn thành trách nhiệm làm cho mình trở nên Giáo Hội. Châm ngôn nỗi tiếng của Henri de Lubac nói rằng: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”,[13][13] áp dụng không chỉ cho mức độ cộng đoàn nhưng còn cho mức độ cá nhân. Thánh Thể làm cho mỗi người chúng ta thành một thân thể của Chúa Kitô, nghĩa là Giáo Hội. Ở đây tôi cũng muốn trích dẫn những lời rất sâu sắc của Đức Hồng Y Ratzinger:

Hiệp thông có nghĩa là rào cản bên ngoài không thể vượt qua của cái “tôi” được mở rộng… vì vậy nó có nghĩa sự kết hợp của hai cuộc sống; giống như trong việc dùng thức ăn cơ thể tiêu hóa chất bên ngoài thành của mình, và nhờ đó nó sống, trong một cách thế tương tự cái “tôi” được “tiêu hóa” chính Chúa Giêsu, nên giống với Người trong một sự chuyển đổi mà nó càng ngày càng cắt đứt những đường của phân chia”.[14]

Hai cái tôi sống động, của tôi và của Chúa Kitô, trở thành một một “không lẫn lộn và không phân chia”, không mang tính cách ngôi hiệp như trong mầu nhiệm nhập thể nhưng mang tính cách thần bí và hiện thực. Từ hai “cái tôi” cuối cùng trở thành một cái duy nhất: không phải “cái tôi” của tôi nhỏ bé của thụ tạo nhưng là cái tôi của Chúa Kitô, sau khi rước Thánh Thể đến nỗi mỗi người chúng ta có thể dám nói như thánh Phaolô: “Không còn phải tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Trong Thánh Thể Nicholas Cabasilas viết:

“Chúa Kitô hiến mình trong chúng ta và tan biến mình với chúng ta, nhưng Người thay đổi và biến đổi chúng ta giống Người, như một giọt nước nhỏ được biến đổi bởi được đổ vào trong biển của dầu thơm”.[15]

Như chúng ta đã nói, hình ảnh về Giáo Hội như là thân thể của Chúa Kitô được liên kết mật thiết với hình ảnh về Giáo Hội như là hiền thê của Chúa Kitô, và điều này cũng có thể trở thành một sự trợ giúp tuyệt vời cho chúng ta để kinh nghiệm Thánh Thể theo con đường nhiệm huấn cách sâu xa. Thư gửi tín hữu Ephêsô nó rằng hôn nhân là một biểu tượng của sự kết hợp của Chúa Kitô và Giáo Hội: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh (Ep 5,31-32). Theo thánh Phaolô, hệ luận ngay lập tức của hôn nhân là điều mà thân xác của người chồng giờ đây thuộc về người vợ và ngược lại, thân xác của người vợ thuộc về người chồng (x. 1Cr 7,4).

Khi áp dụng cho Thánh Thể, điều này có nghĩa là thân xác không hư nát của Ngôi Lời nhập thể, Đấng ban sự sống, trở thành “tôi của tôi”, nhưng ngay cả thân xác của tôi, nhân tính tôi, trở thành của Chúa Kitô và thuộc về Người. Trong Thánh Thể chúng ta đón nhận mình và máu Chúa Kitô, nhưng Chúa Kitô cũng “đón nhận” mình và máu chúng ta! Thánh Hilariô thành Poitiers viết rằng Chúa Giêsu đảm nhận thân xác chỉ của những ai đón nhận mình Người.[16] Chúa Kitô nói với chúng ta: “Này là Mình Thầy, hãy cầm lấy”, nhưng chúng ta cũng có thể nói với Người: “Này là mình con, hãy cầm lấy”.

Trong tập thơ về Thánh Thể có tên là Khúc hát về Thiên Chúa Ẩn Dấu, Karol Wojtyla, vị giáo hoàng tương lai sau này, gọi con người mới này, đời sống mới được thực hiện nhờ “cái tôi của Chúa Kitô Thánh Thể”:

Và này một phép lạ xuất hiện, 

Một sự biến đổi:

Này Ngài trở thành con, 

Tôi – Thánh Thể –Ngài.[17]

Không có gì trong đời tôi mà không thuộc về Chúa Kitô. Không ai có thể nói: “Ôi, Chúa Giêsu không biết kết hôn có nghĩa là gì, không biết làm một người phụ nữ, rồi mất một đứa con, bệnh tật, già nua, hay trở thành một người da màu”. Nếu bạn biết điều đó, thì Người cũng biết điều đó, nhờ bạn và qua bạn. Bất cứ điều gì mà chính Chía Kitô không thể kinh nghiệm “trong xác thịt”, khi Người ở trên trần gian, như điều của mỗi người, bị giới hạn với một số kinh nghiệm, thì nay Đấng Phục Sinh sống và kinh nghiệm chúng “trong Thánh Thần”, nhờ sự hiệp thông hôn phối của Thánh Lễ. Người sống trong người phụ nữ như là người phụ nữ, trong người già như là người già, trong người bệnh trong điều kiện bệnh tật. Những gì đã “thiếu” trong toàn bộ mầu nhiệm “nhập thể’ của Ngôi Lời thì nay “hoàn tất” nhờ Thánh Thể.

Chân Phước Êlizabeth Chúa Ba Ngôi viết trong một lá thư gửi cho mẹ ngài: “Tân nương thuộc về tân lang; tân lang của tôi đã cưới tôi; Người muốn tôi thêm cho Người một nhân tính”.[18] Điều Chúa Giêsu như đang nói với chúng ta: “Ta đói khát con, Ta muốn sống trong con, vì thế, Ta cần sống trong các tư tưởng của con, trong mọi tình cảm của con; Ta cần sống qua thân xác con, qua cơ thể con, qua ước vọng mỗi ngày con; Ta cần con nuôi dưỡng theo cách thức mà con được Ta nuôi dưỡng!”

Ôi lý do vô tận của sự kỳ diệu và an ủi khi nghĩ rằng nhân tính của chúng ta trở thành nhân tính của Đức Kitô! Nhưng cũng thật là trách nhiệm với tất cả điều này! Nếu cặp mắt tôi trở thành cặp mắt Chúa Kitô và miệng tôi trở thành miệng Chúa Kitô, đâu là một lý do không cho phép cái nhìn của tôi thỏa thuê với những hình ảnh dâm dật, đâu là lý do cho cho phép lưỡi tôi nói lời chống lại người anh em, hay dùng thân xác tôi phục vụ như một phương tiện của tội lỗi. Thánh Tông Đồ hỏi: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao?” (1Cr 6,15). Những lời này áp dụng cho mọi người được rửa tội. Nhưng phải chăng cũng nói với những người được thánh hiến, với các thừa tác viên của Chúa, những người phải là “những mẫu gương của đoàn chiên” (1Pr 5,3) đó sao? Mỗi người có thể chỉ biết run lên khi nghĩ về sự thiệt hại nặng nề xảy ra đối với thân thể của Chúa Kitô là Giáo Hội.

4. Một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu

Theo cái nhìn này tôi vừa nói về những lợi ích khách quan hay thuộc bí tích đối với việc chúng ta trở thành Giáo Hội, thân thể của Chúa Kitô. Tuy nhiên, còn có một chiều kích chủ quan và hiện sinh hiện diện trong điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói trong Evangelii Gaudium như một “cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Nazareth”. Chúng ta hãy nghe những lời này lần nữa: 

“Tôi mời gọi mọi người Kitô hữu, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào, hãy canh tân ngay việc gặp gỡ các vị với Đức Giêsu, hay ít nhất, quyết định để cho Người gặp gỡ chúng ta, mỗi ngày luôn tìm kiếm Người. Không có lý do nào mà người ta có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho họ” (EV số 3).[19]

Có thể chúng ta cần một bước đi xa hơn ở đây mà vẫn có sự kính trọng đối với Giáo Hội học Công Đồng. Trong ngôn ngữ Công Giáo, “một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu” chưa bao giờ là một quan niệm rất quen thuộc cả. Thay vì một cuộc gặp gỡ “cá vị” người ta quy chiếu ý tưởng này về một cuộc gặp gỡ Giáo Hội được thực hiện qua bí tích của Giáo Hội. Mệnh đề này có một âm vang nào đó của Thể Phản với đôi tai Công Giáo chúng ta. Rõ ràng điều được đề nghị ở đây không phải là một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô hệ tại nơi cuộc gặp gỡ bí tích nhưng là cuộc gặp gỡ mà nó làm cho cuộc gặp gỡ bí tích đó thành một cuộc gặp gỡ tự do và được chào đón hơn là một cuộc gặp gỡ theo danh nghĩa, pháp lý, hay theo thói quen. Nếu Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô, một sự gắn bó tự do và cá vị với Chúa Kitô là con đường duy nhất để bước vào cuộc gặp gỡ đó, để làm một phần của nó theo cái nhìn hiện sinh.

Để hiểu một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu có nghĩa là gì, chúng ta cần có một cái nhìn khái quát vào lịch sử. Người ta đã trở thành những thành viên của Giáo Hội trong ba thế kỷ đầu như thế nào? Dẫu có sự khác biệt từ cá nhân với cá nhân và từ nơi chốn với nơi chốn, họ trở những thành viên sau một sự gia nhập đạo lâu dài, thời gian tự tòng; đó là kết quả của một quyết định cá nhân, và cũng đồng nghĩa một chọn lựa nguy hiểm bởi khả năng có thể tử đạo.

Những điều này đã thay đổi khi Kitô giáo trở thành trước hết là một tôn giáo bao dung và sau đó, trong một thời gian ngắn, là tôn giáo được ưu đãi và nếu không muốn nói áp đặt. Trong hoàn cảnh này, sự tập trung không còn dựa trên thời điểm và cách thế mà người ta trở thành Kitô hữu nữa, nghĩa là làm sao anh hoặc chị đến với đức tin, nhưng lại dựa trên những đòi hỏi luân lý của chính đức tin, trên sự thay đổi những thói quen của một con người – hay nói cách khác, trên luân lý.

Dẫu không phải tất cả, tình hình đã ít tiêu cực hơn so với những gì có thể xuất hiện đối với chúng ta hôm nay, bởi vì, với tất cả sự mâu thuẫn mà chúng ta ý thức, như gia đình, giáo dục, văn hóa, và dần dần ngay cả xã hội cũng đã giúp đỡ con người để hấp thụ đức tin hầu như cách tự nhiên. Không rõ rằng lắm nhưng ngày từ đầu của hoàn cảnh mới này, đã sinh ra những hình thức đời sống, như phong trào đan tu và sau đó nhiều các dòng tu khác nhau, trong đó phép rửa được sống một cách tận căn và đời sống Kitô hữu là kết quả của một quyết định cá vị, thường là anh hùng.

Tình hình được gọi là “Kitô chế” ngày hôm nay đã thay đổi tận gốc rễ. Từ đây, có sự khẩn thiết cho một cuộc tân phúc âm hóa mà phải để ý đến hoàn cảnh mới. Trên bình diện thực hành, chúng ta đang đề cập đến việc phải sáng tạo những cơ hội cho con người hôm nay để trong một bối cảnh mới cho phép họ thực hiện quyết định tự do, cá vị và trưởng thành mà các các Kitô hữu ngày xưa đã sử dụng làm khi đón nhận phép rửa và điều đã làm cho họ trở thành kitô hữu đích thực và không chỉ là danh nghĩa. 

Từ năm 1972, “Nghi thức Gia nhập Kitô giáo của người lớn” có đề nghị một hình thức của giai đoạn dự tòng để phép rửa của người lớn. Trong một số quốc gia nơi mà nhiều người lớn đến với phép rửa, chương trình này được cho thấy rất hiệu quả. Nhưng điều gì chúng ta sẽ làm cho số đông Kitô hữu đã được rửa tội rồi đang sống như những kitô hữu chỉ theo danh nghĩa thôi, và không có thực hành cụ thể, và những ai không còn ở trong Giáo Hội và đời sống bí tích?

Một câu trả lời cho vấn đề này là những phong trào khác nhau thuộc Giáo Hội, những hiệp hội giáo dân và những cộng đoàn giáo xứ được canh tân, mà nó xuất hiện sau Công Đồng. Sự đóng góp chung của những nhóm này – dù rất khác nhau trong hình thức và số thành viên – chính là họ đã cung cấp bối cảnh và những ý nghĩa cho phép nhiều người lớn thực hiện một chọn lựa cá vị đối với Đức Kitô, để sống phép rửa một cách nghiêm túc, và để trở thành những người tham dự tích cự trong Giáo Hội. 

Nhưng tôi sẽ không dừng lại trên phương diện mục vụ về vấn đề này. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở phần kết của suy niệm này là một lần nữa phương diện tu đức và hiện sinh liên quan đến chúng ta một cách các nhân. Để có một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô có nghĩa là gì? Nó có nghĩa khi nói “Chúa Giêsu là Chúa!”, là cách thế mà thánh Phaolô và và các Kitô hữu sơ khai nói, nó xác định toàn bộ đời sống của một người mãi mãi vì điều đó.

Khi điều này xảy ra Chúa Giêsu không còn là một nhân vật nhưng là một con người gần gũi. Người không còn là một ai đó chỉ được nói về nhưng là một Ai đó mà chúng ta có thể nói với Người bởi Người đã sống lại và đang sống; Người không còn chỉ là một ký ức, dẫu sống động và hoạt động trong phụng vụ, nhưng là một sự hiện diện thực sự. Điều này muốn nói rằng không thực hiện nhiều quyết định quan trọng nào mà trước đó đã không trình bày với Người trong cầu nguyện.

Tôi nói ngay từ lúc đầu rằng con người không chấp nhận Chúa Kitô vì tình yêu đối với Giáo Hội nhưng họ chấp nhận Giáo Hội vì tình yêu đối với Đức Kitô. Chúng ta hãy cố gắng yêu mến Chúa Kitô và làm cho Người được yêu, và chúng ta sẽ dành sự phục vụ tốt nhất cho Giáo Hội. Nếu Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, như thế, giống như mỗi hiền thê, nàng sẽ sinh được những người con mới chỉ khi biết kết hợp mình với vị Hôn Phu nhờ tình yêu. Thành quả của Giáo Hội tùy thuộc vào tình yêu của chúng ta đối với Đức Kitô. Sự phục vụ tốt nhất của mỗi người chúng ta có thể làm cho Giáo Hội chính là yêu mến Chúa Giêsu và lớn lên trong sự thâm mật với Người.

 


MỌI NGƯỜI ĐƯỢC KÊU GỌI NÊN THÁNH

Theo Lumen Gentium, chương V

Cách đây ít ngày chúng ta đã mừng kỷ niệm 50 năm kết thúc Vatican II và cử hành năm Thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta phải nói rằng sự liên kết giữa chủ đề lòng thương xót và Công Đồng Vatican II là không có độc tài hay là không quan trọng.

Trong diễn văn khai mạc, ngày 11 tháng 10 năm 1962 thánh Gioan XXIII đã chỉ cho thấy lòng thương xót như là lối tiếp cận mới trong cung cách của Công Đồng. Người viết:

“Giáo Hội luôn chống lại những sai lầm qua các thời đại. Giáo Hội thường lên án chúng với thái độ rất nghiêm khắc. Tuy nhiên bây giờ, Hiền Thê của Chúa Kitô ưu thích sử dụng liều thuốc của lòng thương xót hơn là sự nghiêm khắc”.[20]

Trong một nghĩa nào đó, một nữa thế kỷ sau đó, Năm Thánh Lòng Thương Xót cử hành sự trung tín của Giáo Hội với lời hứa này.

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng nhấn mạnh quá về lòng thương xót Chúa, chúng ta thiếu chú ý đến những phẩm tính quan trọng tương đương khác của Thiên Chúa, như công bình. Nhưng công bình của Thiên Chúa không chỉ không trái ngược với lòng thương xót nhưng còn thể hiện cách rõ nét trong lòng thương xót. Thiên Chúa là tình yêuthương xót, bởi thế vì lý do này Người là công chính nơi chính mình – Người thực sự mạc khải Người là ai – khi Người có lòng thương xót. Nhiều thế kỷ trước Luther, thánh Augustinô đã giải thích rất rõ ý nghĩa của câu nói “sự công chính của Thiên Chúa” theo cách giải thích của thánh Phaolô: “Sự công chính của Thiên Chúa là điều mà nhờ đó chúng ta được làm cho công chính, một cách chính xác như “sự cứu độ của Chúa” (salus Domini - Tv 3,9) có nghĩa là nhờ sự cứu độ của Người làm cho chúng ta được cứu”.[21]

Điều này không làm cạn kiệt tất cả ý nghĩa của từ ngữ “sự công bình của Thiên Chúa”, nhưng chắc chắn nó là nghĩa chính yếu của nó. Một ngày kia, sẽ có một dạng thức khác của sự công bình, mà Thiên Chúa “sẽ xử với mỗi người theo công việc mình làm (Rm 2,5-10), nhưng đây không phải là điều mà thánh Phaolô đề cập khi ngài nói: “Nay sự công bình của Thiên Chúa được tỏ lộ” (Rm 3,21). Sự công bình này là một biến cố hiện tại, còn sự công chính kia trong tương lai. Trong một đoạn văn khác thánh Tông Đồ giải thích Thiên Chúa có nghĩa là gì nhờ sự công bình của Người: “Nhưng Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót” (Tt 3,4-5).

1. Anh em hãy nên thánh; vì Ta, Thiên Chúa các người, là thánh

Chủ đề của suy niệm thứ hai này là chương V trong Lumen gentium với tựa đề “Mọi người đều được mời gọi nên thánh”. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử Công Đồng chương này được lưu ý chỉ vì vấn đề biên soạn. Nhiều Nghị Phụ Công Đồng là những thành viên từ các dòng tu yêu cầu với sự nhấn mạnh rằng cần phải dành một sự trình bày riêng lẻ sự hiện diện các dòng tu trong Giáo Hội như đã làm cho giáo dân. Như thế từ đó phần trình bày là một chương duy nhất liên quan đến sự thánh thiện của tất cả mọi thành phần của Giáo Hội, được chia thành hai chương, trong đó chương hai (chương VI của LG) được dành riêng biệt cho các dòng tu.[22]

Ơn gọi nên thánh được định nghĩa ngay từ đầu với những lời này:

“Tất cả mọi người trong Giáo Hội – hoặc thuộc hàng giáo phẩm hoặc được hoàng giáo phẩm dìu dắt – đều được kêu gọi nên thánh, như lời Thánh Tông Đồ dạy: “Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa” (1Ts 4,3; x. Ep 1,4).[23]

Lời kêu gọi nên thánh này là cần thiết nhất và sự bổn phận đòi hỏi nhất của Công Đồng. Không có nó, tất cả những bổn phận khác sẽ không thể và không có lợi ích gì. Tuy nhiên, đây là một bổn phận có nguy cơ trở thành bị sao lãng nhất bởi vì chỉ có Thiên Chúa và lương tâm con người đòi hỏi và mời gọi chúng ta đạt tới điều đó, hơn là những đòi hỏi và quan tâm đến từ bất kỳ nhóm nào trong Giáo Hội. Đôi lúc người ta cảm tưởng rằng trong một số nơi và một số cộng đoàn tu trì, sau Công Đồng, người ta dấn thân nhiều trong việc “phong nhiều vị thánh” hơn là “làm cho mình nên thánh”, nghĩa là, họ cố gắng nhiều hơn để đưa lên bàn thờ tôn kính các vị sáng lập hay những anh chị em của mình hơn là bắt chước các mẫu gương và nhân đức của họ.

Việc đầu tiên cần phải làm, khi chúng ta nói về sự thánh thiện, đó là giải phóng từ ngữ này khỏi sự rụt rè và sợ hãi mà nó tạo nên trong con người bởi vì chúng ta có suy nghĩ sai lầm về nó. Sự thánh thiện có thể bao hàm một hiện tượng và những thử thách phi thường, nhưng nó không được đồng hóa với những điều này. Nếu tất cả mọi người được mời gọi tới sự thánh thiện, là bởi vì, nếu được hiểu một cách chính xác, nó nằm trong khả năng của mọi người, nó làm nên sự bình thường của đời sống kitô hữu. Các thánh giống như những bông hoa: các thánh được đưa lên bàn thờ chỉ là một số ít so với đông đảo các thánh. Có biết bao người trong số họ đã nở hoa và héo tàn một cách ẩn dấu sau khi đã tỏa hương sắc cách thầm lặng xung quanh chúng ta! Có biết bao nhiêu bông hoa ẩn dấu này đã nở hoa và tiếp tục nở hoa trong Giáo Hội!

Lý do nền tảng của sự thánh thiện thì rõ ràng ngay từ đầu, và vì Thiên Chúa là Đấng thánh: “Anh em hãy nên thánh bởi vì Ta, Đức Chúa Thiên Chúa các người là đấng thánh (Lv 19,2). Trong Kinh Thánh sự thánh thiện là tóm tắt của tất cả những thuộc tính của Thiên Chúa. Tiên tri Isaia gọi Thiên Chúa là “Đấng Thánh của Israel”, nghĩa là Đấng mà Israel đã nhận biết như là Đấng Thánh. “Thánh, Thánh, Thánh”, Qadosh, qadosh, qadosh là tiếng kêu kèm với sự bày tỏ của Thiên Chúa tại thời khắc Isaia được Chúa gọi (Is 6,3). Đức Maria suy niệm cách trung thành ý tưởng này về Thiên Chúa trong các tiên tri và các thánh vinh khi ngài diễn tả trong kinh Magnificat, “vì danh Ngài là thánh” (Lc 1,48).

Liên quan đến ý nghĩa của ý tưởng về sự thánh thiện, từ ngữ thuộc kinh thánh Qadosh gợi lên ý tưởng về sự tách biệt và khác biệt. Thiên Chúa là thánh bởi vì Người hoàn toàn khác biệt so với những gì mà con người có thể nghĩ, nói hay làm. Người là Đấng Tuyệt Đối trong nghĩa từ ngữ về ab-solutus, tách biệt khỏi mọi thứ còn lại và ở một bên. Người là Đấng Siêu Việt theo nghĩa Người ở trên mọi phạm trù của chúng ta. Tất cả những điều này theo nghĩa luân lý, trước khi theo nghĩa siêu hình, bởi vì nó liên quan đến hành động của Thiên Chúa và không chỉ phải là hữu thể Người. Trong Kinh Thánh, những gì được gọi là thánh đó chính là những phán quyết của Thiên Chúa, những công trình và đời sống của Người.[24]

Tuy nhiên, sự thánh thiện không theo quan niệm tiêu cực khi chỉ sự tách biệt và sự vắng mặt của sự dữ và sự hỗn hợp trong Thiên Chúa. Đây là một quan niệm hết sức tích cực. Nó có nghĩa là một “sự viên mãn trong sạch”. Trong chúng ta, “sự viên mãn” không bao giờ tương hợp hoàn toàn với “sự trong sạch”. Điều này đối nghịch điều kia. Sự trong sạch của chúng ta thì luôn luôn có được nhờ việc thanh tẩy và xóa bỏ tội lỗi trong hành động chúng ta (x. Is 1,16). Nhưng đây không phải là trường hợp của Thiên Chúa. Sự trong sạch và viên mãn đồng hiện hữu và cùng nhau làm nên tính đơn giản tuyệt đối của Thiên Chúa. Kinh Thánh diễn tả ý tưởng này về sự thánh thiện tới sự hoàn hảo khi nói rằng: “Không có gì thêm vào hay bớt đi” từ Thiên Chúa (Kn 42,21). Như thế, vì Người là đỉnh cao của sự trong sạch, không gì có thể được lấy đi từ Người, và như thế vì Người là đỉnh cao của sự viên mãn, không gì có thể thêm vào cho Người.

Khi chúng ta cố gắng tìm hiểu làm sao con người đi vào trong phạm vi của sự thánh thiện Thiên Chúa và nên thánh có nghĩa là gì, trong Cựu Ước xuất hiện xuất hiện rất nhiều số lượng các ý tưởng thuộc nghi lễ. Trung gian của sự thánh thiện của Thiên Chúa là những đối tượng, những nơi chốn, nghi lễ, và những điều luật. Phần lớn của sách Xuất Hành và Lêvi mang tựa đề “bộ luật thánh” hay “luật của sự thánh thiện”. Sự thánh thiện nằm trong một bộ luật. Đây là một dạng thánh thiện mà nó bị ô uế nếu ai đó tiến gần bàn thờ với một sự bất toàn về thể lý hay sau khi đã đụng chạm một con vật ô uế: “Vì thế, các ngươi phải nên thánh và hãy nên thánh… Các người không được làm cho mình ra ô uế vì mọi loại nhỏ bò trên đất” (Lv 11,44; x. Lv 21,23).

Chúng ta nghe những âm vang khác nhau giữa các tiên tri và trong Thánh Vịnh. “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người?” hay “Ai trong chúng ta ở gần được lửa thiêu?” (Is 33,22). Câu hỏi này được trả lời trong những hạn từ hoàn toàn luân lý: “Đó là kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24,3-4) và “Kẻ theo đường chính trực, hằng ăn nói thẳng ngay” (Is 33,15). Tuy nhiên những tiếng nói cao thượng này vẫn còn bị giới hạn. Ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ý tưởng vẫn còn thịnh hành ở giữa những người Pharisêu và tại Qumran mà sự thánh thiện và công chính hệ tại trong sự thanh sạch thuộc phụng vụ và trong việc tuân giữ một số những điều luật, đặc biệt liên quan ngày Sabát – dẫu rằng trong lý thuyết, không ai quên rằng điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.


2. Sự mới mẻ của Chúa Kitô

Bây giờ chuyển sang Tân Ước, chúng ta thấy rằng định nghĩa về “dân tộc thánh thiện” được phổ biến rất sớm đến các Kitô hữu. Theo thánh Phaolô, người được rửa tội là “các thánh nhờ ơn gọi” hay được “gọi trở thành các thánh” (Rm 1,7; 1 Cr 1,2). Ngài thường nói về những người được rửa tội với từ “các thánh”. Những người tin được chọn “trong Người” để trở thành “thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Người” (Ep 1,4). Nhưng dưới dáng vẻ bên ngoài bản chất của thuật ngữ chúng ta thấy một sự thay đổi sâu xa. Sự thánh thiện không còn là một vấn đề pháp lý hay phụng tự nữa nhưng là vấn đề luân lý, càng không phải là vấn đề hữu thể. Nó không được tìm thấy nơi những bàn tay, nhưng trong trái tim; nó không được xác định bởi những hành vi bên ngoài nhưng thuộc nội tâm và được tóm tắt như là bác ái: “Không phải những gì từ ngoài vào miệng làm cho ô uế con người, nhưng những gì từ miệng phát ra, điều đó là ô uế con người” (Mt 15,11).

Những trung gian về sự thánh thiện của Thiên Chúa không còn là những nơi chốn (đền thời Giêrusalem hay Núi Gerizim), những nghi lễ, những đối tượng, hay lề luật nhưng là một con người, Đức Giêsu Kitô. Trở nên thánh như thế không còn hệ tại nhiều nữa trong việc tách biệt khỏi điều này hay điều kia nhưng trong việc kết hợp với Chúa Kitô. Trong Chúa Giêsu Kitô sự thánh thiện đích thực của Thiên Chúa ban cho chúng ta qua một con người và không phải qua sự hồi tưởng xa xôi. Hai lần trong Tin Mừng lời tuyên xưng này được dành cho Chúa Giêsu: “Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69; Lc 4,34). Mạc khải gọi Đức Kitô cách đơn giản là “Đấng Thánh” (Kh 3,7), và phụng vụ dội lại điều này trong khi tuyên xưng nơi “Gloria”, “Tu solus Sanctus”, “Chỉ có Chúa là Đấng Thánh”.

Chúng ta đi vào gặp gỡ sự thánh thiện của Đức Kitô được thông ban cho chúng ta qua hai cách: qua sự thủ đắc (appropriation) và qua sự noi gương bắt chước (imitation). Trong hai cách này, cách thứ nhất là quan trọng nhất bởi vì nó thực hiện nhờ đức tin và nhờ các bí tích. Vượt trên tất cả sự thánh thiện là một quà tặng, một ân sủng và là công trình của toàn thể Ba Ngôi. Vì thế, theo lời của thánh Tông Đồ, chúng ta thuộc về Đức Kitô hơn là thuộc về chính mình (x. 1Cr 6,19-20), một cách tương tự, ta có thể nói sự thánh thiện của Chúa Kitô thuộc về chúng ta hơn là sự thánh thiện của chúng ta. Nhà thần học Chính Thống Nicholas Cabasilas nói rằng: “Những gì của Đức Kitô là của chúng ta hơn những gì đến từ chính chúng ta”.[25] Đây là cú nhảy của rào cản hay cú nhảy của sự can đảm mà chúng ta phải thực hiện trong đời sống kitô hữu. Chúng ta thường khám phá điều này không từ giai đoạn đầu nhưng ở phần cuối của hành trình tu đức, không ở trong giai đoạn đệ tử nhưng giai đoạn sau, khi mọi con đường đường đã được cố gắng và chúng ta thấy rằng chúng không đưa chúng ta đi xa hơn.

Thánh Phaolô dạy chúng ta làm sao để thực hiện “cú nhảy của sự can đảm này” khi ngài tuyên bố một cách long trọng rằng ngài không muốn được nhìn nhận với sự công chính của ngài hay sự thánh thiện phát xuất từ việc tuân giữ lề luật nhưng chỉ được nhìn nhận với sự công chính phát xuất từ đức tin trong Đức Kitô (x. Phil 3,5-10). Thánh Phaolô nói rằng: “Chúa Kitô đã trở thành “sự công chính và sự thánh hóa và ơn cứu chuộc vì chúng ta” (1Cr 1,30). “Vì chúng ta”: như thế chúng ta có thể yêu cầu sự thánh thiện của Người như là của chúng ta với mọi hiệu quả của nó. Thánh Bernard cũng làm bước nhảy vọt này khi ngài kêu lên: “Không gì thiếu thốn trong khả năng của tôi mà tôi kiếm được (một cách văn chương: tôi thủ đắc!) cho mình từ trái tim của Chúa”.[26] “Để thủ đắc” sự thánh thiện của Đức Kitô thì “phải chiếm lấy nước trời bằng sức mạnh” (x. Mt 11,12)! Đây là một bước can đảm mà chúng phải thường xuyên lặp lại trong đời sống chúng ta, đặc biệt là tại giờ phút hiệp lễ trong thánh lễ.

Để nói rằng chúng ta tham dự vào sự thánh thiện của Chúa Kitô thì giống như nói rằng chúng ta tham dự vào Chúa Thánh Thần đến từ Người. Đối với thánh Phaolô, để trở nên hay để sống “trong Chúa Kitô Giêsu” có nghĩa trở nên hay sống “trong Chúa Thánh Thần”. Đến lượt mình Thánh Gioan viết: “Căn cứu vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” (1Ga 4,13). Nhờ Thánh Thần, Chúa Kitô ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Chúa Kitô.

Như thế, chính Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta. Không phải Chúa Thánh Thần một cách chung chung, nhưng là Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong Chúa Giêsu Nazareth, Đấng đã thánh hóa nhân tính của Người, Đấng đã ở trong Người như một bình trắng tinh và Đấng được đổ xuống trên Giáo Hội bởi Chúa Giêsu từ thập giáo và tại Lễ Ngũ Tuần. Như thế, sự thánh thiện ở trong chúng ta không là một loại thứ hai hay một hình thức khác của sự thánh thiện nhưng chính là sự thánh thiện của chính Chúa Kitô. Chúng ta thực sự “được thánh hóa trong Chúa Kitô” (1Cr 1,2). Như trong bí tích rửa tội, thân xác của con người được dìm và được tẩy rửa trong nước, cũng vậy có thể nói, tâm hồm của người đó được tắm rửa trong sự thánh thiện của Đức Kitô: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1Cr 6,11).

Bên cạnh phương tiện nền tảng này của đức tin và của các bí tích, sự noi gương, các công việc và cố gắng cá nhân cũng cần có vị trí của nó. Không phải theo nghĩa không liên kết và khác biệt nhưng theo nghĩa đồng nhất mà chúng thích hợp để bày tỏ đức tin chúng ta và chuyển tải nó trong hành động. Sự đối lập “đức tin và hành động” là một vấn đề giả mạo, được làm sáng tỏ, bởi những tranh luận lịch sử. Những hành động tốt không có đức tin thì không phải là “những hành động tốt”, và đức tin không có hành động tốt thì không phải là đức tin chân thật. Bởi lẽ “hành động tốt như ân xá, hành hương và những thực hành đạo đức, đã không được hiểu một cách chính yếu như thế (như xảy ra vào thời của Lutêrô), cả việc tuân giữ các giới răn, đặc biệt giới răn yêu thương anh em. Chúa Giêsu nói rằng trong ngày phán xét chung những người bị loại khỏi Nước Trời vì họ đã không mặc quần áo cho người trần truồng và không cho người đói ăn. Như vậy, không ai không được cứu độ nhờ những hành động tốt, nhưng không ai được cứu độ nếu không có những hành động tốt. Điều này tóm tắt giáo huấn của Công Đồng Trentô.

Tiến trình thì tương tự như đời sống thể lý. Một em bé tuyệt đối không thể làm gì để được thụ thai trong lòng mẹ nó; bé cần tình yêu của cha mẹ (ít là như thế cho đến bây giờ). Tuy nhiên, khi nó được sinh ra, nó cần thực hành những lá phổi để thở, bú sữa, tóm lại nó phải tự làm lấy, nếu không nó sẽ chết. Câu nói của thánh Giacôbê: “Đức tin không có những hành động là đức tin chết” (Gc 3,26) được hiểu theo nghĩa này, nghĩa là lúc này: đức tin không hành động là đức tin chết.

Trong Tân Ước hai động từ xen kẻ nhau liên quan đến sự thánh thiện, một trong thể chỉ định và một ở trong thể mệnh lệnh: “Anh em là thánh” và “hãy nên thánh”. Các Kitô hữu đã được thánh hóa và đang trở thành thánh thiện. Khi thánh Phaolô viết: “Đây là ý muốn của Thiên Chúa là anh em phải nên thánh” (1Ts 4,3). Rõ ràng là ngài có ý nói riêng về sự thánh thiện này là kết quả của sự cố gắng cá nhân. Đúng như thế ngài thêm, như để giải thích sự thánh thiện hệ tại trong điều mà ngài đang nói: “Tức là xa lánh gian dâm, mỗi người hãy biết giữ cho thân xác mình trong thánh thiện và trong sự kính trọng” (x. 1Ts 4,3-9).

Bản văn của chúng ta Lumen gentium làm nổi bật rõ ràng hai khía cạnh này, khía cạnh khách quan và khía cạnh chủ quan của sự thánh thiện, cách tương ứng dựa trên đức tin và trên những việc làm. Bản văn nói: 

“Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh”.[27]

Vì thế, theo Lutêrô, trời Trung Cổ đã bị lạc hướng trong việc luôn nhấn mạnh phương diện của Chúa Kitô như là gương mẫu, ông tập trung trên một phương diện khác khi khẳng định rằng Chúa Kitô như là quà tặng và quà tặng này đòi hỏi có đức tin để đón nhận Người.[28] Ngày hôm nay tất cả chúng ta đồng ý rằng chúng ta không đặt hai phương diện này trong sự đối nghịch với nhau nhưng là giữ cho chúng hiệp nhất. Trên tất cả Chúa Kitô là một món quà để đón nhận qua đức tin, nhưng Người cũng là mẫu gương cho chúng ta noi theo trong cuộc sống. Ông ghi lòng tạc dạ ý tưởng này trong Tin Mừng: “Thầy ban cho anh em một mẫu gương, là anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15); “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).

3. Những vị thánh hay những người thất bại

Đây là lý tưởng mới về sự thánh thiện trong Tân Ước. Một điểm không thay đổi và rất sâu sắc mà nó chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước, và đó là lý do nền tảng cho ơn gọi nên thánh. “Lý do căn bản” cho đòi hỏi nên thánh là bởi vì Thiên Chúa là thánh: “Hãy nên thánh theo hình ảnh của Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”. Các môn đệ của Đức Kitô phải yêu mến kẻ thù của họ “để anh em có thể trở thành con cái của Cha anh em là Đấng ngự trên trời; vì Người cho mưa xuống trên người công chính và trên cả người tội lỗi” (Mt 5,45). Sự thánh thiện như thế không phải là một sự áp đặt, một ách nặng nề đặt trên vai chúng ta, nhưng là một đặc ân, một quà tặng, một danh dự cao thượng. Nó là một sự đòi buộc, đương nhiên, nhưng nó đến từ phẩm giá chúng ta như là con cái Thiên Chúa. Người Pháp nói “đòi buộc cao thượng” áp dụng ở đây trong một ý nghĩa đầy đủ nhất.

Bản tính thụ tạo của con người đòi hỏi nên thánh thiện. Đây không phải liên quan đến điều mà triết học gọi là các phụ thể nhưng chính là yếu tính con người. Mọi người phải nên thánh để hoàn tất căn tính sâu thẳm của họ, đó là trở thành “theo hình ảnh và giống Thiên Chúa”. Theo Kinh Thánh, căn bản con người không phải điều con người được xác định để trở nên từ sự sinh ra (physis) và nghĩa là “hữu thể có lý trí” như đối với triết học Hy Lạp, nhưng là điều mà con người được mời gọi trở thành, với việc sử dụng tự do, trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đây không thuộc bản tính, nhưng là ơn gọi.

Như vậy nếu chúng ta được mời gọi trở thành thánh nhân, nếu chúng ta “là những vị thánh nhờ ơn gọi”, như thế rõ ràng là chúng ta sẽ là những con người đích thực, thành công trong mức độ mà chúng ta trở thành những vị thánh. Ngược lại, chúng sẽ là những người thất bại. Sự trái nghịch với vị thánh không phải là tội nhân, nhưng là người thất bại! Con người có thể thất bại trong cuộc sống theo nhiều cách thế, nhưng đó là những sự thất bại tương đối mà nó không làm hại đến bản chất; ở đây sự thất bại trong chính mình một cách sâu xa, trong điều mà một người là, không chỉ trong điều một người làm. Mẹ Têrêxa đã có lý khi trả lời cho một nhà báo hỏi mẹ cách bất ngờ rằng mẹ cảm thấy điều gì trong việc được tuyên xưng bởi mọi người như là một vị thánh, “sự thánh thiện không phải là một điều xa xỉ, nó là một sự cần thiết”.

Triết gia Blaise Pascal đã hình thành nguyên lý của ba cấp bậc về sự cao cả: cấp bậc của thân xác và cấp bậc của vật chất, cấp bậc của sự thông minh, và cấp bậc của sự thánh thiện. Một khoảng cách gần như vô tận phân biệt cấp bậc của sự thông minh khỏi cấp bậc của thân xác, nhưng khoảng cách “vô cùng vô tận” phân biệt cấp bậc của sự thánh thiện khỏi cấp bậc của sự thông minh. Những thiên tài không cần sự cao cả về cấp bậc vật chất, nó không thêm không bớt điều gì từ họ. Cũng thế, các thánh không cần sự cao cả của sự thông minh bởi vì cao cả của họ được tìm thấy ở một cấp bậc khác. “Họ được nhận biệt bởi Thiên Chúacác thiên thần, không phải bởi những thân xác hay bởi những trí óc hiếu kỳ, Thiên Chúa là đủ đối với họ”.[29]

Đây là nguyên lý cho phép chúng ta đánh giá mọi sự và con người xung quanh chúng ta một cách đúng đắn. Hầu hết con người dừng lại ở cấp bậc thứ nhất và không có thắc mắc về sự hiện hữu của một cấp bậc cao hơn. Đó là những người sống cuộc sống mà chỉ lo tích trữ những sự giàu có, chăm sóc sắc đẹp thể lý, hay tìm kiếm quyền lực cho mình. Những người khác tin rằng giá trị tối thượng và đỉnh cao của sự vĩ đại là bậc của thông minh. Họ tìm kiếm trở thành những người nổi tiếng trong lãnh vực văn chương, nghệ thuật, suy tư. Chỉ có một số ít biết rằng có một cấp bậc thứ ba của sự vĩ đại, đó là sự thánh thiện.

Đây là sự vĩ đại lớn hơn cả bởi vì nó vĩnh cửu, bởi vì đó là điều đối với cặp mắt Thiên Chúa là sự đo lường đích thực của sự vĩ đại và bởi vì đây cũng là sự viên mãn của điều cao cao nhất trong con người, nghĩa là sự tự do. Điều này không tùy thuộc trên chúng ta sinh ra mạnh khỏe hay yếu đuối, đẹp hay ít đẹp, giàu hay nghèo, thông minh hay ít thông minh. Ngược lại nó tùy thuộc vào chúng ta là lương thiện hay không lương thiện, tốt hay xấu, thánh nhân hay tội nhân. Nhạc sỹ Charle – Francois Gounod, người là một thiên tài, có lý khi nói: “Một giọt của sự thánh thiện thì đáng trân trọng hơn một đại dương thiên tài”.

Tin mừng về sự thánh thiện là con người không không bắt buộc phải chọn chỉ một trong những cấp bậc của sự cao cả này. Họ có thể thánh thiện trong mỗi cấp bậc. Đã có và đang có những vị thánh ở giữa những người nghèo và người giàu, người khỏe và người yếu, thiên tài và người ít học. Không ai bị ngăn chăn khỏi sự cao cả của cấp bậc thứ ba.

4. Tóm tắt con đường tới sự Thánh thiện

Chúng ta theo đuổi sự thánh thiện giống như người chọn hành trình trong sa mạc. Đó cũng là một hành trình có những trạm dừng liên tiếp và những điểm phát xuất mới. Khi thì có người dừng lại và căng lều; hoặc để lấy nước và thức ăn, hoặc đơn giản vì đi nhiều nên mệt. Nhưng đây, một cách bất ngờ, có lệnh của Thiên Chúa cho Môisê là hãy dỡ các lều và hãy tiếp tục đi: “Cố lên, ra khỏi đây, ngươi và dân ngươi, hướng về đất mà Ta đã hứa” (Xh 33,1).

Trong đời sống của Giáo Hội những lời mời gọi tiếp tục lên đường được lắng nghe cách đặc biệt tại lúc khai mạc một mùa mới của năm phụng vụ và nhân dịp đặc biệt của Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa vừa được khai mở bởi Đức Giáo Hoàng. Đối với mỗi người chúng ta, cách cá nhân, thời gian dỡ lều và tiếp tục lên đường trong hành trình của chúng ta hướng tới sự thánh thiện xảy ra khi chúng ta nhận thấy trong chúng ta lời mời gọi huyền nhiệm đến từ ân sủng. Ngay từ đầu, nó giống như một lúc dừng chân. Ta dừng lại trong dòng xoáy của những lo lắng riêng, giữa khoảng cách, khỏi mọi sự để nhìn lại đời sống mình gần như từ bên ngoài hay từ trên cao, sub specie aeternimatis như người ta nói. Lúc đó sẽ nổi lên những câu hỏi: “Tôi là ai? Tôi muốn gì? Tôi đang làm gì trong đời sống?”.

Mặc dù là một thầy tu, nhưng Thánh Bernard có một đời sống rất bận rộn: các hội đồng cần điều hành, các giám mục và tu viện trưởng cần an ủi, các cuộc vận động cần giảng giải. Quá thường xuyên, sách tự thuật của Ngài nói, Ngài sẽ dừng lại và, như thể là đi vào một cuộc đối thoại với chính bản thân Ngài, Ngài tự hỏi bản thân, “Bernard, mục đích của anh khi đến đây là gì?” (Bernard, ad quid venisti?) Tại sao anh lại rời khỏi thế giới và đi vào một tu viện?[30] Chúng ta có thể bắt chước Ngài; chúng ta có thể nói tên chúng ta lên (điều này rất hữu ích) và tự hỏi chính chúng ta, “Tại sao anh lại là một Kitô hữu? Tại sao anh lại là một linh mục hay một tu sĩ? Anh có đang làm điều mà anh phải làm trong thế giới này không?”

Tân Ước miêu tả một dạng của hoán cải mà chúng ta có thể giải thích như là một sự hoán cải – giác ngộ hay một sự hoán cải khỏi sự thờ ơ. Trong sách Khải Huyền có bảy lá thư viết cho các thiên thần (nghĩa là, cho các giám mục, theo một số nhà chú giải) thuộc bảy Giáo Hội tại Tiểu Á. Trong lá thư gửi thiên thần ở Ephêsô, Chúa Kitô bắt đầu bởi sự nhận biết rằng đây là Giáo Hội đã làm một số điều tốt: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi… Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi” (Kh 2,2-3). Sau đó thiên thần đề cập những điều không làm hài lòng ngài: “Nhưng ta trách ngươi. Ngươi đã để mất tình yêu thủa ban đầu!” (Kh 2,4), và ở điểm này tiếng kêu của Đấng Phục Sinh được nghe như một tiếng trống vang lên bởi những người đang ngủ, Metanoeson, hãy sám hối, hãy thay đổi mình, hãy tỉnh thức!

Đây là thư thứ nhất của bảy lá thư. Lá thứ cuối gửi cho thiên thân của Giáo Hội ở Laodicea, thì là nghiêm khắc hơn: “Ta biết việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!” (Kh 3,15). Hãy thay đổi và trở về với nhiệt thành và sốt sắng: Zelêu oun kai metanoeson! (Kh 3,18 tt). Lá thư này, giống lá thư khác, kết luận với lời cảnh báo mầu nhiệm: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh”.

Thánh Augustinô cho chúng ta vài lời khuyên: “Bắt đầu làm sống lại trong chính chúng ta khát khao nên thánh, ngài viết: “Toàn bộ đời sống của một Kitô hữu tốt là một ước ao (nghĩa là một ước ao nên thánh): “Tota vita christiani boni, sanctum desiderium est”.[31] Chúa Giêsu nói: “Phúc cho ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được thỏa lòng” (Mt 5,6). Sự công chính theo Kinh Thánh, như chúng ta biết, là sự thánh thiện. Chúng ta hãy kết thúc với một câu hỏi đơn sơ và trực tiếp để suy niệm: “Tôi có đói khát sự thánh thiện, hay tôi đang nộp mình cho sự tầm thường?”

 

ĐỨc Maria

trong MẦu nhiỆm cỦa ĐỨc Kitô và Giáo HỘi

1. Thánh Mẫu học trong Lumen Gentium

Chủ đề cuối của bài suy niệm Mùa Vọng này là chương VIII trong Lumen gentium, được gọi là “Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm của Đức Kitô và Giáo Hội”. Chúng ta hãy nghe điều Công Đồng nói về vấn đề này:

“Được tiền định từ muôn đời để làm Mẹ Thiên Chúa qua sự liên kết với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, theo ý định của Chúa Quan phòng, Đức Trinh Nữ đã nên người Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh trên trần gian, là cộng sự viên quảng đại đặc biệt hơn mọi người và là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa. Khi cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đức Kitô, khi dâng Người lên Chúa Cha trong đền thánh, và cùng đau khổ với Con mình chết trên Thập Giá, Mẹ đã cộng tác vào công trình của Đấng Cứu Thế một cách hoàn toàn riêng biệt, nhờ sự vâng phục, với đức tin, đức cậy và đức ái nồng nàn, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Chính vì thế, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ của chúng ta”.[32]

Bên cạnh tước hiệu Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của những người tin, Công Đồng dùng một phạm trù nền tảng khác để nói về vai trò của Đức Maria như là một mẫu gương hay như một kiểu mẫu.

“Nhờ ân huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, điều đã làm cho Đức Trinh Nữ được kết hiệp với Con là Đấng Cứu Chuộc, đồng thời nhờ các ân sủng và nhiệm vụ riêng biệt khác, ngài cũng liên kết mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrôsiô đã dạy: Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và sự kết hiệp hoàn hảo với Đức Kitô”.[33]

Như chúng biết, sự mới mẻ thú vị nhất trong thái độ của Công Đồng về Đức Maria cách chính xác là vị trí mà Mẹ được đặt Mẹ trong Hiến Chế về Giáo Hội. Với vị trí này, dẫu không gặp những căng thẳng và khó khăn, Công Đồng hoàn thành một sự canh tân sâu sắc về Thánh Mẫu học so với nền Thánh Mẫu của những thế kỷ gần đây. Khảo luận về Đức Maria không còn độc lập, nhưng được đưa vào phần cuối của tài liệu này. Mẹ giữ một vị trí trung gian giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, như đã có trong thời đại của các Giáo Phụ. Theo thánh Augustinô, Đức Maria được xem như là thành phần tuyệt hảo nhất của Giáo Hội, nhưng vẫn là một thành phần của Giáo Hội, Mẹ không ở ngoài hoặc ở trên Giáo Hội:

“Đức Maria là thánh thiện, Đức Maria được chúc phúc, nhưng Giáo Hội thì quan trọng hơn Đức Trinh Nữ Maria. Tại sao? Bởi vì Đức Maria là một phần của Giáo Hội, một thành viên thánh thiện, tuyệt vời, vượt trên tất cả những thành viên khác, tuy nhiên, là một thành viên của toàn bộ thân thể. Nếu là một thành viên của toàn thể thân thể thì không nghi ngờ rằng thân thể quan trọng hơn một thành viên”.[34]

Hai thực tại soi sáng cho nhau ở đây. Nếu quả thật tranh luận về Giáo Hội làm sáng tỏ Đức Maria là ai, thì tranh luận về Đức Đức Maria cũng làm sáng tỏ Giáo Hội, “thân thể Đức Kitô”, là gì, và như thế, Giáo Hội “gần như là sự kéo dài của việc nhập thể của Ngôi Lời”. Gioan Phaolô II nhấn mạnh tính hỗ tương này trong Thông Điệp Redemptoris Mater của ngài: “Khi giới thiệu Đức Maria trong mầu nhiệm của Giáo Hội, Công Đồng Vatican II cũng tìm thấy con đường cho việc hiểu sâu hơn về mầu nhiệm của Giáo Hội”.[35]

Một sự mới mẻ khác đến từ Công Đồng về Thánh Mẫu học là sự nhấn mạnh về đức tin của Đức Maria. Đây cũng là chủ đề được bàn thảo và phát triển đầy đủ hơn bởi Gioan Phaolô II khi ngài coi đó là chủ đề trung tâm của Thông Điệp về Đức Maria. Nó trình bày sự trở về với Thánh Mẫu học của các Giáo Phụ là những người đã nhấn mạnh tới đức tin của Đức Trinh Nữ, hơn là những đặc ân, như là sự đóng góp cá nhân của Mẹ cho mầu nhiệm cứu độ. Ở đây, chúng ta có thể nhìn nhận sự ảnh hưởng của thánh Augustinô:

“Chính Đức Maria mang thai nhờ đức tin Đấng mà Người sinh ra nhờ đức tin… Khi thiên thần truyền tin, Mẹ đã tràn đầy đức tin (fide plena) rằng Mẹ cưu mang Chúa Kitô trong tâm trí Mẹ trước khi cưu mang Người trong lòng Mẹ, và Mẹ thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy làm cho tôi như lời thần nói”.[36]

2. Viễn tượng đại kết về Đức Maria như là Mẹ của những người tin

Điều tôi muốn làm là nhấn mạnh tầm quan trọng đại kết của Thánh Mẫu học Công Đồng, nghĩa là, Công Đồng có thể đã đóng góp như thế nào – và đang đóng góp – cho việc đưa Công Giáo và Tin Lành xích lại gần gũi nhau hơn về những vấn đề nhạy cảm và tranh cãi về lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ rất thánh.

Trước hết, tôi muôn làm sáng tỏ nguyên lý nền tảng cho những suy tư tiếp theo. Về cơ bản nếu Đức Maria được như là một phần của Giáo Hội, thì có thể dùng những phạm trù Kinh Thánh và những khẳng định từ đó để bắt đầu giải thích về Mẹ, rồi dùng những gì liên quan đến những con người làm nên Giáo Hội, và áp dụng cho Mẹ “theo cách hơn nữa - a fortiori”, thay vì những gì liên quan đến những ngôi vị thần linh, áp dụng cho Mẹ “theo cách thế suy diễn – a by reduction”. 

Chẳng hạn, để hiểu vấn đề nhạy cảm về sự trung gian của Đức Maria trong công trình cứu độ một cách đúng đắn, sẽ có ích hơn bằng cách bắt đầu với sự trung gian của Mẹ như một thụ tạo, hay khởi đi từ dưới lên, như trường hợp về sự trung gian của Abraham, các thánh Tông Đồ, và các bí tích của chính Giáo Hội, hơn là từ trung gian thần linh – nhân loại của Chúa Kitô. Quả thế, khoảng cách lớn nhất không phải là những gì hiện hữu giữa Đức Maria và những phần tử còn lại của Giáo Hội, nhưng là những gì hiện hữu giữa một bên là Đức Maria và Giáo Hội và bên kia là Chúa Kitô và Chúa Ba Ngôi, nghĩa là giữa thụ tạo và Đấng Tạo Thành.

Bây giờ chúng ta hãy rút ra kết luận từ đó. Nếu trong Kinh Thánh nhờ những gì mình làm, Abraham xứng đáng với tên gọi “cha của những người tin” (Rm 4,16; x. Lc 16,24), có nghĩa là cha của mọi kẻ tin, chúng ta có thể hiểu tốt hơn tại sao Giáo Hội không ngần ngại gọi Đức Maria “mẹ của mọi người”, “mẹ của những người tin”.

Khi so sánh giữa Abraham và Đức Maria, chúng ta có thể có được một sự hiểu biết tốt hơn liên quan không chỉ đến tước hiệu đơn sơ này mà còn liên quan đến nội dung và ý nghĩa của nó. Phải chăng “mẹ của mọi người tin” là một tước hiệu đơn sơ của danh dự, hay nó còn có nghĩa gì hơn nữa? Ở đây chúng ta có thể nhận thấy khả thể của những tranh luận đại kết về Đức Maria. Gioan Calvin giải thích bản văn mà trong đó Thiên Chúa nói với Abraham: “Nhờ người mà mọi gia đình trên trái đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3) để nói rằng “Abraham sẽ trở (không chỉ) thành một mẫu gương nhưng còn là nguyên nhân của sự chúc phúc”. Nhà nhà chú giải hiện đại nổi tiếng chú giải tương tự:

“Vấn đề nổi lên (liên quan đến St 12,3): ‘Nhờ ngươi mà mọi gia đình trên trái đất sẽ được chúc phúc’ có ý khẳng định rằng Abraham không chỉ sẽ trở thành một thể thức cho sự chúc phúc, mà còn nói rằng sự chúc phúc của ông được mọi người biết đến… Vì thế, phải trở về với chú giải truyền thống cho rằng những lời này của Thiên Chúa “giống như một lệnh truyền (bởi Chúa) cho lịch sử” (x. B. Jacop). Abraham được xem như là trung gian của phúc lành trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho “mọi gia đình trên trái đất”.[37]

Tất cả điều này giúp chúng ta hiểu điều mà truyền thống từ thánh Irênêô nói về Đức Maria: Mẹ không chỉ là một mẫu gương của sự chúc phúc và của ơn cứu độ, nhưng trong một cách thức mà nó lệ thuộc hoàn toàn vào ơn sủng và vào ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ là nguyên nhân của ơn cứu độ. Thánh Irênêô viết: “Như Evà vì bất tuân, trở thành nguyên nhân của sự chết cho mình và cho tất cả loài người, cũng vậy Đức Maria… nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân của ơn cứu độ cho mình và tất cả loài người”. Những lời của Đức Maria : “Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48) là những lời được coi như là “một lệnh truyền được ban từ Thiên Chúa cho lịch sử”.[38]

Đây là một sự kiện giúp phát hiện ra rằng những nhà khởi xướng Cải Cách nhận biết rằng tước hiệu và đặc ân “làm mẹ” đối với Đức Maria trong ý nghĩa là mẹ chúng ta và mẹ của ơn cứu độ. Trong một bài giảng cho Lễ Giáng Sinh, Martin Luther nói rằng: “Đây là sự nâng đỡ và thiện ích tuyệt hảo của Thiên Chúa (cho mỗi người) đó là…. Đức Maria là mẹ thật của họ, Chúa Kitô là anh của họ, và Thiên Chúa là cha của họ… Đây là trường hợp nếu bạn tin, khi ban sẽ phó thác trong sự che chở của Đức Maria và con yêu dấu của Mẹ”. Trong một bài giảng vào năm 1524, Ulrich Zwingli gọi Đức Maria “Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ của ơn cứu độ chúng ta” và ông nói rằng đối với Đức Maria: ông “không bao giờ suy nghĩ, lại càng không dạy, hay tuyên bố cách công khai điều gì … mà có thể bị coi là vô lễ, vô đạo, bất xứng hay tội lỗi”.[39]

Như thế, làm sao chúng ta tiếp cận tình hình hiện tại với nhiều hiểu lầm từ phía những người Tin Lành đối với Đức Maria, mà trong một số môi trường làm cho họ có nhiệm vụ phải thu thu vị trí Đức Maria, tiếp tục tấn công về điểm này và trong mỗi trường hợp người Công Giáo lơ là tất cả những gì mà Kinh Thánh nói về Mẹ?

Đây không phải là chỗ để nhìn lại lịch sử; tôi chỉ muốn nói rằng đối với tôi dường như đây là con đường để thoát khỏi tình hình bất hạnh liên quan đến Đức Maria. Đó là con đường đi qua nhờ một sự nhận biết chân thành từ phía chúng ta những người Công Giáo luôn luôn, và đặc biệt những thế kỷ gần đây, đã góp phần trong việc làm cho Đức Maria không được đón nhận đối với người Tin Lành bởi sự tôn kính Đức Mẹ theo những cách thế mà thường là thái quá, nhẹ dạ và vượt trên tất cả bởi không thực hành việc sùng kính Mẹ một cách rõ ràng theo khuôn khổ Kinh Thánh cho thấy Mẹ có vai trò khiêm tốn hơn so với Ngôi Lời Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần, và cả Chúa Giêsu. Thánh Mẫu học trong những thế kỷ gần đây đã trở thành một nhà máy không ngừng sản xuất nhiều tên gọi mới, nhiều sự sùng kính mới, thường là nhằm luận chiến chống người Tin Lành, đôi khi dùng Đức Maria, người Mẹ chung chúng ta như là vũ khí để chống đối họ!

Công Đồng Vatican II phản ứng lại khuynh hướng này một cách đặc biệt bằng sự tái xác nhận rằng “Các tín hữu phải cẩn thận tránh xa những lối diễn tả hay hành động có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật”.[40]

Về phía những người Tin Lành, tôi tin rằng có một chỗ để nhận biết những ảnh hưởng tiêu cực mà không chỉ là những luận chiến chống Công Giáo nhưng còn là chủ nghĩa duy lý đã có trong thái độ của họ đối với Đức Maria. Đức Maria không phải là một ý tưởng nhưng là một con người cụ thể, một người phụ nữ, và như thế Người không được dùng để lý thuyết hóa về hay bị giảm thiểu cho một nguyên tắc trừu tượng. Người là icon đích thực về sự đơn giản của Thiên Chúa. Vì lý do này, trong môi trường được thống trị bởi chủ nghĩa duy lý cực đoan, Mẹ phải được rút ra khỏi cảnh thần học.

Một người phụ nữ Tin Lành qua đời cách đây ít năm qua, Mẹ Basilea Schlink, đã thành lập một cộng đoàn nữ tu trong Giáo Hội Lutêrô được gọi là “Những Nữ Tu của Đức Maria”, mà nay đã lan tỏa đến nhiều quốc gia trên thế giới. Sau khi xem lại những bản văn khác nhau của Lutêrô về Đức Maria, bà đã viết trong những cuốn sách nhỏ của mình:

“Khi đọc những lời này của Martin Luther, người tôn kính Mẹ Maria cho đến suốt đời của ông, giữ các ngày lễ về Đức Maria, và hằng ngày hát kinh Magnificat, chúng ta có thể hiểu làm sao phần lớn chúng ta đi đã trệch hướng từ những thái độ của mình đối với Mẹ… Bởi vì chủ nghĩa duy lý đã chấp nhận chỉ điều có thể được diễn tả theo lý trí, những ngày lễ của Giáo Hội trong việc tôn kính Đức Maria và mọi thứ tưởng nhớ khác về Mẹ không còn làm nữa trong Giáo Hội Tin Lành. Tất cả tương quan Kinh Thánh đối với Mẹ Maria đã bị đánh mất, và chúng ta chỉ còn chịu đựng từ gia tài này. Martin Luther mời gọi chúng ta ca ngợi Mẹ Maria, khi ông tuyên xưng rằng Người không bao giờ được ca ngợi cho đủ như là người nữ cao cả nhất, sau Chúa Kitô, là viên ngọc quý nhất trong Kitô Giáo, tôi phải thú nhận rằng nhiều năm tôi là người trong số đó đã không làm như thế, mặc dầu Kinh Thánh nói rằng từ nay muôn thế hệ sẽ khen Đức Maria là người có phúc (Lc 1,48). Tôi đã không làm bổn phận mình giữa những thế hệ này”.[41]

Tất cả những cơ sở này cho phép chúng ta bày tỏ một hy vọng chân thành là một ngày trong tương lai gần, người Công Giáo và Tin Lành không còn bị chia rẽ nhưng hiệp nhất với nhau liên quan đến Đức Maria trong một sự tôn kính, có thể khác biệt trong hình thức nhưng giống nhau trong việc nhìn nhận Mẹ như là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của những người tin. Tôi có niềm vui cá nhân khi thấy vài dấu chỉ về sự thay đổi này tiếp tục xảy ra. Hơn một lần, tôi đã có thể nói về Đức Maria cho một cử tọa người Tin Lành, tôi nhận thấy không chỉ có sự chấp nhận giữa những người hiện diện mà còn, ít nhất trong một ít trường hợp, có cảm xúc sâu sắc nơi họ khi tái khám phá về điều gì đó quý giá và trong sự chữa lành ký ức.

3. Đức Maria, Mẹ và Con Gái của Lòng Thương Chúa

Chúng ta là để một bên tranh luận đại kết, và hãy cố gắng nhìn nếu Năm Lòng Thương Xót giúp chúng ta khám phá điều gì mới về Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria được khẩn cầu trong kinh rất cổ Salve Regina như là “Mater misericordiae”, Mẹ của lòng thương xót. Cũng trong kinh đó, lời khẩn cầu được gửi tới Mẹ: “Illos tuos misericordes oculus ad nos converte”: Nguyện đưa mắt nhân từ, phía đoàn con ngoái lại”. Tại thánh lễ khai mạc Năm Thánh ở quảng trường thánh Phêrô vào ngày mồng 8 tháng 12, một icon cổ về Mẹ Thiên Chúa được trình bày tại một bên bàn thờ. Icon này được thờ kính bởi những người Công Giáo Hy Lạp Ucraina trong một nhà thờ ở Jaroslaw, Ba Lan, được xem như là “Những Cánh Cửa của Lòng Thương Xót”.

Đức Maria là Mẹ và là Cửa của lòng thương xót trong hai nghĩa. Người là cửa qua đó lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu bước vào thế giới, và Người bây giờ là cửa qua đó mà chúng ta bước vào Lòng Thương Xót Chúa và hiện diện trước “ngai tòa của lòng thương xót” là Thiên Chúa Ba Ngôi. Tất cả điều này là rất thật, nhưng chỉ là một phương diện về tương quan giữa Đức Maria và lòng thương xót Chúa. Quả thật, Mẹ không chỉ là một kênh và trung gian của lòng thương xót Chúa nhưng cũng là đối tượng và là người đón nhận nó đầu tiên. Mẹ không chỉ là người đã giữ lòng thương xót cho chúng ta nhưng cũng là người đầu tiên đã giữ lòng thương xót và là người được thương xót hơn bất kỳ ai.

Lòng thương xót đồng nghĩa với ân sủng. Chỉ trong Ba Ngôi tình yêu là “bản tính” và không phải là “ân sủng”; đó là tình yêu chứ không phải ân sủng. Chúa Cha yêu Chúa Con không phải là một ân sủng hay một sự nhượng bộ; nghĩa là một sự cần thiết theo một nghĩa nào đó. Chúa Cha cần yêu để hiện hữu như là Cha. Chúa Con yêu Chúa Cha không phải là một nhượng bộ hay một ân sủng; đó là một sự cần thiết nội tại dẫu điều đó thực hiện với sự tự do hoàn toàn. Chúa Con cần được yêu và yêu để là Con. Khi Thiên Chúa tạo dựng thế giới và các thụ tạo tự do, điều này có nghĩa là tình yêu của Người trở thành một quà tặng nhưng không và tự do, đó là ân sủng và lòng thương xót. Điều này có trước cả khi có tội lỗi. Tội lỗi chỉ làm cho lòng thương xót của Thiên Chúa từ quà tặng trở thành ơn tha thứ.

Tựa đề “đầy ân sủng”; như thế là đồng nghĩa với “đầy ơn thương xót”. Chính Đức Maria đã tuyên xưng trong kinh Magnificat: “Người đã nhìn đến sự thấp hèn của người tôi tớ”, “Vì Người nhớ lại lòng thương xót ” “Lòng thương xót Người trải qua đời nọ tới đời kia”. Đức Maria ý thức rằng mình là người tận hưởng lòng thương xót, một chứng nhân của lòng thương xót cách đặc biệt. Trong trường hợp của Người, lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ mang lại ơn tha thứ tội lỗi nhưng còn gìn giữ khỏi tội lỗi.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói rằng điều mà Thiên Chúa làm cho Đức Maria là điều mà một bác sĩ giỏi đã làm trong một trận dịch. Ông đi từ nhà này sang nhà nọ để chữa lành những người đã bị nhiễm phải bệnh dịch. Nhưng nếu ở đây có người nào đó mà ông rất yêu mến như là vợ ông, hay mẹ của ông, ông sẽ cố gắng chữa, nếu có thể ông sẽ phòng ngừa họ khỏi sự lây nhiễm. Một cách chính xác đây là điều mà Thiên Chúa đã làm trong khi gìn giữ Đức Maria khỏi tội tổ tông truyền nhờ công trạng của cuộc khổ nạn Con Người.

Khi nói về nhân tính của Chúa Giêsu, Thánh Augustinô nói rằng: 

“Trên nền tảng có điều gì, nhân tính của Chúa Giêsu đã xứng đáng được đảm nhận từ Ngôi Lời vĩnh cữu của Chúa Cha trong sự hiệp nhất của ngôi vị Người? Đâu là công trình tốt đẹp của Người phát sinh điều đó? Người đã làm gì trước giây phút này, Người đã tin điều gì, hay hỏi điều gì, để được nâng lên phẩm giá không thể diễn tả như vậy?” Và nơi khác ngài thêm: “Bạn hãy tìm kiếm sự xứng đáng, hãy tìm kiếm sự công chính, hãy suy nghĩ, và bạn sẽ thấy không phải là gì ngoài ân sủng”.[42]

Những lời này cách riêng chiếu một luồng sáng cả trên con người Đức Maria. Với một lý do rất mạnh chúng ta phải hỏi rằng: “Đức Maria đã làm gì để xứng đáng được đặc ân là ban tặng nhân tính mình cho Ngôi Lời? Mẹ đã tin điều gì, xin gì, hy vọng gì, để đến với thế giới thánh thiện và vô nhiễm như vậy? Ở đây, hãy tìm kiếm sự công trạng, hãy tìm kiếm sự công bình, hãy tìm kiếm điều bạn muốn, và bạn sẽ thấy trong Người ngay từ đầu không gì khác hơn là lòng thương xót!

Thánh Phaolô qua cuộc sống của mình cũng không ngừng nhìn nhận mình là hoa trái và chiến lợi phẩm của Lòng Thương Xót Chúa. Ngài mô tả về chính mình “như một người đã đón nhận lòng thương xót từ Chúa” (x. 1Cr 7,25). Ngài không giới hạn mình để phát biểu giáo huấn về lòng thương xót nhưng ngài trở nên một chứng nhân sống động về lòng thương xót: “Tôi xúc phạm nặng nề, bách hại, và sỉ nhục Người; nhưng tôi đã nhận được lòng thương xót” (1Tm 1,13).

Đức Maria và các Tông Đồ dạy chúng ta rằng con đường tốt nhất để rao giảng lòng thương xót là làm chứng tá cho lòng thương xót mà Chúa đã làm cho chúng ta. Họ cũng dạy chúng ta xem mình như là hoa quả của lòng thương xót trong Chúa Kitô Giêsu và nay còn sống chỉ nhờ lòng thương xót. Một ngày kia Chúa Giêsu chữa lành một người bất hạnh bị thần ô uế ám. Anh muốn theo Chúa và nhập vào nhóm các môn đệ. Chúa Giêsu không cho anh theo và nói với anh rằng: “Anh hãy về với bạn bè anh và nói với họ biết Chúa đã làm cho anh như thế nào và Người đã thương anh làm sao” (Mc 5,19).

Đức Maria đã ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa trong kinh Magnificat vì lòng thương xót dành cho Mẹ. Người cũng mời gọi chúng ta làm như thế trong Năm Lòng Thương Xót. Người mời gọi chúng ta hãy làm cho bài thánh ca được vang trong Giáo Hội mỗi ngày như là ca đoàn lặp lại một bài hát sau người đơn ca. Vì thế, tôi cũng mời gọi anh chị em đứng lên và cùng nhau tuyên xưng phần cuối của bài thánh ca về Đức Maria, một bài thánh ca về lòng thương xót Chúa, đó là kinh Magnificat : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”…

Xin chúc mừng Giáng Sinh vui tươi và Năm Mới Lòng Thương Xót hạnh phúc tới Đức Thánh Cha, Quý Cha và anh chị em!



[1] Lumen gentium 1, in Vatican Council II: Constitutions, Decrees, Declarations, gen. ed. Austin Flannery (Northport, NY: Costello, 1996), p. 1.

[2] Cf. Joseph Cardinal Ratzinger, “The Ecclesiology of Second Vatican Council”, in Church, Ecumenism, and Politics: NewEndeavors in Ecclesiology (San Francisco: Ignatius Press, 2008), p. 15.

[3] See St. John Paul II, Novo millennnio ineunte, 42 and 45.

[4] See Hans Urs von Balthasar, Explorations in Theology, Vol. 2: Spouse of the Word, trans. John Saward (San Francisco: Ignatius Press, 1991), pp. 143-192.

[5] LG 6

[6] LG 7

[7] See Joseph Cardinal Ratzinger, “The Origin and Essence of the Church”, in Called to Communion: Understandingthe Church Today (San Francisco: Ignatius Press, 1996), pp. 13-40

[8] See St. Augustine, “Sermon 272”, in The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 7, trans. Edmund Hill, ed. John E. Rotelle (Hyde Park, NY: New City Press, 1993), pp. 300-301. See also (PL 38, 1247f.).

[9] See Henri de Lubac, Corpus Mysticum: The Eucharist and the Church in the Middle Ages, trans. Gemma Simmonds (Notre Dame, IN: University of Notre Dame Press, 2007).

[10] See Origen, On the “Song of Songs”, III (GCS 33, pp. 185, 190); St. Ambrose, Expositions of Psalm 118, 6, 18 (CSEL62, p. 117).

[11] St. Ambrose, On the Mysteries, 7, 39, quoted in Henri de Lubac, Medieval Exegesis, Volume 2: The Four Senses of Scripture, trans. E. M. Macierowski (London: A & C Black, 2000), p. 135.

[12] See John Zizioulas [L’être ecclésiale, 1981], Being as Communion: Studies in Personhood and the Church(Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1997).

[13] De Lubac, Corpus Mysticum, p. 88.

[14] Ratzinger, “The Origin and Essence of the Church”, p. 25.

[15] Nicholas Cabasilas, Life in Christ, 4, 6, trans. Carmino J. deCatanzaro (Crestwood, NY: St Vladimir’s Seminary Press, 1974), p. 123; see also PG 150, 593.

[16] St. Hilary of Poitiers, The Trinity, 8, 6: “Eius tantum in se adsumptam habens carnem, qui suam sumpserit”: “He has assumed and taken upon himself the flesh of him only who has received His own”. English trans., Stephen McKenna, in vol. 25, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 2010), p. 287; see also PL 10, p. 248.

[17] Karol Wojtyla, “Song of the Inexhaustible Sun”, in The Place Within: The Poetry of John Paul II, trans. Jerzy Peterkiewicz (New York: Random House, 1994), p. 23.

[18] Blessed Elizabeth of the Trinity, in Jean Lafrance, Learning to Pray According to Sister Elizabeth of the Trinity, trans. Florestine Audette (Sherbook, QC: Médiaspaul, 2003), p. 124.

[19] Pope Francis, Evangelii gaudium, 1, 3

[20] www.vatican2voice.org/91docs/opening_speech.htm. All papal quotes for this book are from the Vatican website.

[21] Augustine, The Spirit and the Letter, 32, 56, PL 44, p. 237; see Augustine: Later Works, trans. and intro. John Burnaby (Philadelphia: Westminster Press, 1955), p. 241.

[22] x. The History of Vatican II, Vol 4: Church as Communion: Third Period and Intersession: September 1964--September 1965, ed. Giuseppe Alberigo, English ed. Joseph A. Komonchak (Maryknoll, NY: Orbis Books, 2002), p. 46ff.

[23] Lumen gentium, 39, in Vatican Council II: Constitutions, Decrees, Declarations, gen. ed. Austin Flannery (Northport, NY: Costello, 1996), p. 58.

[24] x. Đnl 32,4; Đnl 3,31; Kh 16,7.

[25] Nicholas Cabasilas, Life in Christ, 4, 15, trans. Carmino J. deCatanzaro (Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1974), pp. 138-139.

[26] William of St. Thierry, The First Life of Bernard, in St. Bernard of Clairvaux, trans. Geoffrey Webb and Adrian Walker (London: A. R. Mowbray, 1960), p. 37.

[27] Lumen gentium, 40, p. 59.

[28] x. Søren Kierkegaard, The Diary of Søren Kierkegaard, X1, A 154, ed. Peter Rhode (New York: Kensington, 1960), pp. 168-170.

[29] Blaise Pascal, Pensées, 593, trans. A. J. Krailsheimer (New York: Penguin, 1995), p. 94.

[30] K. Wojtyla, Tutte le opere letterarie, Bompiani. Milano 2000, p. 75.

[31] St. Augustine, “Homily 4”, 6, in Homilies on the First Epistle of John, trans. and notes Boniface Ramsey, The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 14 (Hyde Park, NY: New City Press, 2008), p. 69; see also PL 35, p. 2008.

[32] LG 61.

[33] LG 63.

[34] Saint Augustine, “Sermon 72 A”, 7, in The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 3, trans. Edmund Hill, ed. John Rotelle (Brooklyn, NY: New City Press, 1991), p. 228.

[35] John Paul II, Redemptoris Mater, 5.

[36] St. Augustine, “Sermon 215”, 4, in The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 6, trans. Edmund Hill, ed. John Rotelle (New Rochelle, NY: New City Press, 1993), p. 160.

[37] Gerhard von Rad, Genesis: A Commentary, trans. John H. Marks (Philadelphia: Westminster, 1961), pp. 155-156.

[38] Saint Irenaeus, The Writings of St. Irenaeus: Irenaeus Against the Heresies, III, 22, 4 (London: T & T Clark, 1884), p. 361.

[39] Ulrich Zwingli, “Mary, Ever Virgin, Mother of God” (1524), quoted in Max Thurian, Mary: Mother of All Christians (New York: Herder and Herder, 1963), p. 76.

[40] LG 67.

[41] Mother Basilea Schlink, Mary, the Mother of Jesus (London: Marshall Pickering, 1986), pp. 114-115.

[42] Saint Augustine, “Sermon 185”, 3, in Sermons for Christmas and Epiphany, trans. Thomas Comerford Lawler, vol. 15, Ancient Christian Writers (New York: Paulist Press, 1952), p. 79. See also PL 38, p. 999.


Trang Suy Niệm Các Chủ Đề Chung