Mùa
Chờ Đợi
Tác giả: LM Giu-se Nguyễn Công Đoan S.J., ngày 1 tháng 12
năm 2018
(ktcgkpv.org)
“Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên
trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và
nói : “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giê-su,
Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã
thấy Người lên trời” (Cv
1,11).
Mùa
Vọng tức là mùa chờ đợi : Hòn Vọng Phu là hình tượng người vợ chờ chồng
đến hoá thành đá, vì chồng đi chinh chiến đã không bao giờ trở về : đó là
hình tượng bi thảm của chiến tranh, đó cũng là hình tượng cao đẹp về người phụ
nữ Việt Nam.
Mùa
Vọng mời chúng ta nhìn lên trời chờ Chúa đến. Như vậy có phải là làm ngược lại
lời của “hai người áo trắng”
nói với các môn đệ và sẽ “hóa đá’ như người chinh phụ không ?
Trước
hết hãy xem “hai người áo
trắng” này là ai, và lời nhắc nhở mang ý nghĩa gì. Trong sách Tin
Mừng Lu-ca “ : khi các phụ nữ ra viếng mộ, “họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ
không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi,
cúi gằm xuống đất, thì hai người kia nói : “Sao các bà lại tìm Người Sống
ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa nhưng đã chỗi dậy rồi”
(Lc 24,4).
Trong
trình thuật “Chúa Giê-su tỏ vinh quang trên núi” thì “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó
là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp
hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,30-31).
Khi
Chúa Giê-su tỏ vinh quang thì Lu-ca nói
rõ đó là hai ông Mô-sê và Elia, đại diện cho “Lề Luật và các Ngôn Sứ” ; ở
mộ thì Lu-ca không
nói là ai, cũng không nói là thiên thần, mà chỉ nói là hai người đàn ông. Như
vậy thì Lu-ca mời
ta liên tưởng tới hai người “rạng
ngời vinh hiển”, tức là Mô-sê và Ê-li-a. Trên đường Em-mau cũng như
sau đó khi đứng giữa các môn đệ, Chúa Giê-su phục sinh sẽ cho họ chìa khóa để
hiểu về Chúa và về sứ mạng của họ, đó là “Lề
Luật và các Ngôn Sứ”. Lúc ấy Chúa đã cho họ biết : Lề Luật,
các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã loan báo rằng Ngài là Đấng Ki-tô thì phải chịu
đau khổ để vào trong vinh quang, còn họ “phải
nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân…”(Lc 24,44-48).
Bằng kỹ
thuật liên kết hình ảnh, cuốn thứ hai của bộ sách gồm hai cuốn : Tin Mừng
thứ ba và Công vụ Tông Đồ, gợi cho ta liên kết hai “người áo trắng” này với hai người “rạng ngời vinh hiển” từng
đàm đạo với Chúa Giê-su về cuộc xuất hành, rồi hai người “mặc y phục sáng chói” giải
nghĩa cho các phụ nữ khi cuộc xuất hành đã thành công, bây giờ đến nhắc cho các
môn đệ nhớ là “đến phiên họ” ra đi rao giảng đấy, núi Ô-liu có thừa đá rồi,
đừng ở đó mà hoá đá ! Nhưng chính lời nhắc nhở này kết hợp với lời Chúa
Phục Sinh đã căn dặn, cho họ hiểu rằng họ phải đi rao giảng vì có một niềm hy
vọng : đó là sẽ được thấy Chúa đi ngược chiều với chuyến đi hôm nay :
“Người sẽ ngự đến y như các
ông đã thấy Người lên trời”. Chúa Giê-su không phải là người chinh
phu ra đi “biền biệt nước
non”, cũng không phải người hùng “ra đi không về, âm vang lời thề”, nhưng là “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình rồi ngày
thứ ba từ cõi chết sống lại” và Chúa đã sống lại, đã khải hoàn.
Chúa
lên trời là kết thúc việc Chúa đã đến trong thân phận con người nhỏ bé nghèo
hèn. Nhưng Chúa không bỏ đi luôn, mà đi để có thể đến lần nữa “trên đám mây”,
trong vinh quang. Giữa hôm Chúa lên trời và ngày Chúa lại đến là thời gian của
sứ mạng. Phải chờ đợi bằng cách thi hành sứ mạng, loan báo cho mọi người cùng
chờ đợi, chứ không phải ở đó chờ để “hưởng một mình”.
Như vậy
suốt lịch sử Giáo Hội, suốt đời người tín hữu là Mùa Vọng, mùa chờ đợi. Không
phải đứng đó mà chờ như người chinh phụ, Chúa không phải chinh phu đã ra đi
không hẹn ngày về nhưng là chàng rể sắp đến (x. Mt 25,1-13), nên phải khẩn
trương chuẩn bị và sẵn sàng luôn vì không biết khi nào Chúa đến. Trong bài Tin
Mừng chúa nhật đầu mùa Vọng năm nay, Chúa còn ví mình như người chủ phải đi xa
và sẽ trở về : “Cũng
như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình,
chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức.
Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến : lúc
chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ
ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13,33-37).
Chúa
chỉ vào nhiệm vụ người giữ cửa như là mẫu mực cho mọi người : tỉnh thức,
sẵn sàng. Trong Tin Mừng Lu-ca,
sự đối chiếu giữa người giữ cửa (Lc
12,35-37) với người quản gia (Lc
12,42-48) giúp ta hiểu canh thức nghĩa là gì : “Phúc cho đầy tớ ấy (người
giữ cửa) khi chủ về mà
thấy đang tỉnh thức” (Lc
12,37) – Phúc
cho đầy tớ ấy (quản gia) khi chủ về mà thấy đang làm như vậy” (Lc 12,43) (phân phát lương
thực cho người trong nhà). Mỗi người mỗi việc, chủ chỉ cần thấy mỗi người đang
làm việc chủ đã trao cho mình, cũng như thấy người giữ cửa tỉnh thức, nghe chủ
gõ cửa là mở liền. Chúa không đòi phải “tăng gia sản xuất” vì Chúa rất giàu
sang, người quản gia chỉ việc phân phát, không cần làm thêm. Chúa không phải là
cán bộ “hợp tác xã” thời chiến tranh, được nông dân miền Bắc hí họa : “một
người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài mua xa ; một người làm việc
bằng ba, để cho cán bộ xây nhà xây sân” ; Chúa cũng không đòi làm quá sức
mình như nông hội miền Bắc với khẩu hiệu “nghiêng đồng tát nước ra sông”, “với
sức người sỏi đá cũng thành cơm”, vì nông hội có tham vọng “thay trời làm mưa”,
thậm chí muốn làm ông trời luôn “Thằng trời hãy xuống làm dân, để cho nông hội
đứng lên làm trời”. Chúa là Chúa, là Đấng nuôi cá biển chim trời, mặc đẹp cho
cả hoa dại ngoài đồng (x. Mt
6,25-34). Chúa là “Đấng
cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên
người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45) Chúa chỉ muốn mỗi
người làm theo ý Chúa : “Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy “Lạy Chúa, lạy Chúa !” là được vào Nước Trời
cả đâu ! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên
trời, mới được vào mà thôi” (Mt
7,21).
Thuốc
lú
Chúa
đòi mọi người phải “canh thức” hay “tỉnh thức” nghĩa là gì ?
Nghĩa
là NHỚ và hành động theo căn tính của mình : tôi là ai, tôi từ đâu đến và
tôi đi đâu. Người bệnh “alzeimer” bị mất trí nhớ, không còn biết mình là ai,
không biết mình từ đâu đến và không biết mình đi đâu. Quên một trong ba yếu tố
này, hay không hành động theo một trong ba yếu tố này là đánh mất chính mình.
Để giải
thích thuyết luân hồi và trả lời thắc mắc : “tại sao tôi không nhớ kiếp trước tôi là ai”,
câu trả lời bình dân là trước khi nhập kiếp trên cõi dương thì trong cõi âm tôi
đã bị cho uống thuốc lú, làm cho tôi quên mình là ai. Vậy ra thuốc lú âm phủ
cũng chưa công hiệu 100%, vì còn có người nhớ được là mình đã bị cho uống thuốc
lú !
Thực tế
cuộc đời có rất nhiều thứ thuốc lú ngay trong kiếp tôi đang sống, chẳng cần
phải xuống âm phủ mới mua được và cũng chẳng cần ai bắt uống. Chính tôi đi tìm
thuốc lú trong cuộc sống trên dương gian, càng uống càng nghiền và hiệu quả của
nó thì đạt 100% vì không còn nhớ được là mình đã uống thuốc lú đấy !
Chúa
Giê-su đã liệt kê một số thuốc lú trong dụ ngôn hạt giống : “Hạt giống là Lời Thiên Chúa. Những kẻ
bên vệ đường là những kẻ đã nghe, nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ,
kẻo họ tin mà được cứu độ. Những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ
tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ
bỏ cuộc. Hạt rơi vào bụi gai : đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị
những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho
chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành”.(Lc 8,11-14). Trước khi bị
nộp vào tay người đời, Chúa Giê-su còn căn dặn môn đệ : “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình
ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới
chụp xuống đầu anh em” (Lc
21,34).
Ngoài
những thuốc lú trong “thiên nhiên” mà Chúa Giê-su liệt kê, còn có nhiều thứ
thuốc lú được bào chế tinh vi, và được phân phát trên các phương tiện truyền
thông của thời bấm nút này.
Thuốc
lú nào cũng có hiệu lực và cũng có thể hoá giải nếu ta muốn.
Quên là
bước đầu để lạc đường và nhớ lại là bước đầu để thấy đường về.
Trong
dụ ngôn nổi tiếng của Lc
15,11-32, đứa con hoang đàng quên rằng cha nó còn sống nên đòi phần
gia tài để ra đi, làm như thể cha nó đã chết. Đến khi lâm cảnh cùng quẫn, đói
rách, “bấy giờ anh ta hồi
tâm và tự nhủ : “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa,
mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…”.
Đang khi đó thì người anh ở nhà cũng uống phải thuốc lú, quên mình là con đang
sống với cha và quên luôn đứa em : “Lúc
ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về đến nhà, nghe thấy
tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.
Người ấy trả lời : “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì
gặp lại cậu ấy mạnh khỏe”. Người anh cả liền nổi giận va không chịu vào nhà.
Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha : “Ông coi, đã bao nhiêu năm trời
tôi hầu hạ ông, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ ông cho lấy
được một con dê con, để tôi ăn mừng với bạn bè của tôi. Còn thằng con của ông
đó, sau khi đã nuốt hết của cải của ông với bọn đĩ điếm, nay trở về thì ông lại
giết bê béo ăn mừng”. [Tôi mạn phép thay đổi cách xưng hô trong bản
dịch lời con cả này]. Người cha âu yếm dỗ dành, tìm lời giúp anh ta nhớ lại
người đang nói với anh là cha của anh ta và “thằng con của ông ngồi kia” là em
của anh ta đấy…
Chuyện
bỏ lửng vì không biết lời lẽ của người cha có giải được thuốc lú của sự tự mãn,
ghen tương kia hay không.
Đứa con
hoang đàng nhớ đến “ông chủ tốt bụng” dưới mái nhà xưa đã quay về, và vòng tay
âu yếm của ông đủ làm cho anh ta hồi phục trí nhớ, nhận ra người đang ôm mình
trong lòng là cha của mình.
Trong
câu chuyện ông Phê-rô chối Thầy rồi khóc lóc thảm thiết (theo Lc 22,54-62) ta cũng nhận
thấy hai yếu tố quên và nhớ này. Chuyện bắt đầu từ chỗ buồn thành
ra buồn ngủ,
quên cả lời Chúa vừa bảo “hãy
tỉnh thức mà cầu nguyện”. Khi Chúa đánh thức dậy để chứng kiến
người ta tới bắt Chúa thì lại quên mình là môn đệ nên tuốt gươm chém. Mon men
đi theo, và muốn vào tận trong sân nhà Thượng Tế để xem số phận Thầy ra sao,
nhưng mới chạm ánh mắt dao cau của cô nữ tỳ thì đã quên lời thề hứa “sẵn sàng vào tù hoặc chết với Thầy”
và chối gọn như miếng cau trên cơi trầu : “Tôi không biết ông ấy”. Rồi trước cặp mắt tò
mò của một gã vô danh tiểu tốt, ông chối luôn cả nhóm bạn thân tín nhất. Cuối
cùng với lời khích bác của một kẻ vô danh khác thì ông quên cả mình là người
Ga-li-lê. Sợ hãi là thứ thuốc lú cực mạnh đấy. Nhưng với ánh mắt nhân từ khoan
dung tha thứ, Chúa quay lại nhìn ông. Ánh mắt của Chúa xuyên được cả bóng đêm
để bắt gặp được ông, có sức hoá giải ánh mắt dao cau của cô tớ gái, ánh mắt tò
mò của hai tên tiểu tốt vô danh. Ánh mắt của Chúa giải lú cho ông : “ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông :
“Hôm nay, gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần”. Và ông ra ngoài khóc
lóc thảm thiết”.
Thuốc
lú nào tinh vi và hiệu quả nhất ngày nay ?
Năm
1981, Nhà Nước đem tôi về Sở Công An để nuôi vì sợ để tôi ở ngoài thì tôi
“tuyên truyền phản cách mạng”. Một hôm ông Trưởng Phòng Chấp Pháp, tên là NVD,
chìa ra trước mặt tôi văn bản của Tổng Hội Dòng Tên 32 (1965) về “sứ mạng của Dòng Tên hôm nay”,
trong đó nói rằng sứ mạng của Dòng Tên hôm nay là chống lại chủ nghĩa vô thần.
Ông đắc thắng chỉ vào mặt tôi rồi vỗ ngực : “Các anh chống chủ nghĩa vô thần tức là chống chúng tôi
chứ gì nữa ! ?” Tôi lễ phép trả lời : “Thưa ông, có phải chỉ có cộng sản các
ông là vô thần thôi sao ? Có nhiểu thứ vô thần trên thế giới lắm. Các ông
tự nhận là vô thần nhưng các ông lại thúc đẩy chúng tôi đào sâu đức tin. Chủ
nghĩa vô thần thực dụng của tư bản mới thật sự đáng sợ đối với người tin Chúa
và cả đối với chế độ cộng sản nữa đấy : nó không thèm nhắc đến Thiên Chúa
và nó cho người ta mọi thứ để không nghĩ, không nhớ tới Thiên Chúa nữa
cơ ; và như vậy nó cũng có khả năng làm cho người ta quên mọi chủ nghĩa,
mọi lý tưởng. Nó đẻ ra chủ nghĩa tiêu thụ và hưởng thụ : hưởng thụ bằng
cách tiêu thụ ; muốn tiêu thụ thì phải có tiền bằng bất cứ giá nào. Đó mới
là thứ chủ nghĩa vô thần mà chúng tôi phải chống kịch liệt”.
Nếu ông
NVD còn trên cõi đời này thì chắc ông có thể kiểm tra tận tai tận mắt câu trả
lời của tôi trong thực tế, khỏi cần sai trinh sát đi dò la đâu xa, vì thuốc lú
này rất phổ biến ở Việt Nam rồi, và tôi có thể khoe với ông là tôi đã kể cho
bạn bè năm châu bốn bể nghe cuộc đối thoại này, khi giảng trước công chúng, khi
trả lời phỏng vấn cũng như khi nói chuyện riêng tư, ai cũng gật gù đắc ý. Tôi
đọc cho ông nghe bài vè này (tôi học được ở trại giam của Sở Công An đấy) để
cho thấy thuốc lú này có hình dáng gọn và màu sắc đẹp lắm và nhất là hiệu quả
tuyệt vời :
Vè Đồng tiền.
Ôi Đồng
tiền
Là tiên
là phật
Là sức
bật của con người
Là
tiếng cười của tuổi trẻ
Là sức
khỏe của người già
Là cái
đà của danh vọng
Là cái
lọng để che thân,
Lá cán
cân của công lý.
Ôi đồng
tiền ! Hết ý !
Hồi ông
NVD đối thoại với tôi, ông cũng thích nói tới những chuyện bê bối trong Hội
Thánh, tôi đã nói với ông rằng điều đó có gì lạ đâu, vì chúng tôi cũng là người
đang sống trên dương gian mà ! Chúa Giê-su tuyển chọn mười hai người làm
nòng cốt, nền tảng để xây dựng Hội Thánh, thế mà một ông bán chúa, mười ông bỏ
Chúa, ông đứng đầu thì chối Chúa nhanh hơn gà gáy, còn Chúa thì đi xuống âm ty.
Ấy thế mà Hội Thánh đã có hai ngàn năm lịch sử, dù qua bao thăng trầm, vì chúng
tôi có hơn gì mười hai người kia đâu : vẫn có người bán Chúa, có người bỏ
Chúa, có người chối Chúa dài dài. Ngày nay tôi có thể nói với ông là Thuốc Lú
này có sức thâm nhập kinh khủng, nó lọt vào nhà, cả nhà thờ, như bụi lọt khe
cửa. Ông có biết là Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô vừa lên làm Giáo Hoàng đã phải lo
ngay việc cải tổ Tòa Thánh Vatican và cách riêng hệ thống “tài chánh” trong Tòa
Thánh Vatican để ngăn chặn nó, và ngài vẫn đang nỗ lực loại trừ “hội chứng thế
gian” trong Vatican đấy. Ông có biết tại sao không ? Tại vì Chúa Giê-su
đang sống, mộ của ngài bỏ trống và Ngài vẫn ở với chúng tôi mỗi ngày đấy. Nếu
ông còn trên dương gian thì ông cũng không cần “lo cháy nhà hàng xóm”.
Chủ
nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa hưởng thụ là thứ thuốc lú tinh vi nhất, gây nghiện
mau nhất và hiệu quả nhất. Nó làm cho người ta quên mình là ai, từ đâu đến và
đi đâu. Chúa Giê-su cũng đã gọi tên cúng cơm của nó là “chè chén say sưa, lo lắng sự đời”.
Các ông gọi là “hủ hoá” đấy.
Đừng
hoá đá như người chinh phụ, cũng đừng uống thuốc lú để không còn biết mình là
ai và đang chờ ai. Có bao nhiêu chuyện những con chó trung thành có thể làm thí
dụ : có con khi chủ đi vắng thì nó không ăn [tôi đã có một con như
thế] ; có con theo chủ vô bệnh viện, chủ chết rồi nó không chịu rời bệnh
viện ; có con bị bỏ lại ở phi trường, nó ở đó chờ chủ mỗi ngày, không chịu
đi đâu… mà cũng chẳng ai có thuốc lú để làm cho nó quên được chủ của nó !
Muốn chờ đợi thì “Hãy canh thức”. Chúa
nhặn kỹ là “mọi người” (Mc 13,37) chứ không
cho “cử đại diện” đâu. Cứ tin tưởng, vì thánh Phao-lô khẳng định là chúng ta
được trang bị đầy đủ để chờ đợi :
“Trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở
nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết
mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào
lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi
ngày Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta mặc khải vinh quang của Người. Chính Người
sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được
anh em trong ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. Thiên Chúa là Đấng
trung hành, Người đã kêu gọi đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta”.
Giê-ru-sa-lem,
ngày lễ thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, 3-12-2014
LM
Giu-se Nguyễn Công Đoan S.J.