DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO
CHÚA GIÊ-SU
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT
CN 33 TN B- Mt 10,26-33
1.LỜI CHÚA: Chúa phán:
“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận
người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt
thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời” (Mt 10,32-33).
2.CÂU CHUYỆN: CUỘC TỬ ĐẠO
CỦA THÁNH ANRÊ TRẦN AN DŨNG LẠC
TRẦN AN DŨNG LẠC sinh năm 1795, gia đình
ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh
sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu
được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là Anrê. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi
dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy Anrê Dũng được thụ
phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha
Anrê được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống
khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm
suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ
khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người
chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã
được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập
đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công
giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha Anrê Dũng đã phải trốn lánh
nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt
và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An
Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi.
Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên
góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó
cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và
cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu
hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định
bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính
Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã
suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn
nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem
nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong
tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ
đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ
đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn
tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839,
hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra
pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi
đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các
ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng
06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển
thánh.
3. SUY NIỆM:
1) SỐ LIỆU CÁC ANH HÙNG TỬ
ĐẠO VIỆT
2)LÝ DO CÁC NGÀI BỊ BÁCH
HẠI:
Các thánh Tử Đạo bị vua
quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những
kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã
dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước
qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì
danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ
ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân
chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo
khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông
bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười
điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người
tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải
tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn
sống cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do chính yếu khiến
vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín
hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người
theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa
sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp
nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài
chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
(Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp
các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật,
các thánh Tử Đạo Việt
3)SỐNG CHỨNG NHÂN NOI GƯƠNG
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO: Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử
thách là do các ngài biết “sống sự
sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ
ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước
quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết
đi cho bản thân”, và sống trong
ơn nghĩa của Đức Giê-su.
Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử
Đạo tiền nhân, nhưng chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Chúa ngay giữa đời
thương: Trước khi
hy sinh mạng sống vì Chúa, chúng ta phải biết sống công bình ngay chính. Trước
khi dũng cảm làm chứng cho Chúa, chúng ta phải là những người chồng người vợ chu
tòan trach nhiệm đối với gia đình, những người con có lòng hiếu thảo đối với các
bậc tiền nhân; Trước khi trở thành công dân của Nước Trời, chúng ta đã phải là
những công dân tốt, chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và ăn ở ngay chính gây
được thiện cảm với đồng bào.
4. THẢO LUẬN: 1)Tại sao đạo
Công giáo thường bị người đời thù ghét bách hại? 2)Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu
chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng
cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giê-su là vị Tử
Đạo tiên khởi. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con
vào trong thế gian. Xin cho chúng con luôn giữ được bản lãnh đức Tin của mình,
giữ được vị mặn của muối, tác động của men... để thánh hóa thế gian bằng một
tinh thần mới và một sức sống mới.
- Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy
các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế
gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian,
ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng:
“Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng
là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA. -Đ.
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com