N Ê N T H Á N H
____________________________________________
Lễ kính các thánh nam nữ
Khi
nói “Nên thánh” chúng ta thấy ngay ý nghĩa năng động của nó : con
người ta không phải thánh, nên phải làm cho nó trở nên thánh. Điều đó chứng tỏ
ra nên thánh là điều cần thiết và là điều có thể. Mọi người phải nên thánh theo lờiThiên Chúa phán với dân riêng
của Ngài :”Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì
Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các
dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26). Sách Khải huyền cũng thêm :”Ai
đã nên thánh, hãy gắng nên thánh hơn” (Kh 22,11).
I. MỌI NGƯỜI ĐƯỢC MỜI GỌI NÊN
THÁNH .
1.
Ơn gọi chung.
Trong
Giáo hội, mỗi người được Chúa gọi hoặc ở một bậc hoặc ở một địa vị nào đó...
nhưng có một ơn kêu gọi chung, cho tất cả mọi người, từ trên xuống dưới, từ Đức
Giáo hoàng cho đến người rốt cùng trong hàng giáo hữu, đó là ƠN GỌI NÊN
THÁNH. Chúa gọi tất cả mọi người
chúng ta nên thánh. Ngay từ đạo cũ, quen gọi là đạo ông Moisen Chúa đã truyền
cho họ phải nên thánh :”Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh”
(Lv 20,26). Thế rồi trong đạo mới, chúng ta thấy Chúa Giêsu căn dặn chúng ta
bằng những lời lẽ còn thống thiết hơn :”Các con hãy nên trọn lành như
Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Thánh Phaolô thu tóm lại tất cả trong câu
vắn tắt này :”Thánh ý Chúa là muốn
cho anh em nên thánh” (Ep 1,4). Ngài còn khuyên bảo thêm :”Anh em phải
sống xứng đáng là các vị thánh” (Ep 5,3).
2.
Giáo huấn của Giáo hội.
Trong
Hiến chế tín lý về Giáo hội, công đồng Vatican II dạy :
“Chúa Giêsu, thầy dạy và mẫu mực thần linh của mọi sự trọn
lành, đã giảng dạy
cho tất cả và cho mỗi một môn đệ, bất luận thuộc cảnh vực
nào, một đời sống thánh
mà chính Người vừa là Đấng ban phát, vừa là Đấng hoàn tất
:”Vậy các con hãy trở
nên trọn lành như Cha các con ở trên trời”(Mt 5,48)... Cho
nên, với ơn Chúa, họ
phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh
thiện mà họ đã lãnh nhận.
Họ được thánh Tông đồ khuyên “sống xứng đáng” như những vị thánh...(LG , 40).
3.
Ý nghĩa từ ngữ nên thánh.
Theo
ngôn ngữ semita danh từ qodès có nghĩa là vật thánh, sự thánh thiện.
Danh từ này xuất phát từ một ngữ căn có nghĩa là “cắt, tách rời” và
muốn nói lên ý tưởng tách rời khỏi cái
phàm tục. Vật thánh là vật người ta không dám chạm đến hoặc chỉ đến gần sau khi
hoàn tất một vài điều kiện vềø sự trong
sạch theo nghi thức. Dân tộc Israel
được tuyển chọn, nên được tách riêng khỏi chư dân để trở thành vật sở hữu riêng
của Thiên Chúa, dân tư tế, “dân thánh” .Với một tình yêu bao la, Thiên
Chúa đến sống và đi giữa dân Ngài (Xac 33,12-17)
Trong
Cựu ước, tiếng “thánh” khi dùng một mình, có một nghĩa đặc biệt;
nó được dành để chỉ những kẻ được tuyển chọn thời cánh chung . Còn trong Tân
ước, nó chỉ người Kitô hữu. Khởi thủy, nó được dùng để gọi những thành phần của
cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem, và đặc biệt, nhóm người của ngày Lễ Ngũ
tuần (Cvsd 9,13; 1Cr 16,1; Ep 3,5), sau được nới rộng để chỉ các anh em ở
Giuđêa (Cvsđ 9,31-41), rồi chỉ tất cả mọi Kitô hữu
Sự
thánh thiện của người Kitô hữu, bắt nguồn từ việc được tuyển chọn (Rm 1,7; 1Cr
1,2), đòi buộc họ phải đoạn tuyệt với tội lỗi, họ phải hành động theo sự thánh
thiện đến từ Thiên Chúa, chứ không theo sự khôn ngoan xác thịt (2Cr 1,12; x.
1Cr 6,9tt; Ẽp 4,3)
II. NÊN THÁNH LÀ CẦN THIẾT VÀ CÓ
THỂ.
1.
Nên thánh cần thiết.
a) Theo Cựu
ước.
Thiên
Chúa đã tuyển chọn dân Israel là dân riêng của Ngài nên Ngài buôc họ phải nên
thánh :”Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng thánh “ (Lv 20,26)
. Israel phải đáp lại sự tuyển chọn
của Thiên Chúa. Đấng muốn họ phải nên thánh, bằng cách tự thánh hoá mình.
Trước
tiên họ phải thanh tẩy mình, nghĩa là phải rửa sạch mình mọi tỳ ố không phù hợp
với sự thánh thiện của Thiên Chúa, trước khi dự những buổi thần hiến hay tham
gia vào việc phụng tự (Xac 19,10-15). Nhưng rút cục chỉ một mình Thiên Chúa mới
ban cho họ sự trong sạch, nhờ máu của hy lễ (Lv 17,11) hay bằng cách thanh tẩy
tâm hồn họ (Tv 51).
Các
ngôn sứ và sách đệ nhị luật đã không ngớt lặp đi lặp lại rằng các hy lễ đền tội
không đủ sức làm vừa lòng Thiên Chúa nhưng cần phải có sự công chính, vâng lời
và tình yêu (Is 1,4-20,
Đnl 6,4-9). Như vậy giới luật :”Hãy nên thánh vì Ta,
Giavê là Đấng thánh” (Lv 19,2; 20,6) không những muốn nói đến một sự trong sạch
phụng tự mà còn phải hiểu là một sự THÁNH THIỆN SỐNG chiếu theo nhiều huấn giới
về gia đình, xã hội và kinh tế, cũng như về nghi thức, được ghi lại trong các
bộ luật (td Lv 17-26).
b)
Theo Tân ước.
Đức Giêsu là Đấng thánh. Sự thánh thiện của Đức
Kitô liên kết mật thiết với tử hệ thần linh của Ngài và với sự hiện diện của
Thần khí trong Ngài : được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, Người là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”
(Lc 1,35). Lúc chịu phép rửa của Gioan “Con rất yêu dấu “ nhận sự xức dầu của
Chúa Thánh Thần (Cvsđ 10,38; Lc 3,32). Người xua đuổi thần ô uế, và chúng đã
xưng Người là “Đấng thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24; 3,11)... Sự thánh thiện của
Đức Giêsu đồng nhất với sự thánh thiện của Thiên Chúa, Cha chí thánh Người (Ga
17,11).
Ngày
nay những người đã được chịu phép rửa tội tức là các Kitô hữu được gọi là các
thánh (Rm 16,2; 2Cr 1,1; 13,12). Sự thánh thiện của người Kitô hữu bắt nguồn từ
việc được tuyển chọn một cách nhưng không của Chúa đòi buộc họ phải đoạn tuyệt với tội lỗi, sống trong sạch để đáp
lại sự thánh thiện của Thiên Chúa.
c) Theo đòi
hỏi tự nhiên.
Người ta
thường nói : “nhân vô thập toàn”, không ai là người không có lỗi hoặc
nhiều hoặc
ít, hoặc lớn hoặc nhỏ.
Thánh
Gioan tông đồ nói :”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật
không có ở trong họ” (x.1Ga 1,10)
Thánh
Phaolô tông đồ cũng tự thú :”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của
tôi thì vô kể” (Ep 4,11)
Ông
Elbert Hubbard nói :”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong 5 phút mỗi ngày.
Bậc thánh là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt
quá thời hạn ấy”.
Truyện : học làm người.
Một
gãcôn đồ đến chất vấn một nhà tu hành :
-
Tôi xin ông giải thích điều này : tại sao trong cuộc sống, không ai dạy thú vật
làm thú vật, chẳng hạn như chẳng ai dạy chó làm chó, ngựa làm ngựa, heo làm
heo... mà ông lại cực nhọc đứng ra để dạy người ta làm người ? Tại sao thú vật không ai dạy mà chúng biết
làm thú vật, còn người tại sao nếu không dạy thì không biết làm người ?
Nhà
tu hành trả lời :
-
Con người có hai phần hợp lại : một là thú vật, hai là thiên thần. Nếu không ai
nhắc nhở thì nhiều kẻ quên bản tính của mình, có kẻ thích làm thú vật, mà cũng
có người ưa thích làm thánh.
Câu
trả lời của nhà tu hành phù hợp với lời nói của nhà đại tư tưởng Blaise
Pascal:”Con người không phải là một vị thiên thần, cũng không phải là
một con vật, và kẻ nào muốn làm thiên thần, lại làm con vật”
(L’homme n’est ni ange, ni bête, et qui veut faire l’ange fait la bête). Câu
này có ý nói : con người đâu phải hoàn toàn là bậc thánh, cũng đâu phải hoàn
toàn là con vật. mà vừa là thánh, vừa là vật. Cho nên đề cao cái ông thánh của
mình mà không nghĩ đến hoặc phủ nhận sự hiện diện của con thú trong lòng mình,
không khéo kẻ ấy lại bị sa vào cảnh chỉ trở thành một con thú đáng thương hại.
Phải thật biết mình, biết cái sở trường sở đoản của lòng mình thì mới khỏi sa
vào chỗ lầm lạc vì đã quá khinh thường con thú trong lòng mình...
(Báo
Trách Nhiệm, số 14, năm I, tr 14)
2.
Nên thánh là điều có thể.
Việc
Chúa đã mời gọi ta nên thánh chứng tỏ việc nên thánh là điều có thể. Trong phạm vi triết học, chúng ta đã học
nguyên tắc bất hủ này : Nemo ad impossibile tenetur : không ai buộc làm
điều không có thể. Khấn với Chúa một
điều không có thể, lời khấn không thành.
Một cuộc ưng thuận hôn nhân đòi hỏi một điều kiện không thể thực hiện
được, không thành hôn nhân.
Theo
nguyên tắc này, nếu ta không nên thánh được, thời hoặc là Chúa không buộc (điều
đó không đúng), hoặc là Chúa buộc vào cổ ta một ách không thể vác đuợc, điều đó
trái với lòng lân mẫn và nhân hậu của Chúa, của Đấng đã phán :”Ách của Ta
thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Điều đó còn trái
luân lý, và phá hủy trách nhiệm, vì chỉ có trách nhiệm, khi nào điều tôi có thể
làm tôi lại không làm.
(Trần
văn Hiến Minh, Sứ mệnh Linh mục, 1958, tr 49-50)
Truyện : rất dễ nên
thánh
Ngày
kia, cha Dan nói truyện với một thợ nhà in, Ngài nói :
-
Con có bao giờ nghĩ rằng mình phải nên thánh không ?
- Thưa cha, con không bao giờ dám nghĩ như
vậy vì nên thánh khó lắm. Cha xem : từ sáng
đến tối, con phải sắp chữ in,
con không có thời giờ để nghĩ đến việc nên thánh.
-
Con đừng lầm, nên thánh có gì khó đâu. Không cần phải làm
gì lạ để nên thánh. Khi
con sắp chữ, con sắp chữ vì
Chúa, vì lòng kính mến Chúa là đủ.
-
Dạ, để con thử xem.
Vài ngày
sau, người thợ đến tìm cha Dan :
-
Lạy cha, bây giờ con mới biết : nên thánh không khó như
con đã tưởng.
(Nguyễn
hài Đồng, Từ điển câu truyện, 1969, tr
82-83)
Nếu
bạn sống ở Galilée, đời Hêrođê hay Augustô, chắc một buổi chiều nào đó, bạn đã
gặp người thợ mộc khoác tấm áo mầu cam, đang trở về nhà. Đó là thánh Giuse
Nagiaret.
Nếu
bạn sống gần biển hồ Tibériade, bạn đã thấy những bác ngư phủ vá lưới, bàn tán
về mẻ lưới hôm truớc, giữa mùa cá : đó là Phêrô và Anrê.
Nếu
bạn sống ở Corinthe dưới đời trấn thủ Gallion, hẳn bạn đã gặp một người Do
thái, mảnh khảnh làm nghề đan bạt : đó là Phaolô thành Tarse.
Hẳn
bạn đã thấy ở Roma, đời Dioclétien hai y sĩ mới ở Ả rập tới, đang đi tìm khách
hàng : đó là Cosme và Damien.
Nếu
bạn đã sống ở miền bắc của nước Ý vào hồi thế kỷ 16, hẳn bạn đã gặp thấy một
thanh niên con nhà quyền qúi rất đơn giản và chăm chỉ, đó là Louis Gonzague.
Nếu
những lúc đó người ta bảo bạn : Họ sẽ là Thánh đấy... liệu mà thờ... bạn có tin
không ?
Như
thế mà là thánh được : một người đàn ông, một người nhà quê, một thư sinh,
nhưng đã được thánh sủng cải hoá. Chúng ta đều có thể nên thánh cả, và đừng nên quên rằng chúng ta PHẢI nên
thánh nữa đó ! (J.E.C).
(Lm
Ducasse, cuộc đời chiến đấu, 1959, tr 290-291)
Vườn
hoa của Giáo hội phô muôn sắc mầu. Mỗi vị thánh là một bông hoa với một mầu sắc
đặc biệt, không thiếu một hương vị hay một mầu sắc nào. Điều đó chứng tỏ rằng :
Chúa đã kêu gọi mọi người nên thánh và đã có rất nhiều người nghe theo tiếng
Chúa.
Thánh
nữ Têrêsa Hài đồng cũng có cái nhìn như thế khithánh nữ viết :”Chúa mở ra trước
mắt con quyển sách thiên nhiên là phong cảnh trời đất. Ngắm cảnh thiên nhiên,
con nhận thấy rằng tất cả những hoa Chúa dựng nên đều xinh đẹp hết, mầu hồng hoa
Mân côi và sắc trắng phau phau hoa huệ không át được mùi thơm hoa má tím, cũng
không làm mất vẻ đơn sơ xinh tươi hoa cúc tây. Phải rồi, nếu tất cả những hoa
ti tí ấy lại muốn làm hoa hồng cả, thì cảnh thiên nhiên sẽ mất vẻ đẹp lý thú
mùa xuân, các cánh đồng sẽ chẳng còn muôn hoa rực rỡ nở.
Ấy
cảnh trời thiêng liêng của giới linh hồn cũng thế.
Trong
vườn sống này, Chúa dựng nên những vị đại thánh để sánh với hoa huệ, hoa hồng.
Chúa lại dựng nên những thánh nhỏ, giống như hoa cúc đơn, hoa má tía để Chúa vui
lòng lúc nhìn xuống chân thấy cảnh trời đất tưng bừng đẹp đẽ...
Hoa
nào càng vui theo thánh ý Chúa, càng nên trọn lành tốt đẹp.
(Thánh nữ Têrêsa – Kim Thiếu, Một tâm hồn,
1960, tr 12)
Chúng
ta thấy trong vườn hoa của Giáo hội có đủ mọi loại thánh nhân. Tuy mỗi người
nên thánh một cách, nhưng điều chắc chắn là tất cả đã được Chúa mời gọi nên
thánh ngay từ lúc mới mở mắt chào đời. Chúa đã soi sáng cho Giáo hội đưa lên
bàn thờ đủ mọi hạng thánh. Thánh Talbot là một phu khuân vác, thánh Isodore là
một nhà nông, thánh Phaolô ở Verdum làm bánh mì, thánh Crépin thợ đóng giầy,
thánh Alexandre ở Comane làm than, thánh Euphrosynos làm bếp, thánh Antonin làm
thợ nề... Và còn biết bao nhiêu thánh khác trong hàng giáo phẩm,giáo sĩ, tu sĩ
và trong các bậc khác.
(Nguyễn
hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969, tr 83)
IV. ĐIỀU KIỆN NÊN THÁNH.
1. Phải
biết ước muốn.
Nên
thánh tuy là một việc rất dễ nhưng cũng rất khó, vì nó đòi chúng ta phải cố
gắng luôn
luôn, giống như con thuyền lội
ngược dòng nước, ngơi tay chèo thì con thuyền sẽ lui. Nên thánh là một cuộc chiến đấu trường kỳ với chính con người của
mình, một sự ước muốn mãnh liệt, một ý chí cao . Tục ngữ Tây phương có câu :”vouloir c’est pouvoir” (muốn
là được) , nên chúng ta cũng có thể nói : muốn nên thánh thì có thể nên thánh
được.
Bạn
nói bạn muốn, muốn chứ không phải ước, muốn nghĩa là tiến tới hành động, nhất
định thành công mới thôi. Thánh Francois de Sales nghe tin phong thánh Francois
Xavier liền nói :
-
Đó là thánh Francois thứ ba, tôi sẽ là Francois thứ bốn.
Qủa
thực, bây giờ trong hạnh hiển thánh công giáo, ngài là thánh Francois thứ
bốn. Đấy bạn thấy hiệu lực phi thường
của hai tiếng “TÔI MUỐN” chưa ?
Bạn quên
sao cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ để tiêu diệt bầy ngoại xâm Tôn sĩ Nghị. Thấy
núi Alpes đầy tuyết lạnh thấu xương, ai không bảo rằng qua không nổi. Nhưng
Annibal đã nói :”Tôi sẽ qua núi Alpes” và ông
đã thành công. Vậy từ đây, trong
bất cứ việc gì khi suy nghĩ kỹ rồi bạn sẽ nói “Tôi muốn, tôi muốn thành công”.
(Hoàng xuân Việt, Rèn nhân cách,
1971, tr 116)
2. Phải
biết mình.
Muốn nên
thánh phải thắng chính con người mình, phải
làm chủ nó, bắt nó phải theo một
kỷ luật và hướng nó vào một mục
đích cao đẹp. Muốn thắng được mình, cần phải biết mình trước đã vì “vô tri bất
mộ” mà.
Trong
binh pháp, Tôn Tử đã đưa ra một nguyên tắc căn bản :”Tri kỷ tri bỷ bách
chiến bách thắng” : biết mình biết người thì trăm trận trăm
thắng. Biết mình để mình không kiêu,
không khinh thường, biết người để đo sức mình.
Socrate,
một hiền triết Hy lạp, đã mở đầu triết
thuyết của mình bằng câu châm ngôn :”Connais-toi, toi même” : anh hãy tự
biết mình. Câu châm ngôn này của Socrate đã đi ngược lại với chủ trương của
phái Nguỵ biện, họ cho rằng họ biết tất cả mọi cái trong vũ trụ, họ có thể giải
đáp được mọi câu hỏi, mọi thắc mắc. Nhưng thực sự, họ chẳng biết gì, họ chỉ
dùng ba thấc lưỡi để phỉnh gạt thiên
hạ. Sau này chính Pascal, một nhà đại tư tưởng, cũng phải nói rằng :”Tôi chỉ
biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”(Je ne sais q’une chose, c’est
que je ne sais rien).
3. Phải
thắng chính mình.
Muốn nên
thánh, phải làm chủ được mình, nghĩa là phải thắng được chính mình. Thắng
được mình là một chuyện khó.
Chính hoàng đế Napoléon đã có kinh nghiệm này khi ông nói :”Thắng được cả Âu
châu còn dễ hơn thắng được chính bản
thân mình”. Nên thánh thì phải biết
những nết xấu để sửa, biết những cái hay để mà tập luyện hay dinh dưỡng. T
Thánh
Phaolô đã thúc giục tín hữu Êphêsô hãy làm một cuộc cách mạng bản thân :
“Hãy
lột bỏ con người cũ
Mặc
lấy con người mới.
canh
tân đến tận tâm linh của anh em”.
(Eph
4,22,24)
Theo
ý thánh Phaolô, chúng ta cần gột bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới thánh thiện. Vậy phải lột bỏ con
người cũ là lột bỏ cái gì ? Đây là lột bỏ các tính hư nết xấu đang chi phối con
người ta, làm cản bước đường tiến của ta, bắt ta làm nô lệ cho chúng.
Truyện : thầy dòng dạy
mãnh thú.
Một
buổi chiều, Bề trên nhà dòng kia hỏi một tu sĩ :
-
Hôm nay con đã làm gỉ ?
Cũng như
những ngày khác, tu sĩ trả lởi :
- Thưa
cha, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ
của
Chúa. Ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm
hãm hai con diều hâu để rèn ý chí, thắng một con sấu, trị được con gấu và săn
sóc cho một bệnh nhân.
Bề
trên cười hỏi lại :
-
Con nói gì thế ? Những việc như thế làm gì có trong nhà
Dòng ?
-
Thưa cha, thật đúng như thế. Hai con chim ưng tức là hai mắt của con, mà con phải giữ
gìn luôn để khỏi nhìn những vật
cấm. Hai con nai tức là hai chân mà con
phải trông coi từ bước đi để nó khỏi đi vào con đường xấu. Hai con diều hâu tức
là hai bàn tay, con phải luôn luôn bắt nó làm điều phải. Con sấu tức là cái
lưỡi, con phải kìm hãm hằng ngày để khỏi nói những lời vô ích và thô bỉ. Con gấu tức là trái tim con, con phải trừng
trị, để khỏi ích kỷ và khoe khoang. Còn bệnh nhân là chính thân thể con, con
phải canh phòng ráo riết để cho nhục dục khỏi xâm nhập vào.
(GM
Tihamer-Toth, Chí khí người thanh niên, 1957, tr 53)
Tu
sĩ này có lý lắm. Sự tranh đấu với bản năng lộn xộn cũng giống như công việc
người dạy mãnh thú, và tất cả những ai muốn nên thánh, đều phải hằng ngày luyện
tập như thế.
Những
người muốn nên thánh đừng bao giờ tha thứ cho tật xấu của mình mà nói rằng :
Không phải làm gì cả, tôi được sinh ra như thế, đó là sự tự nhiên của tôi.
Nhưng muốn cố gắng làm cho linh hồn trong sạch trả lời lại ngay rằng : Nếu linh
hồn tôi chứa đầy mãnh thú tôi phải trừng trị nó. Tôi sẽ không thể để như tôi đã
sinh ra, tôi phải trở nên con người mà tôi muốn.
Con
người chúng ta ai cũng có cái tốt và cái xấu. Tốt xấu nhiều khi lộ ra trên nét
mặt, trong cử chỉ, hay trong chữ viết mà chúng ta không thể che giấu được. Phải
công nhận rằng ai cũng có những nết xấu, đấy là điều tự nhiên, chỉ có một điều
là phải nỗ lực sửa trị nó thôi.
Truyện : xem bút tích
của các thanh.
Linh
mục Girolamo Moretti thuộc dòng Anh em hèn mọn, là một nhà tu hành có biệt tài
và uy tín lớn về khoa chiết tự (graphologie)ï, nhất là tại Ý là quê hương của
ngài. Ngài sinh năm 1905 và đến nay,
ngài đã phân tích trên 300.000 nét bút, được mọi người ca tụng là rất chính
xác. Ngài đã đề xướng ra một phương pháp rất vững chắc để đọc ra tính tình qua
các tài liệu bút tích.
Nhưng
điểm đáng chú ý nhất, là ngài đã xem cả bút tích của các thánh nhân. Một hôm,
giáo sư Clementi, sử gia danh tiếng tại Vatican, có nhờ cha Moretti nghiên cứu nét bút trên một bức thư do thánh
Giuseppe de Cupertino (1603-1663) viết.
Vị thánh này vừa được tôn phong làm bổn mạng giới phi công. Vừa xem nét bút của vị thánh, cha Moretti
rất đỗi ngạc nhiên, vì thấy nét bút nói lên tính tình nhu nhược và xu hướng trả
thù... Nhưng giáo sư Clementi vội vàng trấn an và giải thích : những nhận xét
của cha rất đúng, chúng tôi biết về sự cố gắng của thánh nhân để chống lại hai khuynh
hướng đó.
Thấy
công việc hiệu nghiệm, cha Moretti nảy ra mong ước nghiên cứu bút tích các
thánh. Giáo quyền giao cho cha một số văn tự do tay 58 thánh nhân thảo ra,
nhưng không lộ tên các vị này để dư luận khỏi nghĩ cha Moretti bị ảnh hưởng của
tiểu sử các đấng. Những phát giác qua
các kiểu chữ làm cho vị tu hành Phan sinh hoảng sợ đến nỗi ba năm liền cha
không dám động đến khoa chiết tự. Song
vì giáo phẩm yêu cầu, nên cha mới lại tiếp tục tra tay vào việc và mãi tới năm
1956, nghĩa là sau 40 năm khảo tầm, công chúng mới được biết kết quả, qua cuốn sách của cha soạn : I Santi dalla
scrittura.
KHÔNG
AI BẨM SINH MÀ ĐÃ LÀ THÁNH.
Trong
số 58 vị thánh mà cha Moretti nghiên cứu chữ viết, chỉ có 3 người mà bản tính
có thể coi là thanh bạch, trong trắng : ấy là thánh Maguerite-Marie Alacoque
(1647-1690), thánh Jean Berchmans (1599-1621) và thánh Pie X (1835-1914). Còn
lại 55 vị thì đều có tính mê nết xấu gớm ghiếc, dễ sợ. Nếu các vị ấy đã NÊN
THÁNH là vì các vị ấy đã CHIẾN ĐẤU.
Với
kinh nghiệm đều đặn trong khoa chiết tự cho phép cha Moretti quả quyết rằng
không ai bẩm sinh mà đã là thánh. Thánh nhân cũng như ai, đều mang vết tích di
truyền trong huyết quản, hàm chứa xu hướng ngang trái trong tính nết, lại cũng
có tình dục nơi lòng không nhiều thì ít. Xét theo phương diện tự nhiên, nhìn
theo khía cạnh loài người, các vị đó với bấy nhiêu yếu tố vừa kể trên, thật ra
cũng rất có thể thành kẻ tiểu nhân man trá, đê hèn; hoặc nếu có vóc trượng phu
thì cũng bị dầy vò bởi tham vọng, bởi kiểu cách hay là rơi vào những vui thú
cuồng loạn của nhục dục. Tuy nhiên có điều này làm thánh nhân khác người thường
: đó là trước những khuynh hướng khả nghi dễ sợ đó, các ngài đã phản ứng rất
mạnh, nhất nhất chẳng nhượng bộ. Cùng
với thái độ bất khuất, thánh nhân còn xử dụng khí giới vô cùng lợi hại, là sự
CẦU NGUYỆN liên tiếp, thiết tha. “Điều gì các con xin cùng Cha thì Ngài sẽ ban
cho nhân danh Thầy” (Ga 16,23) như Chúa Giêsu đã hứa cùng môn đệ.
KHUYNH
HƯỚNG NGANG TRÁI NƠI THÁNH NHÂN.
Cha
Moretti còn giới thiệu trường hợp của 30 vị thánh : 5 thuộc phái nữ, 25 thuộc
phái nam. Các vị đó chia thành phần như
sau : 2 giáo hoàng, 3 giám mục, 11 sáng lập dòng tu, 7 tiến sĩ Giáo hội, 1 linh
lục triều, 9 tu sĩ.
Sau
đây là trường hợp mấy vị :
1.
THÁNH PHANXICÔ ASSISI (1181-1226) tổ
phụ dòng Anh em Hèn mọn thì có ước mong chân thành phục vụ tha nhân và ngài quả
có lòng quảng đại rất cao, nhưng cái tinh thần vị tha đó lại bị giằng co bởi
tham vọng ép người khác phải theo mình và được dư luận tán thưởng. Đó là tính
hướng hành động theo tư lợi, thiếu khiêm nhường và ít ưa thích chính quyền, vì
chỉ nhằm sao thuyết phục kẻ khác làm như ý riêng mình đã xếp đặt. Thực ra thánh Phanxicô đã lật hẳn thế cờ để
trở nên một người trung thành phục vụ Giáo hội theo tinh thần Tin Mừng, nghĩa là khiêm tốn, xả kỷ, bác ái.
2.
THÁNH INHAXIÔ LOYOLA (1491-1556) sáng lập dòng Tên, một dòng trí thức trên thế
giới, có ai ngờ lại có khuynh hướng độc tài, không chịu chấp nhận kẻ khác không
đồng ý kiến với mình, dễ hờn và tức mình, muốn trả đũa ngay tức thì nếu có ai
lên tiếng phê bình việc mình làm, lời mình nói. Nhưng thánh nhân đã biết xoay xở để không cho khuynh hướng đó trở
nên thực tại nhờ một kỷ luật đanh thép giúp ngài thắng nổi mình và huy động mọi
khả năng vào công trình phục vụ danh Chúa.
3.
THÁNH ANPHONGSÔ LIGORI (11695-1787) sáng lập dòng Chúa Cứu thế. Xu hướng của vị
này là xu hướng kiêu ngạo, hiếu danh, ưa “bầy tỏ sự sáng mình ra”. nếu đối
phưong thất bại thì lấy làm vui, việc riêng của mình thì chăm lo kỹ lưỡng, tính
tình không quảng đại lắm nhưng rất khéo vận động để đạt tới mục đích theo
đuổi...
4.
THÁNH VINH SƠN PHAOLÔ (1581-1660) sáng lập tu hội Nữ tử Bác ái và hội Linh
mụctruyền giáo, chuyên lo các việc từ thiện. Ngài là con người láu cá, tinh
lanh, mưu mô và quanh co, nhưng ngài đã vật lộn với những nết xấu ấy và đã
thắùng.
5.
THÁNH GIOAN BOSCÔ (1715-1888) lập dòng Salésiens và hội Con Đức Mẹ Maria trợ
tá. Xu hướng bẩm sinh của ngài là thiếu thành thật, sự thiếu thành thật đó ẩn
nấp khéo léo đến nỗi có thể gây hại cho cả một thế hệ. Ngài còn có khuynh hướng
chuẩn bị bằng đủ mọi cách để gài họ vào bẫy cho vỡ mặt...
6.
THÁNH TÊRÊSA AVILA (1515-1582) Giáo hội vừa phong tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh
là vị nữ tu cải tổ dòng Cát Minh. Thánh
nữ thông minh siêu thăng, rất phong phú, hồn nhiên và độc đáo, khi hành động
thì đặt rõ mục đích rồi quyết định đạt cho tới được. Nhưng mặt khác, khuynh hướng đa tình nơi bà rất mạnh và nếu không
nhờ vào ân sủng để siêu thoát, một người tính tình như vậy khó mà không rơi vào
chế độ “đa phu”.
7.
THÁNH PHANXICÔ XAVIE (1506-1552) dòng Tên, nhà truyền giáo trứ danh đã rao
giảng Tin Mừng bên Ấn độ và Nhật. Thánh
nhân có một bẩm tính xem ra hơi kỳ dị, có thể đưa con người bất chấp hợp lệ và
thói tục của xã hội, để sống xa tha nhân, theo một kiểu sống riêng tư. Mặt
khác, tuy ưa cuộc đời cô đơn, con người đó cũng có thể lưu ý đến “phái bên kia”
hơi nhiều...
CHÚNG
TA RẤT GIỐNG CÁC THÁNH.
Khoa
chiết tự (graphologie) chỉ nói đến những khuynh hướng tự nhiên nhận thấy được
nơi thánh nhân. Tiểu sử và bút tích của các vị này để lại có thể bổ túc những
gì khoa chiết tự tìm không ra, và giúp ta đoán được phần nào công trình huyền
nhiệm, bí mật của ân sủng thần linh.
Công trình này cải tạo nhưng không hủy diệt nhân tính. Nhờ đó, những gì
hay được nên hoàn hảo, những gì dở được thanh luyện để qui về Chúa. Khi ấy
khuynh hướng đa tình chẳng hạn có thể giúp con người vươn tới giao nhiệm, cao
vọng sẽ hướng về tinh thần, trong khi tính phung phí lại biến thành lòng quảng
đại hy sinh. Ý chí con người trở nên
thuộc hạ trung thành của hiền hòa, khó nghèo.
Như vậy đã chẳng mất mát gì, mà
còn là được cả. Đây mới là tự do, dũng cường, độc đáo.
Con
người tự nhiên ai cũng có những khuynh hướng xấu, phải chiến đấu để thắng các
nết xâu, bắt nó làm nô lệ cho mình, qui hướng nó về việc phụng sự Chúa, như các
thánh đã làm. Nghe ra thì việc nên thánh là một công trình vĩ đại, khó khăn
lắm, nhưng chúng ta thử phân tích một tiến trình nên thánh xem nó có khó khăn
lắm không :
Vị
thánh
Thánh
thiện
Nhân
đức
Tập
quán tốt
Thói quen
tốt
Lặp
đi lặp lại thói quen tốt.
Trở
thành vị thánh.
Như
vậy, vị thánh là gì ? Vị thánh chỉ là người chịu khó lặp đi lặp lại những việc
lành, những thói quen tốt., như lặp đi lặp lại những hành vi khiêm nhường, hiền
hoà, quảng đại hay hy sinh. Hoặc lặp đi lặp lại hành vi nhằm chống lại tính
khoe khoang, ích kỷ, trả thù... Các thánh không làm gì khác, mà chỉ làm những
việc tương tự như chúng ta làm. Nhưng với ơn Chúa và với sự cố gắng của mình,
các ngài đã thành công.
Truyện : anh đã nên
thánh chưa ?
Ngày
kia, một giáo hữu đi nghe giảng về, gặp người vô tín hỏi :
-
Anh đi đâu về ?
-
Tôi đi nghe giảng về.
-
Bữa nay giảng gì ?
-
Giảng về sự nên thánh.
-
Anh đã nên thánh chưa ?
-
Coi cái mặt tôi đây thì đủ biết mà – Coi thử mới biết chứ
!
Nói rồi,
người vô tín bèn tát cho một cái thật mạnh. Thế là người giáo dân quạu cọ, chửi
mắng om sòm. Người vô tín nói :
-Ủa, tự
xưng là mặt nên thánh sao còn chửi mắng tôi ?
-
Tôi xưng cái mặt nên thánh, chớ có xưng cái miệng
đâu. Nên thánh ở trong óc, trong bụng,
chớ ở ngoài mặt đâu ? Sao anh thử tôi ?
-
Ủa, bây giờ cái
“thánh” nó chạy vô óc vô bụng rồi sao. Thôi, để tôi cú óc, thoi bụng, coi nó có
thánh không nhé !
Người
giáo dân lúc ấy mới nói :
-
Mày đánh tao lần nữa, thì tao cho một thoi, mày chết đó.
-
Ủa, nói nên thánh ơ óc, ở bụng, sao còn đòi đánh tôi ?
-
Cái tay, cái chân chưa nên thánh, nên tao đánh.
-
Ôi, tưởng anh nên thánh trọn vẹn, chứ anh mới nên thánh có
nửa người. Xin anh hãy nên thánh trọn vẹn, mới phải là người có đạo, bằng không
thì tính anh còn xấu hơn tôi nữa. Thế mà xưng là đạo đức gì
(Mục sư Lê văn Thái, Những tia sáng 1,
1965, tr 50)
V. NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO ?
Nên
thánh là một điều cần thiết và có thể, bằng chứng là đã có nhiều người nên
thánh, có đủ mọi loại thánh, mọi giai cấp. Nên thánh là thắng được chính mình, chủ trị được các tính mê nết
xấu, bắt nó phục vụ Thiên Chúa. Nên thánh là một việc có thể, nhưng cách nên
thánh thì không ai giống ai, mỗi người có một đuờng lối riêng, tùy theo hoàn
cảnh. Nhưng dù sao, đường lối nên thánh của ta phải là đường lối thông thường
của nhiều người, không cầu kỳ khó khăn.
1. Những
cách đặc biệt.
Ta thấy,
có một số người nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt mà có lẽ chúng ta
không thể học đòi được, hơn nữa,
cũng không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta.
+ Có
người tự giam mình trong một nơi kín, có khi mấy chục năm liền, chỉ sống nhờ
lòng
hảo tâm của dân chúng để tạm đủ
lương thực mà nhà tu hành lãnh nhận qua một lỗ hổng : đó là trường hợp Gioan
Lycopolis và Alexandria.
+
Kẻ khác ẩn tu trong ngôi mả hoang đào trên sườn núi cạnh con sông hay mạch suối
: nhưng tuy sống đặc biệt như vậy, tu sĩ cũng không tuyệt đối tránh mọi tiếp
xúc với tha nhân.
+
Đây là một kiểu độc đáo : ẩn sĩ Simong một thời sống dưới đáy giếng đạt tới mức
khiêm hạ uyên thâm đã leo lên cột đá cao dựng lều trên đỉnh chót vót để chiêm
niệm huyền nhiệm thần linh, lại cứ đúng giờ thì thuyết giáo cho khách thập
phương tuôn đến đón nghe. Như vậy tại Antioche bên Syria, suốt 37 năm trường,
từ năm 423 đến 459, thánh nhân vì vậy được gọi là Simong Cột.
(Nguyễn
huy Lịch, Nhà Chúa, số 12, th 12/69, tr 24)
Ngoài
ra, một số thánh nhân có những lối hãm mình đặc biệt mà chắc không ai trong
chúng ta dám bắt chước :
-
Thứ người gọi là Stylites, sống ngày đêm trên cái
cột cao, bất chấp mưa nắng sương gió.
-
Sideraphares : mang luôn trên mình suốt
trong cả đời cái xiềng nặng làm cho khó đứng
thẳng.
-
Stationnaires : chuyên môn đứng yên
một chỗ, không xê dịch đổi nơi.
-
Brouteurs : chỉ ăn hoa quả, không hề động
tới thịt, cá, trứng.
-
Sabinos : chuyên ăn thịt ươn , cá thối.
(Trần
công Hoán, Tìm hiểu ít nhân đức, 1966, 174-175)
Không
ai sinh ra đã là thánh. Sự nên thánh
đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực sửa các tính mê nết xấu, bắt nó tuân phục linh
hồn, phụng sự Thiên Chúa. Nên thánh là kết quả của một nỗ lực không ngừng của
cuộc sống chứ không phải là việc tự nhiên mà có. Chúng ta không nên thánh theo
kiểu sinh ra mà đã làm thánh như được ghi trong nhiều tiểu sử các thánh.
Truyện : sinh ra đã là
thánh.
Hồi
còn bé tôi được đọc hạnh các thánh qua bản dịch việt ngữ ấn hành vào khoảng năm
1928 hay 1930 tại “nhà in Nazareth – Hồng kông” hay tại “nhà in Trung hoà – Hà
nội” – tôi không nhớ rõ – và được nghe kể lại cuộc đời các thánh hoặc các vị ẩn
tu sống nơi sa mạc hẻo lánh hoang vu, và có những hành động phi thường, kỳ diệu
: có nhà tu hành phải qua sông Nil – một con sông lớn ở nước Ê-díp-tô – thì đã
leo thẳng lên lưng con cá sấu nằm vùng rất lợi hại, sau khi đọc lời nguyện xin
Chúa che chở, rồi điều khiển ác vật này như một chiếc “ca-nô” nhanh nhẹn.
Vị
ẩn sĩ khác hay bị kẻ trộm dòm ngó túp lều ông ở, nghĩ luôn được giải pháp là
giao nhà cho hai con rắn canh gác mỗi khi mình đi vắng, gian phi mon men trở
lại thấy rắn giữ nhà thì thất kinh đến nỗi... trở lại đạo.
Lại
còn chuyện con rắn khổng lồ nuốt ực nổi cả con bò mộng, dùng sức hút kéo về nó
cả từng đàn chiên với kẻ chăn dắt, nhưng – may thay – lại bị nhà tu hành kia ra
lệnh bò lên giàn lửa đang ngun ngút cháy để... tự thiêu.
Hoặc
có thánh mới có sáu tháng mà cứ ngày thứ sáu thì không bú để hiệp thông với sự
thương khó của Chúa Giêsu. Lại có vị khác mới một tuổi mà trong mùa chay không
chịu nằm trong lòng mẹ hay nằm trong giường ấm mà cứ choài xuống đất nằm để hãm
mình.
2.
Cách thông thường.
a)
Nên thánh tại gia.
Mỗi
người một bổn phận, nếu chu toàn bổn phận một cách đầy đủ cùng với lòng mến
Chúa nồng nàn thì đủ nên thánh rồi.
Thuyết chính danh của Khổng Tử cũng rất phù hợp với việc
nên thánh của ta., đó là, quân, thần, phụ, tử : ai nấy hãy sống theo bậc của
mình; vua sống cho ra vua, quan ra quan, cha sống xứng đáng bậc làm cha, con
sống xứng phận con. Thuyết chính danh cũng cần kèm theo với chương trình giáo
dục theo từng bậc : tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nhưng căn bản
nhất là tu thân. Tu thân là sửa mình cho nên tốt, mà tu thân cần nhất phải được
thực hiện ngay từ nhà mình vì nó khó khăn hơn:
Thứ
nhất là tu tại gia,
Thứ
nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
(ca
dao)
Truyện : làm thánh tại
gia.
Vào
thế kỷ thứ 5, tại nước Syria, có một vị ẩn sĩ tên là Simon rất nổi tiếng về sự
thánh thiện và khổ hạnh. Simon đã làm một căn nhà nhỏ ở trên một cây cột và đã
sống trên căn nhà đó suốt 35 năm. Sau
khi Simon chết, để nêu gương về sự thánh thiện và khổ hạnh của Simon, Giáo hội
đã phong thánh cho Simon và người ta thường gọi Ngài với biệt hiệu là thánh
Simon Cột.
Một
em nhỏ kia, sau khi đọc truyện thánh Simon Cột cũng đã muốn bắt chước thánh
nhân. Thế là em đã chồng những chiếc ghế trong nhà lên một chiếc bàn ở giữa
nhà. Đang lúc em tính leo lên những chiếc ghế kia, thì mẹ em trông thấy. Bà la
con và cấm không cho con được leo lên, rồi bà nói tiếp :”Con ơi, làm thánh ở
trong nhà khó lắm con à !
Đây
là một lời nói đùa của người mẹ đối với đứa con nhưng lại là một lời thật có ý
nghĩa.
“Làm
thánh ở trong nhà khó lắm”.
Tại
sao ?
Có
những người đi ra khỏi nhà, ai cũng phải cảm phục về cách sống, về lối cư xử,
về lời ăn tiếng nói của những người ấy. Thế nhưng khi về đến nhà thì những
người trong nhà không sao chịu nổi lối sống của những người đó. Bởi ở trong gia
đình mọi chân tướng thường được để lộ ra hết.
Nên
thánh ở trong gia đình, đó là một điều khó. Nhưng đó là điều có thể và lại còn
là bắt buộc. Chúng ta có thể và còn phải trở thành một vị thánh, và trước hết
là thánh nhân trong gia đình. (Báo
Đồng hành, số 10, tr 67-68)
b)
Đường thơ ấu thiêng liêng.
Nên
thánh không cần phải làm những việc đại sự, phi thường hay kỳ diệu mà chỉ làm
những việc nhỏ của bổn phận một cách đầy đủ với lòng mến Chúa nồng nàn, nghĩa
là làm việc nhỏ với một lòng mến lớn lao (communia non communiter). Cuộc đời
của ta đuợc ví như một vở trường kịch, mỗi người đóng một vai, mà ai đóng vai
nào cho đúng, cho tốt thì người ấy thành công. Còn việc đóng vai nào thì không
can hệ.
Thánh
nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã tìm ra được một đường lối nên thánh dễ dàng mà
thánh nữ giới thiệu cho ta trong
“Truyện một tâm hồn”, đó là “Đường thơ ấu thiêng liêng”. Khi Mẹ Bề trên
hỏi thánh nữ “đường thơ ấu thiêng liêng” là thế nào, thánh nữ trả lời :
Thưa mẹ, chính là đạo Thần đồng, chính là đàng hoàn toàn
cậy trông Chúa và phó
thác mặc thánh ý Người. Xưa nay con đã dùng phương thế này
hiệu nghiệm; con
cũng muốn truyền lại cho các linh hồn, làm các linh hồn
hiểu biết ở trên trần gian
có một việc phải làm là tế lễ mình trong những việc nhỏ
mọn, dường như những hoa
thơm tho dâng tiến Chúa,
và tỏ hết tình ái thắm thiết cùng Người. Với những việc
nhỏ mọn tình tứ đó, con đã được lòng Chúa lắm, và Chúa yêu
con vô cùng, Người
sẵn sàng ẵm bế con cách tình nghĩa dường nào.
Còn Têrêsa đã khẳng định cùng các chị em nhà Tập rằng :
Ví bằng con đường Tình Ái em dẫn chị em đi là đường lạc,
chị em chớ ngại, em
không để chị em lầm lạc lâu đâu. Em sẽ hiện về cải chính
để chị em bỏ mà theo
đường khác; nhưng nếu em chẳng trở lại cùng chị em nữa,
thì chị em cứ chắc tâm
tiến hành những điều em đã nói. Đức Chúa Trời phép tắc và
lòng lành vô cùng, ta
trộng cậy Người chẳng khi nào phải lo quá ! Ta trông cậy Chúa ngần nào, ta được
phỉ nguyền ngần ấy.
(Truyện
Một tâm hồn, Ra khơi, 1966, tr 266-267)
Dựa
theo cuốn Truyện Một tâm hồn và những cách chú giải đáng tin cậy nhất, chúng ta
có thể trình bầy sau đây những nét cơ bản của “Con đường thơ ấu thiêng liêng”
theo thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã sống và dạy cho chúng ta. Những nét cơ
bản này có thể chia làm hai nhóm bổ túc lẫn nhau : một tiêu cực và một tích
cực.
A. Những
đặc điểm tiêu cực :
1. Không
hãm mình khác thường.
2. Không
đặc sủng siêu nhiên.
3. Không
phương pháp cầu nguyện.
4. Không
bận rộn nhiều công việc.
B. Những
đặc điểm tích cực :
1. Lòng mến
trên hết được biểu lộ :
. Lòng
hiếu thảo trọn vẹn và đơn sơ.
. Chiều
lòng Chúa Giêsu.
. Hoàn
toàn vô vị lợi.
. Thao
thức việc cứu rỗi các linh hồn.
2. Tín thác
hoàn toàn vào Chúa với tinh thần con thảo.
3. Khiêm
nhường và đơn sơ.
4. Trung
thành trong các việc nhỏ.
(Xem thêm Lược sử linh đạo Kitô giáo của Lm
Gs Đoàn Thiện O.P tr 158)
Theo
tinh thần nên thánh của thánh nữ Têrêsa Hài đồng được gói ghém trong cuốn
“Truyện Một tâm hồn” ấy, ta thấy Têrêsa luôn coi mình như con nhỏ trước mặt
Chúa. Têrêsa thấy mình nhỏ nên cứ “nhõng nhẽo” với Chúa, mà xem chừng càng
nhõng nhẽo, Chúa càng thích. Cái nhõng nhẽo của Têrêsa được diễn tả ra trong
những công việc hằng ngày : có ai trong chúng ta dám có tư tưởng táo bạo như
thánh nữ không ? Thánh nữ coi mình như con quay, cứ quay tít thò lò đi để cho
Chúa xem... Thánh nữ còn kiếm nhiều dịp để tặng cho Chúa những món quà nhỏ nhoi
nhưng rất dễ thương. Món quà đó là
những hy sinh chịu đựng trong việc vâng phục bề trên, chịu đựng chị em, trung
thành làm các việc bổn phận...
Ngày
nay Giáo hội giới thiệu cho chúng ta đường thơ ấu thiêng liêng này, một đường
lối nên thánh theo lối trẻ thơ, , rất
đơn sơ, dễ dàng, ai cũng có thể thực hiện được. Nhưng đường lối này đòi hỏi chúng ta hy sinh rất nhiều trong đời
sống hằng ngày. Tất cả mọi công việc
chỉ có mục đích là để yêu mến Chúa hơn, không phải “thương miệng thương môi,
thương miếng xôi miếng thịt”, mà yêu Chúa với những hy sinh thảo lảo được thể
hiện trong việc từ bỏ mình hằng ngày, sống vui tươi, đơn sơ, phó thác hoàn toàn
vào trong tình thương yêu của Chúa.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo
xứ Kim phát,
Đà
lạt