GẶP
GỠ THIÊN CHÚA,
HAY LƯƠNG THỰC TÂM LINH
Chúng ta sắp mừng lễ Phục sinh, có thể
rất long trọng, sốt sắng. Nhưng tất cả những lễ nghi đầy ý nghĩa và gây xúc
động đó đều sẽ qua đi. Vấn đề quan trọng là lễ Phục sinh, hay quan trọng hơn
nữa là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô đã đem lại cho bản thân mỗi người chúng
ta điều gì, sẽ ích lợi cho ta một cách thực tế như thế nào?
Đức Kitô đã sống lại. Tất cả mọi người
Kitô hữu đều tin như thế, nếu không thì không còn là Kitô hữu. Nhưng dù tin
mạnh mẽ đến đâu, việc sống lại của Đức Kitô chỉ ích lợi và đem lại sự sống siêu
nhiên cho chúng ta, nếu Ngài thật sự sống lại trong tâm hồn ta. Thật vậy, nếu
Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây gần 2000 năm tại đất nước Do Thái, mà
không sống lại trong chính bản thân ta, thì đối với ta việc sống lại của Ngài
sẽ trở nên hoàn toàn vô ích. Cũng tương tự như có người đem rất nhiều đồ ăn đến
cho chúng ta, đủ nuôi sống và đem lại sinh lực dồi dào cho chúng ta trong nhiều
ngày, nhưng nếu đồ ăn đó không được đưa vào miệng hay dạ dày của ta, thì ta vẫn
có thể chết đói, và đồ ăn đó trở thành vô ích.
Vậy điều quan trọng khi mừng lễ Phục
sinh không phải chỉ là lo
xưng tội, lo đi lễ, lo rước lễ, lo trang hoàng nhà thờ, lo trưng bông nhà mình,
hay lo làm một bữa tiệc thật lớn để mọi người trong nhà cùng mừng lễ với nhau.
Mà điều quan trọng phải làm là phục sinh Đức Kitô nơi chính bản thân mình,
nghĩa là làm cho Đức
Kitô thật sự sống lại trong tâm khảm, trong ý thức của mình.
Rất có thể trong tâm hồn ta, Đức Kitô
đang bị chôn vùi trong ngôi mộ của sự quên lãng, như thể Ngài chẳng là gì và
chẳng ảnh hưởng gì trên đời sống thường ngày của ta, như thể Ngài đang ngủ yên
trong tâm hồn ta, không tác động gì ích lợi cho ta, giúp ta chống lại với những
giông tố cuộc đời. Ngài dường như đang ngủ thật say trong tâm hồn ta như xưa đã
ngủ say trên thuyền bỏ mặc cho các tông đồ phải lo lắng chèo chống, chiến đấu
vất vả với giông tố sóng nước, tưởng chừng như chết đến nơi (xem Mc 4,35-41).
Điều sáng suốt mà các tông đồ lúc đó đã làm, là đánh thức Thầy mình dậy. Và một
khi Ngài thức dậy, Ngài ra lệnh cho sóng và gió phải im, và tất cả đều tuân
lệnh Ngài.
Hình ảnh Đức Kitô ngủ thật say trong
thuyền, hay hình ảnh Ngài nằm trong mộ đá có thể là hình ảnh trung thực diễn tả
tình trạng của Ngài đối với tâm hồn ta lúc này. Nếu để Ngài ngủ hay chết, thì
Ngài chẳng làm gì được cho ta. Phải đánh thức Ngài dậy, phải làm cho Ngài phục
sinh trong tâm hồn ta. Nói cách khác, là phải làm cho Ngài luôn luôn sống động
trong ý thức của ta. Chỉ như thế, chúng ta mới thấy được cánh tay uy dũng vạn
năng của Ngài ảnh hưởng thật sự trên cuộc đời ta, giúp ta biến đổi tất cả những
nghịch cảnh thành thuận cảnh, bất lợi thành thuận lợi, và biến đổi chính bản
thân ta một cách hữu hiệu và nhanh chóng.
Chúng ta phải đánh thức hay làm cho
Ngài sống lại bằng cách thường xuyên ý thức sự hiện diện của Ngài trong ta.
Nghĩa là phải luôn luôn ý thức rằng Chúa là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu,
nguồn trí tuệ của ta. Nếu ta tin tưởng rằng nguồn thần lực đó đang ở trong ta
và sẵn sàng hoạt động, thì lập tức nguồn sức mạnh ấy sẽ hành động thật sự. Điều
quan trọng là ta có dám tin như thế hay không. Niềm tin như thế cần phải được
tập luyện và củng cố hằng ngày. Nếu chúng ta thường xuyên tự nhủ, và ngày nào
cũng tự nhủ rằng: «Ngài là sức mạnh của tôi»,
thì sức mạnh ấy sẽ thành hiện thực nơi bản thân ta, lúc đầu chưa rõ ràng, và có
thể yếu ớt, nhưng sẽ càng ngày càng rõ rệt và mạnh mẽ lên theo thời gian.
Làm cho Ngài sống lại trong ta, là để
Ngài chiếm trọn bầu ý thức tâm linh của ta, để Ngài hoàn toàn làm chủ đời ta,
để Ngài hoàn toàn tự do hoạt động trong ta, không bị cản trở bởi ý riêng của
ta. Ngài chỉ có thể lớn lên khi cái tôi của ta nhỏ đi, Ngài chỉ sống khi cái
tôi ích kỷ của ta chết đi, và thánh ý của Ngài chỉ được thực hiện khi ta tự ý
coi nhẹ ý riêng mình.
Làm cho Ngài sống lại trong ta, chính
là gặp gỡ Ngài ngay trong chính bản thân ta, đó chính là bản chất của cầu
nguyện, là lương thực nuôi dưỡng tâm linh ta. Cầu nguyện hay gặp gỡ Thiên Chúa
chính là điều quan trọng nhất trong đời sống nội tâm của người Kitô hữu. Nhưng
nhiều Kitô hữu chưa hiểu đúng bản chất của cầu nguyện hay sự gặp gỡ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy đi sâu vào vấn đề này.
CẦU NGUYỆN LÀ GẶP GỠ THIÊN CHÚA
Cầu nguyện là một sinh hoạt thường
xuyên, rất thân thuộc đối với người Kitô hữu. Có thể nói: một Kitô hữu không
cầu nguyện không thể là một Kitô hữu đúng nghĩa. Cầu nguyện có thể mang nhiều
hình thức: đọc kinh, nguyện gẫm, chiêm niệm, ca tụng, tạ ơn, xin ơn, nói với
Chúa và nhất là nghe Chúa nói, v. v… Nhưng bản chất của cầu nguyện chính là sự
gặp gỡ liên vị giữa Chúa và ta. Và nhờ sự gặp gỡ đó, ta mới cảm nếm được Thiên
Chúa, mới hiểu về Ngài. Cái hiểu này đến từ cảm nghiệm, chứ không phải đến từ
suy luận hay lý thuyết như khi học hỏi. Khi cầu nguyện, nếu không thực sự gặp
gỡ Thiên Chúa, thì có thể nói ta chưa đạt được bản chất hay mục đích của cầu
nguyện. Thật vậy, có nhiều trường hợp người ta đọc kinh, nguyện gẫm, lần hạt,
rước lễ… mà không thực sự gặp gỡ Thiên Chúa. Như thế, người ta chỉ có vẻ cầu
nguyện chứ chưa thực sự cầu nguyện, và đương nhiên không cảm nghiệm được Ngài.
GẶP GỠ VÀ THƯỞNG
NẾM THIÊN CHÚA
QUAN TRỌNG HƠN BIẾT
VỀ THIÊN CHÚA
Người ta không gặp gỡ Thiên Chúa vì
người ta không đặt nặng việc đó. Người ta thường có khuynh hướng chú trọng
nhiều đến việc học hỏi về Thiên Chúa, và ít lưu tâm đến việc gặp gỡ và thưởng
nếm Thiên Chúa. Suy tư để hiểu biết về Thiên Chúa rất quan trọng, vì có hiểu
biết về Thiên Chúa, chúng ta mới yêu mến Ngài: «vô tri bất mộ». Nhưng
trong thực tế, biết về Thiên Chúa không quan trọng bằng gặp gỡ Ngài, thưởng nếm
Ngài. Cũng như biết nhiều về nước, biết chính xác về nước với các tính chất và
thành phần cấu tạo của nước không quan trọng bằng việc uống nước. Không biết gì
về nước hay biết sai lạc về nước, không sao cả, miễn là có uống nước. Còn biết
hoàn toàn đúng về nước mà không uống nước, thì sẽ bị cơn khát dày vò, thậm chí
chết được. Cũng vậy, bàn cãi xem Thiên Chúa là hữu ngã hay vô ngã, là một hay
là hai với vũ trụ, sáng tạo ra vũ trụ hay biến hóa ra vũ trụ, thực tế không
quan trọng bằng việc gặp gỡ Thiên Chúa, hưởng nếm sự dịu ngọt của Ngài, nhận
được ân sủng và sức mạnh của Ngài. Rất nhiều thần học gia nói thao thao bất
tuyệt về Thiên Chúa nhưng không cảm nghiệm được Thiên Chúa bằng một trẻ em đơn
sơ chân thành. Như vậy, biết Thiên Chúa chỉ là phương tiện, yêu mến Thiên Chúa
mới là mục đích. Biết mà không dẫn tới yêu mến và cảm nghiệm, thì cái biết đó
trở nên vô ích.
Không một tôn giáo nào trên thế giới
không nói tới Hữu Thể mà người Kitô hữu gọi là Thiên Chúa, có điều họ gọi Hữu
Thể ấy bằng những tên khác, và quan niệm về Hữu Thể ấy rất khác chúng ta. Nhiều
khi ta cho rằng họ «vô thần», chỉ vì họ không quan niệm Hữu Thể ấy là «thần» như chúng ta. Không một tôn giáo nào
không lấy Hữu Thể đó làm trọng tâm duy nhất của đời sống tâm linh, và coi việc
gặp gỡ, cảm nghiệm và kết hợp với Hữu Thể ấy là thực nghiệm tâm linh quan trọng
nhất của đời sống tôn giáo. Và mỗi tôn giáo đều có những cách để gặp gỡ và cảm nghiệm
Hữu Thể ấy. Nói chung, tất cả các tôn giáo cũng như tất cả các giáo phái Kitô
giáo đều chung một mục đích duy nhất là gặp gỡ và thực nghiệm được Hữu Thể mà
chúng ta gọi là Thiên Chúa, mặc dù các tôn giáo quan niệm rất khác nhau về Hữu
Thể ấy. Vì thế, việc gặp gỡ và cảm nghiệm Thiên Chúa có thể là khởi điểm để các
tôn giáo và các giáo phái Kitô giáo có thể gặp gỡ nhau, trao đổi, và cùng múc
được chính sự sống tâm linh đích thực, mà không nhất thiết phải đồng ý với nhau
về các tín điều vốn rất khác biệt nhau giữa các tôn giáo.
Các tín điều ấy hay sự hiểu biết về
Thiên Chúa không hẩn là điều kiện tối cần để có thể thực sự gặp gỡ và cảm
nghiệm được Thực Tại Tối Hậu ấy, tức Thiên Chúa. Thật vậy, một người quê mùa
được học hỏi rất ít về Thiên Chúa, hay một đạo sĩ trong một tôn giáo Á châu
quan niệm về Thiên Chúa khác hẳn chúng ta, vẫn có thể gặp được Thiên Chúa và
cảm nghiệm về Ngài (1) hơn một thần học gia nổi tiếng. Điều đó đã
xảy ra trong Kinh Thánh, khi Chúa Giêsu giáng sinh: những người gặp và thấy Chúa
không phải là những bậc thầy dạy về Thiên Chúa, mà là các mục đồng biết rất ít
về Ngài (x. Lc 2,8-18), và các đạo sĩ ngoại giáo (x. Mt 2,1-12), là những người
chắc chắn có quan niệm về Thiên Chúa rất khác các rabbi Do Thái vốn rất tự hào
mình được Thiên Chúa mặc khải. Vì thế, cùng chia sẻ kinh nghiệm về cầu nguyện,
về việc cảm nghiệm Thiên Chúa - chứ không phải về những tín điều - chính
là khởi điểm để đi đến đại kết và hiệp nhất, giữa các giáo phái Kitô giáo và
giữa các tôn giáo. Hiểu biết có thể sai, nhưng cảm nghiệm là cái biết thực
tiễn, trực tiếp với đối tượng, không có vấn đề đúng sai. Nói thao thao bất
tuyệt về tính chất và cấu tạo của trái chuối không bằng được ăn chính trái
chuối. Lý thuyết về trái chuối có thể khác nhau và gây chia rẽ, nhưng cảm
nghiệm về nó thì hầu như ai cũng giống ai.
GẶP GỠ THIÊN CHÚA Ở
ĐÂU?
Thiền sư Bách Trượng nói về việc tìm
kiếm Thực Tại Tối Hậu ấy «hệt như cưỡi trâu
tìm trâu». Ấn Độ giáo
cho việc tìm kiếm đó giống như một con cá ở biển đi tìm nước. Nghe những chuyện
đó ta thấy tức cười, nhưng đích thực khi ta tìm kiếm Thiên Chúa, ta cũng làm
một việc tương tự. Thật thế, có nơi nào không có Thiên Chúa? Chúng ta và vạn
vật hiện hữu, sinh sống, làm bất cứ việc gì cũng đều do Thiên Chúa. Làm sao ta có
thể suy nghĩ, viết lách, đi lại, cựa quậy, thậm chí làm những việc dễ dàng nhất
như chớp mắt, hít thở, mà không cần đến Thiên Chúa? Thiên Chúa hiện diện khắp
nơi, trong tất cả vạn vật, trong tất cả mọi sinh hoạt dù nhỏ nhất của ta. Nhất
cử nhất động đều nói lên sự có mặt của Thiên Chúa. Thế mà ta lại tìm kiếm Thiên
Chúa! Và mỉa mai thay lắm khi không gặp được Ngài. Có khác gì con cá dưới biển
tìm nước hoài mà vẫn không thấy nước, không gặp được nước!
Mặc dù Thánh Kinh luôn luôn có những
câu xác định rõ nơi Thiên Chúa hiện diện, như: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh
Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? … Đền thờ ấy chính là anh em»
(1Cr 3,16-17; x.1Cr 6,19; 2Cr 6,16; Ep 2,20-22), nhưng truyền thống Kitô giáo
dường như quá nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong giáo đường, trong
các bí tích, đến nỗi các Kitô hữu không mấy lưu tâm đến sự hiện diện của Thiên
Chúa nơi chính mình, nơi tha nhân. Nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa thì
người ta thường nghĩ ngay đến nhà thờ, đến phép Thánh Thể, không mấy ai nghĩ
đến Thiên Chúa ngự ngay trong mình, trong những người chung quanh. Kinh Thánh
dường như không ưa việc định vị Thiên Chúa một cách lệ thuộc và hạn định vào
không gian vật chất như thế. Nhiều chỗ trong Kinh Thánh khẳng định: «Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài trong
đó, Đấng làm Chúa tể trời đất, không ngự trong những đền thờ do tay con người
làm nên» (Cv 17,24; x. Cv 7,28; Dt 9,11-12; Is 66,1-2). Chính Đức
Giêsu, để trả lời cho câu hỏi: phải gặp gỡ Thiên Chúa và thờ phượng Ngài ở đâu,
đã nói: «Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng
Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các
người không biết… Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ
phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí (2) và sự
thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là
thần khí, và những người thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự
thật» (Ga
4,21.23-24; x. Ga 2,21). Vì thế,
thánh Phaolô khuyến kích ta tôn vinh, thờ phượng, gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong
con người của ta: «Thân xác anh em là đền
thờ của Thánh Thần. Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là chính Thánh Thần của
Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy tôn
vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em» (1Cr 6,20b). Quả
thật, không có nơi nào ta dễ gặp gỡ Thiên Chúa cho bằng ngay bản thân ta. Cho
dầu Ngài cũng hiện diện trong vũ trụ vạn vật hay những nơi khác, nhưng nơi gặp
gỡ Ngài lý tưởng nhất vẫn là bản thân ta. Có gặp được Thiên Chúa nơi bản thân
mình, thì mới gặp được Ngài ở những nơi khác. Chính thánh Âu-Tinh thú nhận: «Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp
được Chúa của lòng con» (3), và «Con đã yêu Chúa quá
muộn, .. Chính Chúa vẫn ở trong con, còn con thì lại ở ngoài con» (4).
CÓ GẶP THIÊN CHÚA
NƠI BẢN THÂN,
MỚI GẶP ĐƯỢC NGÀI Ở
NƠI KHÁC
Thiên Chúa hiện diện khắp nơi, nên có
thể gặp được Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào, tuy nhiên, vẫn có những nơi Ngài hiện
diện cách đặc biệt, với mật độ cao, hiện diện một cách «đặc sệt». Nếu nói tới sự hiện diện vật chất của
Thiên Chúa, thì phải nói tới phép Thánh Thể. Vì là hiện diện vật chất, nên sự
hiện diện ấy lệ thuộc vào không gian và thời gian. Muốn gặp Ngài một cách vật
chất, ta phải đến những nơi có Thánh Thể: nhà thờ, nhà nguyện…
Con người gồm cả thể chất lâãn tâm
linh, nên sự gặp gỡ đầy đủ vẫn phải có đủ hai mặt ấy. Nhưng dẫu sao, giữa hai
mặt ấy, gặp gỡ tâm linh vẫn quan trọng hơn rất nhiều. Vì việc gặp gỡ thể chất
chỉ có ý nghĩa khi đã có sự gặp gỡ tâm linh. Vì nếu chỉ gặp gỡ về mặt thể chất thì không phải là gặp gỡ thật sự.
Đó là trường hợp «vô duyên đối diện bất
tương phùng» (5),
giống như bọn kinh sư Do Thái gặp và chất vấn Chúa Giêsu, nhưng hai bên không
thật sự «gặp gỡ» nhau. Như vậy, nếu không có sự gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm
linh, thì có gặp gỡ bằng thể chất, dù là hằng ngày, cũng vô ích. Do đó, điều
quan trọng là gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm linh và trong tâm linh của ta, chứ
không phải gặp gỡ bằng thể chất như chúng ta đã từng quá chú trọng mà coi nhẹ
sự gặp gỡ tâm linh. Thật vậy, người ta có thể rước Thánh Thể hằng ngày mà không
hề gặp gỡ Thiên Chúa, chỉ vì người ta đã không gặp gỡ Ngài bằng tâm linh, là
cách gặp gỡ mà Chúa Giêsu muốn nói đến khi tiếp xúc với người phụ nữ Samari về
nơi thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa. Chỉ sau khi gặp gỡ Thiên Chúa trong tâm
linh, người ta mới có thể gặp gỡ Ngài ở bất cứ nơi nào khác: trong phép Thánh
Thể, trong thiên nhiên, trong vạn vật.
GẶP GỠ THIÊN CHÚA
QUA CÁC BÍ TÍCH
Tuy nhiên, chúng ta không nên coi nhẹ
sự gặp gỡ Thiên Chúa qua các bí tích, nhất là qua phép Thánh Thể, vì con người
có thể chất, và vì thể chất ảnh hưởng rất mạnh đến tinh thần hay tâm linh. Nếu
không có sự gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm linh, thì gặp gỡ qua thể chất là vô ích.
Nhưng nếu chỉ gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm linh thì chưa đủ đối với con người có
hồn có xác. Nếu đã gặp gỡ trên bình diện tâm linh, thì sự gặp gỡ về thể chất sẽ
làm cho sự gặp gỡ đó thắm thiết lên gấp bội và ích lợi cho con người cũng tăng
lên gấp bội. Điều đó tương tự như trong sự gặp gỡ giữa vợ chồng. Nếu không có
sự gặp gỡ bằng tâm hồn, bằng tình yêu chân thật, thì sự gặp gỡ thể xác sẽ trở
thành vô ý nghĩa. Nhưng nếu đã gặp gỡ bằng tâm hồn, bằng tình yêu chân thật,
thì sự gặp gỡ đó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ thể xác như một nhu cầu thiết yếu.
Và sự gặp gỡ thể xác ấy sẽ làm cho sự gặp gỡ tinh thần kia hạnh phúc lên gấp
bội. Và phải gặp gỡ trên cả hai bình diện đó thì đôi vợ chồng mới đúng nghĩa là
vợ chồng… Cũng vậy, có gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm linh trước thì việc gặp gỡ
Ngài qua thể chất mới có ý nghĩa. Vì thế, Giáo Hội buộc những ai lãnh bí tích
Thánh Thể hay các bí tích khác (trừ rửa tội và giải tội) phải chuẩn bị trước,
và điều quan trọng là phải sạch tội trọng… Đó là một hình thức Giáo Hội buộc
người tín hữu phải gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm linh trước đã, trước khi gặp gỡ
Ngài qua những dấu chỉ hữu hình vật chất. Nhưng đáng tiếc là nhiều tín hữu đã
hiểu sự đòi hỏi chuẩn bị trước này một cách quá thô thiển và ngây ngô, nên đã
không nếm được «mùi vị tuyệt vời»
và hưởng những ơn ích dồi dào do sự gặp gỡ Đức Kitô qua thể chất. Các bí tích
khác cũng vậy.
Nếu người nào chỉ bằng lòng với việc
gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm linh, không đếm xỉa gì đến việc gặp gỡ Thiên Chúa
qua bí tích, thì việc gặp gỡ bằng tâm linh đó chưa hẳn đã là một sự gặp gỡ đích
thật. Thật thế, có cặp vợ chồng nào yêu thương nhau thực sự - tức
đã gặp gỡ về tinh thần - mà lại không có nhu cầu gặp gỡ về thể
chất? Trong tám cái khổ của Khổ Đế Phật Giáo (6), có một nỗi khổ rất
lớn là «ái biệt ly khổ», nghĩa là nỗi đau khổ do yêu thương nhau
mà phải sống xa cách nhau. Vì thế, khi đã thực sự gặp gỡ Thiên Chúa bằng tâm
linh rồi mà không được gặp Ngài qua thể chất, thì chắc chắn đó phải là một nỗi
khổ, vì tình yêu chưa được thỏa mãn. Đấy là lý do khiến các thánh say sưa quì
hàng giờ trước Thánh Thể Chúa. Gặp gỡ tâm linh càng đậm đà sâu thẳm bao nhiêu,
thì gặp gỡ qua bí tích càng là một nhu cầu cấp bách, càng có ý nghĩa và càng
sinh hoa trái bấy nhiêu.
QUÁ TRÌNH NỘI TÂM
HÓA THIÊN CHÚA
Quá trình tìm hiểu, gặp gỡ và sống với
Thiên Chúa càng đi vào chiều sâu, thì vị trí của Thiên Chúa đối với tâm hồn con
người càng gần gũi hơn, càng đi vào nội tâm con người hơn.
- Khởi
đầu, người ta quan niệm Thiên Chúa hoàn toàn ở ngoài con người, sự độc lập về
mặt hữu thể giữa Thiên Chúa và con người rất lớn: Thiên Chúa là một thực tại
siêu việt hoàn toàn bên ngoài con người.
- Dần
dần con người khám phá ra rằng Thiên Chúa cũng ở ngay trong bản thân mình,
trong tâm hồn mình, nhưng sự kết hợp chưa đi đến độ thắm thiết. Thiên Chúa ở
trong con người, nhưng Thiên Chúa và con người vẫn có thể không gặp nhau, vì
tương đối vẫn còn khá độc lập với nhau.
- Đến
thánh Phaolô, Ngài đã cảm nghiệm được chính Thiên Chúa sống và hoạt động qua
con người mình. Sự kết hợp giữa hai hữu thể đã đi đến độ thâm sâu: con người
cảm thấy bản ngã của mình như tan biến đâu mất, chỉ còn có Thiên Chúa chiếm
hoàn toàn con người mình, đến độ: «Tôi sống
nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl
2,20. X. Rm 8,10-11). Thiên Chúa và con người tuy là hai hữu thể khác biệt,
nhưng đi đến chỗ kết hiệp với nhau rất mật thiết.
- Đến
thánh Âu-Tinh: «Thiên Chúa còn thân mật với
tôi hơn cả chính tôi thân mật với tôi nữa» (7): Thiên
Chúa trở thành cái gì căn bản nhất, thâm sâu nhất trong tôi, hơn cả chính bản
ngã của tôi.
Đó là quá trình nội tâm hóa Thiên Chúa
của con người. Thiên Chúa không chỉ siêu việt (transcendant) ngoài con người,
mà còn nội tại (immanent) trong chính con người nữa.
HÃY CẢM NGHIỆM
THIÊN CHÚA NGAY TRONG BẢN THÂN MÌNH
Thiên Chúa nội tại trong ta và là nền
tảng của hữu thể ta. Vậy thì còn phải tìm Thiên Chúa ở đâu nữa! ? Vấn đề không
còn là tìm kiếm Thiên Chúa, mà chỉ là ý thức và giác ngộ được Thiên Chúa ở nơi
mình và mình đang sống trong Thiên Chúa. Con cá sẽ không bao giờ tìm thấy nước
bao lâu nó chưa biết rằng nó đang sống trong nước và nước cũng đang có trong
nó. Sở dĩ ta không cảm nghiệm được Thiên Chúa đang đầy tràn chung quanh ta và
đầy tràn ngay trong ta, là vì ta đã để cho những biểu hiện của Thiên Chúa che
mất chính Ngài. Cũng như khi coi phim, ta không còn thấy màn ảnh nữa chỉ vì mắt
ta đã tập trung vào hình ảnh đang diễn ra trên màn ảnhöng (8). Màn
ảnh vẫn đang ở ngay trước mắt ta mà ta không nhìn thấy. Trong khi chiếu phim,
muốn thấy màn ảnh, ta chỉ cần nhìn vào chính những hình ảnh đang thay đổi, đồng
thời dùng trí tuệ để nhận ra cái nền tảng không thay đổi của những hình ảnh ấy,
tức màn ảnh. Màn ảnh và các hình ảnh thay đổi ấy, một cách nào đó, «tuy hai mà một», nhưng cũng đồng thời cũng «tuy
một mà hai». Lìa bỏ
tất cả mọi hình tướng thay đổi của sự vật, ta sẽ nhận ra ngay cái bất biến hiện
diện trong chính những cái thay đổi ấy. Đó là một cách để cảm nghiệm Thiên
Chúa, một cách rất đông phương, luôn luôn bàng bạc trong giáo lý của các tôn
giáo đông phương.
Có cảm nghiệm được Thiên Chúa, ta mới
thưởng nếm được Ngài. Nếm được Ngài, ta mới có sức mạnh, trí tuệ, hạnh phúc và
giải thoát. Đáng tiếc thay, rất nhiều Kitô hữu chỉ chú trọng đến sự hiểu biết,
các tín điều về Thiên Chúa mà không tìm cách cảm nghiệm Ngài. Do đó, đối với
những người ấy, trong đời sống thực tế, tin và không tin dường như chẳng có gì
biến đổi, chẳng làm cho người ta nên tốt lành, thánh thiện và hạnh phúc hơn bao
nhiêu. Không gặp gỡ, cảm nghiệm và thưởng nếm Thiên Chúa, đời sống tâm linh của
họ trở nên nghèo nàn, yếu ớt, vì tâm linh họ không có của ăn, hay không ăn được
những lương thực đích thật bổ dưỡng.
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
Sự sống chỉ có một, nhưng được thể hiện
dưới nhiều cấp độ khác nhau: đời sống thực vật, đời sống động vật, đời sống
tình cảm, đời sống trí thức, và cao nhất là đời sống tâm linh. Con người hơn
con vật ở chỗ có đời sống tình cảm và trí thức, nhưng hơn rất xa con vật ở chỗ
có thể có đời sống tâm linh. Mỗi cấp độ của sự sống đều có những của ăn riêng
biệt. Đời sống thực vật và động vật cần những của ăn vật chất (nước, glucid,
protid, lipid, vitamine…). Đời sống tình cảm được nuôi bằng những cảm xúc, tâm
tình. Đời sống trí thức được nuôi bằng kiến thức, kinh nghiệm, suy tư… Đời sống
tâm linh đương nhiên cũng cần của ăn riêng biệt thích hợp. Vậy, tâm linh sống
bằng gì?
Đời sống tâm linh là đời sống của linh
hồn. Con người khác hẳn con vật ở chỗ có linh hồn, nên chỉ có những sinh vật từ
con người trở lên mới có đời sống tâm linh. Chính nhờ có linh hồn mà con người
là «hình ảnh của Thiên Chúa» (x.
St 1,26.27). Thiên Chúa là «Linh»
(thần linh), và linh hồn con người cũng là «linh», con
người giống Thiên Chúa và là hình ảnh của Ngài về mặt này. Nhờ có linh hồn, con
người mới có thể tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa, là sự sống Ngài
chỉ ban cho con cái Ngài. Chính nhờ có linh hồn mà tự thâm sâu, con người vẫn
tự nhiên hướng về Ngài, một cách ý thức hoặc vô thức, và chỉ được thỏa mãn khi
nghỉ yên trong Ngài. Có thể nói đời sống tâm linh là đời sống kết hiệp với
Thiên Chúa, khiến ta cảm thấy mình tan hòa trong Ngài, và lúc đó, cái tôi nhỏ
bé hẹp hòi của mình dường như biến mất, khiến ta không còn thấy mình sống nữa,
mình chỉ thấy Thiên Chúa sống trong mình (x. Gl 2,20).
Đời sống tâm linh không phải là một đời
sống mà người ta chỉ có thể quan niệm được mà thôi. Thực ra, nó phải là một đời
sống mà ta có thể cảm nghiệm được (9). Một người có đời sống tâm
linh cao và phong phú có thể cảm nghiệm được linh hồn mình cũng y như cảm
nghiệm được thể xác mình. Và có cảm nghiệm được linh hồn mình, tâm linh mình,
thì mới mong cảm nghiệm được chính Thiên Chúa. Không ai có thể tự hào mình có
đời sống tâm linh dồi dào khi chính mình không cảm nghiệm được đời sống đó.
Cũng như một người có đời sống trí thức dồi dào, thì phải cảm nghiệm được mình
hiểu biết, suy tư, ý thức về chính mình. Hay cũng như một người có đời sống
tình cảm thì phải cảm nghiệm được những nỗi vui buồn, thương ghét của mình… Vì
chúng ta có khả năng biết về mình chứ không vô ý thức như con vật. Vậy, chẳng
lẽ chúng ta có đời sống tâm linh thật sự mà lại không cảm nghiệm được nó?
ĐỜI SỐNG TÂM LINH
PHÁT TRIỂN THẾ NÀO?
Đời sống tâm linh của nhiều người chỉ ở
dạng «hạt», chưa nảy mầm thành «cây» được, nghĩa là vẫn ở dạng tiềm năng
(in potentia), chứ chưa ở dạng hiện thể (in actu). Hạt đó chính là cái tôi ý
thức của ta, là cái tôi ích kỷ của ta. Cái tôi đó chính là cái hạt có thể nảy
mầm để phát sinh ra đời sống tâm linh. Và bí quyết để làm cho hạt đó nảy mầm là
nó phải «chết» đi, như Đức Giêsu
có nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu
không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác» (Ga 12,24). Thật vậy, nếu ta không để cho cái tôi ích kỷ
của ta nhỏ bé và chết đi, thì hạt giống tâm linh của ta không thể nảy mầm và
phát triển được. Nếu ta yêu cái tôi của mình quá, chỉ muốn nó được trương phình
ra lấn át cả tha nhân, chắc chắn đời sống tâm linh của ta rất nghèo nàn, què
quặt: «Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất,
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời» (Ga 12,25). Giữa Đức Kitô ở trong tôi - tức
sự sống thần linh trong tôi - với «cái
tôi» của tôi luôn luôn có sự tỉ lệ nghịch với nhau: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi»
(Ga 3,30). Nếu tôi coi «cái tôi»
của mình lớn quá, ắt nhiên Đức Kitô trong tôi phải nhỏ đi. Như vậy, cái cản trở
đời sống tâm linh của ta nẩy mầm và phát triển, chính là cái tôi ích kỷ của ta.
Làm cho cái tôi đó nhỏ lại, chết đi, thì Đức Kitô mới sinh ra và «thành hình trong tâm hồn ta» (Gl 4,19).
Đó quả là một quá trình giác ngộ và lột
xác. Và kể từ đây, Đức Kitô trở thành của ăn cần thiết nuôi dưỡng đời sống tâm
linh của ta.
ĐỨC KITÔ, LƯƠNG
THỰC TÂM LINH
Chúng ta không nên hiểu Đức Kitô theo
kiểu những người đồng làng với Ngài đã hiểu. Họ hiểu Đức Kitô một cách rất cụ
thể và phiến diện: là người có tên Giêsu, con ông Giuse và bà Maria, cùng sống
ở làng Nazarét với họ và như họ (x. Mt 13,55-56). Nếu ta hiểu Đức Giêsu như thế
thì quả không sai, nhưng một Đức Kitô như thế chẳng ích lợi gì cho ta, giống
như Ngài chẳng làm được gì cho dân làng của Ngài khi họ quan niệm về Ngài như
thế. Ta phải thấy Ngài là một thực tại «từ
Trời xuống» (Ga 8,23; 6,38), không phải là người «thuộc về thế gian này» (Ga 8,23), nghĩa là
một thực tại tâm linh cần phải được nội tâm hóa nơi mỗi người. Có như thế, Ngài
mới trở thành của ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh được, vì của ăn phải là tâm
linh mới nuôi dưỡng tâm linh được.
Của ăn tâm linh ở đây, tức Đức Kitô,
không phải chỉ là một con người cá biệt nào đó, mà là một vị Thiên Chúa toàn
năng, toàn thiện, đầy yêu thương, đầy sức mạnh. Biến Ngài thành của ăn, hay «ăn» Ngài, có nghĩa là là nội tâm hóa Ngài,
biến Ngài thành tâm linh của ta, thành nội tâm của ta, thành sự sống của ta, để
ta không còn thấy ta sống, suy nghĩ, nói năng, hành động nữa, mà là thấy Ngài
sống, suy nghĩ, nói năng, hành động trong ta (x. Gl 2,20). Và hành vi «ăn» Ngài ở đây là một hành vi của ý thức,
của trí tuệ, chứ không phải là «nuốt vào
bụng». Nghĩa là luôn
luôn ý thức Ngài sống trong ta, đang hành động trong ta, đang biến đổi ta. «Ăn» Ngài, chính là lấy Ngài làm lẽ sống,
để Ngài chiếm trọn «bầu trời ý thức»
của ta.
Và sau một quá trình được nuôi dưỡng
bằng lương thực tâm linh ấy, cái tôi ích kỷ của ta càng ngày càng được thay thế
dần dần bằng «chất Ngài», hay «tính
Kitô», đầy yêu thương,
vị tha, phục vụ. Sự sống tự nhiên đầy khiếm khuyết của ta được thay thế dần dần
bằng sự sống siêu nhiên toàn hảo của Ngài. Và ta càng ngày càng được tham dự
vào tính chất toàn năng toàn thiện, vào tình thương và sức mạnh của Ngài. Sự
sống đời đời, theo một nghĩa nào đó, chính là đời sống tâm linh mà Đức Giêsu
hứa ban, phát xuất từ sự «ăn thịt và uống
máu Ngài», được hiểu
theo nghĩa tâm linh chứ không chỉ được
hiểu theo nghĩa thể xác như những người Nazarét thời xưa đã hiểu.
KẾT LUẬN
Tình yêu được nuôi dưỡng bằng những gặp
gỡ, những tương quan thân mật giữa hai người, bằng sự hy sinh, bằng những biểu
lộ tình yêu qua cử chỉ, ánh mắt, lời nói… Tình yêu sẽ giảm hay mất đi khi thiếu
những «lương thực» đó, hoặc trái
lại sẽ tăng lên và sinh hoa kết trái nếu được nuôi dưỡng đầy đủ bằng những «lương thực» đó. Tương tự, đời sống tâm
linh hay sự sống thần linh cũng phải được nuôi dưỡng bằng «lương thực» riêng của nó. Sự sống thần
linh là sự sống của chính Thiên Chúa và xuất phát từ chính Thiên Chúa. Vì thế
nó phải được nuôi dưỡng bằng chính Thiên Chúa, hay cụ thể hơn, bằng sự gặp gỡ
thân mật với Thiên Chúa. Sự gặp gỡ ấy chính là bản chất của cầu nguyện. Vì thế,
nói một cách khác, cầu nguyện là lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh con
người.
Nhưng để có thể thật sự nuôi dưỡng đời
sống tâm linh, thì cầu nguyện phải là sự gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa.
Nhưng, muốn gặp gỡ Thiên Chúa thì trước hết phải «có duyên» với Ngài, như tinh
thần của câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương
ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng», nghĩa là ta phải một cách nào đó đồng cảm với Ngài. Khi nói
chuyện với một người đồng cảm với ta, ta cảm thấy có sự gặp gỡ thật sự. Còn khi
nói chuyện với một người quan niệm, suy nghĩ, chủ trương khác hẳn với ta, ta
thấy khó nói chuyện, và nếu cứ cố nói chuyện thì chỉ đi đến cãi lộn, tranh
chấp, chứ không nhất trí với nhau được. Như vậy, «có duyên» hay «đồng cảm»
với Thiên Chúa nghĩa là gì?
Thánh Gioan cho biết: «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương
thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Thánh nhân cho thấy, chỉ
những ai có tình yêu, những ai biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị
tha, phổ quát, thì mới là người đồng cảm với Thiên Chúa. Chỉ những người đó mới
có thể gặp được Thiên Chúa. Vì thế, nếu bản chất của cầu nguyện là gặp gỡ Thiên
Chúa, thì chỉ những ai biết yêu thương mới có thể cầu nguyện đúng nghĩa được.
Và tình yêu đòi hỏi ta phải ra khỏi chính mình, bớt quan tâm đến mình, để có
khả năng đến với tha nhân, lưu tâm đến hạnh phúc hay đau khổ của họ, đến những
nhu cầu và mong ước của họ, để làm cho họ nên tốt và hạnh phúc hơn.
Như thế, điều kiện tiên quyết để có thể
cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa, và nuôi dưỡng đời sống tâm linh, là phải có tình
yêu. Vì thế, muốn cho đời sống tâm linh của mình vững mạnh, phải thực tập đức
mến, thể hiện những đặc trưng của đức mến trong đời sống của mình: «Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương,
không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui
mừng khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu
đựng tất cả» (1Cr 13,4-7). Không có tình yêu hay đức mến, người ta
không thể gặp gỡ Thiên Chúa, và do đó, không thể phát triển đời sống tâm linh
được.
NGUYỄN CHÍNH KẾT
Phục sinh 2003
21-4-2003
PhẦn phỤ chú
(1) Chẳng hạn, trường hợp của Ramakrishna, một đạo sĩ Ấn giáo, là thầy của
Vivekananda. Vivekananda kể về Ramakrishna: «Tôi lẻn đến gần người và hỏi người
câu mà cả đời tôi thường hỏi kẻ khác: “Thưa ông, ông có tin Thượng Đế không” - “Có”, người trả lời. - “Vậy ông có
thể chứng minh việc ấy được không?” - “Được”. - “Bằng cách nào?”, - “Vì tôi thấy
Thượng Đế như tôi thấy anh bây giờ, chỉ có điều là một cách mãnh liệt hơn
nhiều”. Câu trả lời này làm tôi cảm phục ngay. Đây là lần thứ nhất tôi gặp một
người dám nói rằng mình đã thấy Thượng Đế, rằng tôn giáo là một sự thực mà ta
có thể cảm biết và giác xúc một cách vô cùng cường liệt hơn là ta có thể cảm
giác vạn vật». (JOHN YALE, Tôn giáo là gì? Bản dịch của Vương gia Hớn, An Tiêm
xb, SàiGòn 1970, trang 21-22). Xem thêm ANTHONY DE MELLO (s.j.), Contact with
God, Loyola University Press, Chicago 1991, trang 37-38.
(2) «Trong thần khí» («thần khí», tiếng pháp: esprit, viết thường không
viết hoa, nên không phải là Thánh Thần), có thể hiểu là «trong tâm linh», «bằng
tâm linh».
(3) AUGUSTIN, Confession, cuốn VI, chương 1.
(4) AUGUSTIN, Confession, cuốn X, chương 27.
(5) Trong văn chương Việt Nam ta có câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương
ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng», nghĩa là có duyên với nhau thì dù
nghìn trùng xa cách vẫn có thể gặp nhau, nhưng không có duyên với nhau thì dù
có mặt đối mặt nhau vẫn không thể gặp nhau thật sự.
(6) Một trong bốn Thánh Đế của Tứ Diệu Đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và
Đạo đế) của Phật giáo.
(7) «Deus intimior intimo meo».
(8) Minh họa của Cha ANTHONY DE MELLO (s.j.), trong Contact with God,
Loyola University Press, Chicago 1991.
(9) Xem lại cước chú 1.