CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
NGÀI LÀ ĐẤNG EMMANUEL
A. DẪN NHẬP.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng
sinh. Giáng sinh là sự kiện trung tâm của lịch sử ơn cứu độ và của lịch sử nhân
lọai. Giáng sinh là một mầu nhiệm. Muốn hiểu được phần nào mầu nhiệm Giáng sinh,
chúng ta cần phải biết Đức Giêsu Kitô là ai ? Thiết tưởng không có định nghĩa nào
hòan hảo hơn là định nghĩa mà tiên tri
Isaia đã xác quyết trong bài đọc 1 hôm nay : Ngài là Đấng Emmanuel,
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng lời
loan báo của tiên tri Isaia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu, mà theo một cách vĩ
đại hơn rất nhiều, và có thể chính vị tiên tri này đã không thể tưởng tượng nổi.
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần trong lòng
trinh nữ Maria và được sinh ra. Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người thật. Với tư
cách là con người thì Ngài thuộc dòng tộc vua Đavít vì có thánh Giuse là cha nuôi. Ngài đến để chia sẻ thân phận con người của
chúng ta và làm cho chúng ta vốn là người phàm, được thông phần thần tính của
Người.
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng
ta. Ngài đã đến ở với lòai người qua việc tạo dựng, qua lời Ngài trong Kinh Thánh
và trong con người của Đức Giêsu ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy mừng lễ Giáng
sinh trong tinh thần yêu thương và phục vụ, biết đem Chúa đến cho mọi người để
mọi người biết thương yêu nhau và coi tha nhân như hiện thân của Đức Kitô ở giữa
lòng đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1 : Is 7,10-16.
Đây là một trong những đọan văn quan
trọng nhất nói về niềm hy vọng Đấng Messia của Israel. Truyền thống Do thái không
ngớt đọc đi đọc lại đọan văn này và khóac thêm cho nó những sắc thái mới. Sách
Tin mừng thứ nhất sẽ đọc thấy trong đọan văn này sự hòan tất nơi việc Đức Maria
sinh hạ Đức Giêsu (Mt 1,22-23).
Vua Achaz bị chống đối ngay trong nước,
bị đe dọa bởi ngọai bang, vua nghĩ đến việc cầu cứu những người Assyri. Tiên
tri Isaia đã ngăn cản ông và khuyến khích ông hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa hơn
là vào liên minh quân sự. Nhà tiên tri đã
cho ông một dấu hiệu từ trời cao : đó là cuộc sinh hạ của một người con trai, Đấng
giải thóat dân mang tên là Emmanuel : Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Không nghe lời khuyên nhủ khôn ngoan đó,
Achaz sẽ bị phạt và vương quốc bị phá hủy. Dầu vậy, Thiên Chúa cũng còn thương
mà ban cho vua một người con yêu quí là Eùzechias, một ông vua hòan hảo. Ông không
phải là Đấng Messia, nhưng chỉ là hình bóng Đấng Cứu Thế và mẹ ông là hình bóng
của Đức Trinh nữ Maria.
2. Bài đọc 2 : Rm 1,1-7.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô
tỏ ra được vinh dự vì được kêu gọi vào hàng môn đệ của Đức Kitô, với trách vụ tông
đồ rao giảng Tin mừng cho dân ngọai. Trọng tâm Tin mừng ngài rao giảng là Đức
Kitô. Theo đó, Đức Kitô là Con Thiên Chúa theo bản tính từ đời đời và đã trở thành
con vua Đavít theo xác thể và là người thật.
Từ ý thức đó, thánh Phaolô khuyên các
tín hữu hãy sung sướng vì được thuộc về một Đấng cao sang như thế :”Đó chính
là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”; đồng thời cũng hãy sung sướng với ơn gọi
của mình :”Anh em là những người mà Đức
Kitô đã kêu gọi”.
3. Bài Tin mừng : Mt 1,18-24.
Việc sinh hạ Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên
Chúa được diễn ra một cách đặc biệt. Ngài có cha có mẹ đàng hòang : Mẹ Ngài là
một trinh nữ có tên là Maria và cha Ngài là bác thợ mộc tên là Giuse.
Cuộc kết hôn giữa thánh Giuse và Đức
Maria đã được Thiên Chúa sắp đặt, nhằm những mục đích thích hợp với chương
trình cứu độ : Đức Giêsu đã được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đến
trần gian là “để cứu dân mình khỏi tội”.
Thánh Matthêu hiểu rằng việc này làm ứng
nghiệm lời tiên tri của Isaia từ trước :”Đức
Giêsu chính là Emmanuel”, có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên
Chúa ở cùng chúng ta.
I. LỜI HỨA BAN ĐẤNG
EMMANUEL.
Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ
thực hiện những điều đã hứa khi thời gian tới hồi viên mãn. Lời hứa đó đã được
thực hiện cách đấy 2000 năm. Đức Giêsu Kitô đã đến không phải chỉ một lần trong lịch sử, nhưng
Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến
trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Ngược dòng lịch sử nhân lọai, sau khi
Nguyên tổ sa ngã, quay lưng lại với Thiên Chúa đi vào chỗ diệt vong, Thiên Chúa
đã hứa ban một Đấng Cứu Thế để nhờ Ngài mà con người chuộc lại được sự sống đã
mất (x. St 3,15). Thế rồi qua dòng lịch sử, mặc cho sự phản bội liên tục của
con người, Thiên Chúa vẫn trung thành mãi và Tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục đeo
đuổi lấy con người (x. 2Tm 2,13). Từng bước một, Thiên Chúa đã chọn Abraham làm
tổ phụ một dân riêng, để từ dân đó, Con Ngài được sinh ra. . Và trong dân đó, Đấng
Messia của Thiên Chúa đã được báo trước sẽ thuộc dòng tộc vua Đavít (x. 2Sm
7,12-16).
Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa,
con cháu của vua Đavít vẫn không giữ được lòng trung thành. Khi đó vào khỏang
thế kỷ thứ 8 trước CN, các vua phương bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem.
Vua Giuđa lúc bấy giờ là Achaz thay vì hóan cải đời sống và tin tưởng vào Thiên
Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyri. Và để làm đẹp lòng vua của Assyri, ông
đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân
ngọai. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngọai, thiêu sinh cả con ông làm
của lễ tòan thiêu. Trong hòan cảnh đó, Thiên Chúa đã cho tiên tri Isaia đến để
kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
Chính Ngài sẽ giải thóat dân Ngài khỏi mọi sự dữ. Và như để bảo đảm cho lời của
mình, vị tiên tri bảo nhà vua “hãy xin
Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.
Nhưng nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ
rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn
cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin,
thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài:”Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một
con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng
ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thóat họ khỏi mọi đe dọa
của quân thù.
Dấu chỉ mà tiên tri Isaia loan báo đã được thực
hiện. Eùzechiel đã được sinh ra, và các vua phương Bắc đã lui quân. Vị vua này
mặc dù rất trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là Đấng
Messia. Cuối cùng, vào năm 587, Giuđa cũng đã mất vào tay đế quốc Babylon. Như
thế, lời tiên báo của tiên tri Isaia không dừng lại ở vua Eùzechiel, nhưng còn đi
xa hơn, hướng đến Đấng Cứu Thế (Trần thanh Sơn).
II. THỰC HIỆN LỜI HỨA
BAN ĐẤNG EMMANUEL.
1. Nguồn gốc của Đức Giêsu.
Theo KinhThánh, chúng ta phải xác nhận
là Đức Giêsu được sinh ra bởi Đức Maria :”Đức
Kitô giáng sinh trong hòan cảnh sau đây : Mẹ Người là Maria đã đính hôn với
Giuse”(Mt 1,18). Đức Giêsu đã có người Mẹ còn cha Ngài là ai ? Ngài thuộc dòng
tộc nào ? Mẹ Ngài ra sao ?
Chúng ta phải tìm hiểu phong tục cưới
hỏi của người Do thái. Luật Do thái phân biệt rõ ràng trong hôn nhân : việc đính
hôn và cưới xin. Tuy cũng có lễ hỏi và lễ cưới nhưng giá trị và ý nghĩa khác với
Việt nam chúng ta.
* Lễ
đính hôn (cũng gọi là lễ hỏi) : Thời gian đính hôn kéo dài trong một năm.
Trong năm đó đôi bạn được kể như vợ chồng dù họ không có những quyền của vợ và
chồng. Lễ hỏi Việt nam chưa làm vợ chồng,
còn lễ hỏi Do thái coi như thành vợ chồng. Chứng cớ là theo luật :
. Vị hôn thê bất trung sẽ bị ném đá như
vợ chính thức.
. Vị hôn phu có chết thì vị hôn thê trở
thành quả phụ.
. Vị hôn thê cũng giống như người vợ
chính thức chỉ có thể bỏ nhau bằng tờ ly dị.
. Đứa con cưu mang trong thời gian đính
hôn được coi là con chính thức.
Như thế luật cho hai người quyền ăn ở với nhau trong thời gian này.
Giuse
và Maria đang ở trong giai đọan này.
* Lễ
thành hôn : Hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm hứa hôn. Nếu
chúng ta hiểu biết phong tục cưới gả thông thường của người Do thái thì mối
quan hệ trong khúc sách này hòan tòan là bình thường và rõ ràng.
2. Giuse là người công chính.
Kinh Thánh gọi Giuse là người
công chính:”Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định
tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”(Mt 1,19). Chữ “công chính” đã được hiểu khác
nhau và vì hiểu khác nhau nên cũng cắt nghĩa khác nhau về thái độ của thánh
Giuse.
Chúng ta biết, nơi người Do
thái, không phân biệt rõ thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người
đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với luật lệ. Do
đó, khi người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đóan trong việc đó là có tội hay
không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động theo hai cách : Hoặc là tuyên bố
theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngọai tình, và như thế
Maria bị mất thể diện hòan tòan; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là
cha của đứa bé sắp sinh. Giuse đã chọn giải pháp nào ?
Thật khó nghĩ ! Một đàng ngài
không muốn công khai bộc lộ ý tưởng của mình là Maria đã phạm tội, vì ngài không
muốn gây tổn thương cho Maria, một thiếu nữ ngài rất yêu mến và không muốn cho
cô phải đau khổ. Nhưng đàng khác, giả sử Maria đã phạm tội thật mà nhận cô làm
vợ thì không được. Bởi đó buộc phải thực hành luật Maisen chăng ? Cho phép bỏ vợ
khi có lý do chính đáng quan trọng.
Đang phân ân lo nghĩ không
biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng cho ông :”Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria
mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng.
Việc này thường xẩy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều
gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse
là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng
trinh của Đức Maria.
Sau khi được Thiên Chúa báo
mộng, Giuse không còn thụ động nữa, ông tỉnh giấc và tuân hành lời thiên thần
truyền. Giuse mau mắn thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa liên quan đến Con
Thiên Chúa xuống thế làm người, qua việc ngài làm bạn với Đức Maria và cha nuôi
Chúa Giêsu, không ăn ở với nhau cho đến khi sinh con.
3. Giuse, cha nuôi Đức Giêsu.
* Đưa nhập vào dòng dõi Đavít.
“Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền”(Mt1,25). Với
sự mau mắn của người công chính, hòan tòan sẵn sàng trước sự mới lạ của Thiên
Chúa, Giuse đón nhận về nhà mình mầu nhiệm của Giao ước mới :”Ông rước vợ về nhà mình”, như thế, cho
phép các lời tiên tri được thực hiện trọn vẹn :”Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, người sẽ đặt tên
là Emmanuel, có nghĩa là Thiên Chúa ở
cùng chúng tôi”. Nhờ Giuse, Đấng Cứu Thế, thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi
Thánh Thần của sự sáng tạo mới, được đưa nhập vào dòng dõi Đavít.
Từ đây với người cha là thánh
Giuse, Đức Giêsu thực sự thuộc hòang tộc Đavít, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa
từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa
mà là cho tòan thể nhân lọai. Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu
thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã tuyên bố:”Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng Tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy
Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh thánh về Con của Người;
Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Đavít, đã được tiền định là Con
Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
* Việc đặt tên.
Khi sai sứ thần đến trấn an
và báo tin vui cho thánh Giuse, Thiên Chúa còn muốn cho chúng ta biết sứ mạng của
Đức Giêsu. Thực vậy, lời sứ thần giải thích tên gọi của Đức Giêsu chính là lời
công bố sứ mạng của Ngài. Trong Sách Thánh, những tên gọi đều có ý nghĩa riêng
như chúng ta thường nói : tên là người. Vậy
tên Giêsu,
do từ Do thái Yehoshua có nghĩa là “Chúa
Cứu Độ”, “Chính Ngài sẽ cứu dân mình
khỏi tội”.
Giuse được ủy nhiệm một sứ mạng
“đặt tên cho con trẻ” dành riêng cho ngài. Mà, theo H. Vulliez giải thích :”Theo luật Do thái lúc bấy giờ, đứa bé hiện
hữu hợp pháp bằng tên mà người ta gọi nó, và nó thuộc dòng dõi người cha, dù đó
là người cha (sinh vật học) ruột thịt hay không”.
Theo ngôn ngữ Sêmít trong Thánh
Kinh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy
quyền làm cha pháp lý” của đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavít, để hòan tất mọi lời hứa của
Thiên Chúa”(x. Mt 1,1-17). Như vậy, tư cách con vua Đavít thực sự của hài
nhi và sự thực hiện trọn vẹn các lời tiên
tri cứu thế tùy thuộc ở sự vâng lời của thánh Giuse.
* Vai trò của thánh Giuse đối với Đức Giêsu.
Vai trò của thánh Giuse không
phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng
của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của hài nhi. Chính nhờ gần
gũi với Giuse mà Đức Giêsu sẽ học biết người cha là gi. Chính nơi ông, mà Ngài
sẽ nhìn thấy phản ánh nhân lọai tình phụ
tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng
khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có
kinh nghiệm về sự âu yếm của người cha
:”Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh
mà lại cho một hòn đá ư ? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn”
(Mt 7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái
mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse.
Tính cách làm cha của Giuse đối
với Đức Giêsu quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi
người xưng là Thiên Chúa, để chỉ sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Ngài lãnh nhận
tất cả mọi sự, hữu thể mà Ngài luôn luôn ý thức chỉ là một với Ngài. Đức Giêsu
tự động dùng lại danh xưng mà Ngài âu yếm gọi Giuse :”Cha, Ba, Bố”. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc
này với Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa mà Ngài đòi tiếp tục công trình sáng
tạo, Đức Giêsu lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Nazareth,
trong xưởng của bác thợ mộc Giuse :”Cho đến
bây giờ vẫn làm việc, và Ta cũng vậy, Ta cũng làm việc… Điều mà Cha làm, thì
Con cũng làm giống như vậy. Chính Cha yêu mến Con, và chỉ cho Con tất cả những
gì Ngài làm”(Ga 5,17-20).
Chính nơi những từ ngữ thường
ngày, những từ ngữ mà Ngài dùng để diễn tả cuộc đời Ngài, những mối liên hệ của
Ngài, những tình cảm của Ngài, mà Đức Giêsu muốn nói đối với Ngài, Thiên Chúa là
ai. Làm sao không tìm thấy trong tình cảm của cha mẹ Ngài những từ ngữ đúng đắn
nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ
tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Ngài:”Cha và Ta, Chúng Ta là một”(Ga 10,30) (Trích Fiches dominicales A,
tr 28.29).
III. ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ EMMANUEL.
1. Đức Giêsu sinh ra bởi Đức Mẹ
đồng trinh.
Chủ ý của bài Tin mừng hôm
nay không nhằm vào sự công chính của Giuse cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức
Giêsu trong cung lòng đồng trinh của Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần. Thông
thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Maria, người ta nghĩ tới sự đồng trinh thể
chất, ít ai để ý đến sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự
đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể
chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa. Sự đồng
trinh về tinh thần nơi Đức Maria quan trọng hơn rất nhiều.
Trước mặt Thiên Chúa, đồng
trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hòan tòan
dâng hiến bản thân cho Ngài để hòan tòan thuộc về Ngài, không còn thuộc về
chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Maria đã sống tinh thần “tự hủy”, để hòan tòan sống cho Thiên Chúa
và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ
rệt nhất là không còn coi ý riêng mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng
nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà
thôi. Vì thế, Đức Maria cũng có thể nói như Đức Giêsu:”Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi”(Ga
5,30)., hay như thánh Phaolô :”Tôi sống
nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20). Trọn cuộc
đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành
vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ “Xin vâng” khi sứ thần truyền tin cho Ngài
(JKN).
2. Đức Giêsu là Chúa và là người
thật.
Trong bài tụng ca, thánh
Phaolô đã viết:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là
Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,
sống như người trần thế”(Pl 2,6-7). Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm hèn,
trở nên con người như chúng ta. Ngài cũng sống trong gia đình, có cha có mẹ, có
anh em, trong xã hội có vua quan, có phép tắc, luật lệ, y trang như mọi người
chúng ta. Ngài đã hòan tòan “trở nên giống
phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,7), cũng “sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật”(Gl 4,4) như
chúng ta, cũng “phải trải qua nhiều đau
khổ mới học được thế nào là vâng phục”(Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài “không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của
ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm
tội”(Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó :”Không
có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.
Những điều của con người mà
Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình
thức của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm : phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột,
mất mát, roi vọt, nhục nhã.., Điều này làm cho chúng ta rất đuợc an ủi khi gặp đau
khổ. Chúng ta nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau
khổ của chúng ta. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết
thương của chúng ta (x. 1Pr 2,2b). Nghĩ như thế, chúng ta không cảm thấy cô đơn
trong đau khổ, vì chúng ta cảm thấy như Ngài đang đau khổ với chúng ta, để biến
những đau khổ của chúng ta thành một giá
trị cao cả.
Truyện : Đức Giêsu là người thật.
Tiến sĩ John Coleman là Hiệu
trưởng trường Đại học Haverford ở bang Pensylvania. Ông cũng là thành viên của
Ban Giám đốc ngân hàng liên bang. Mới đây, ông đã dần dần từ bỏ những địa vị đặc
biệt này. Vì muốn có kinh nghiệm về sự làm việc tay chân, ông đã cố gắng đào những
đường mương, làm việc trên cánh đồng, thu quét rác rưởi, rửa chén đĩa. Ông đã học
những gì phải làm với mồ hôi trán hơn là trí óc. Ông đã làm những công việc khó
khăn và mệt nhọc, nhưng vì không có khả năng chuyên môn, lại làm việc giữa những
người xa lạ, nên ông bị thải hồi làm người rửa chén đĩa. Ông đã bị thất nghiệp
một thời gian, nhưng nhờ những kinh nghiệm hiện thực đó, ông đã khám phá
ra những gì mà nhiều người đang trải
qua.
Có một Vị vô cùng nổi tiếng
và có ảnh hưởng hơn tiến sĩ Coleman. Tên Ngài là Giêsu Kitô, Ngài là Thiên Chúa
thượng trí và tòan năng, nhưng đã chấp nhận thân phận làm người, sinh ra dưới
hình hài con trẻ cách đây đã 2000 năm, mà chỉ ít ngày nữa, chúng ta sẽ hân hoan
cử hành Sinh nhật của Đấng Thiên Chúa làm người đó. Để chuẩn bị biến cố vui mừng này, chúng ta cần
suy nghĩ về Đấng là Thiên Chúa thật đã trở nên con người thật.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng TMCN năm A, tr 14)
3. Muốn được Thiên Chúa ở cùng.
Qua cách khởi đầu và kết thúc Tin mừng
mình với chủ đề :”Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thánh Matthêu, muốn nêu bật một
chủ điểm quan trọng đó là : qua việc Đức Giêsu Giáng sinh, Thiên Chúa trở nên
hiện diện với dân Người một cách mới mẻ đặc biệt. Để đánh giá được tính cách hiện
diện mới mẻ này, chúng ta cần nhắc lại ba cách Chúa dùng để hiện diện với chúng
ta.
a) Trước hết, Chúa hiện diện với chúng
ta qua việc sáng tạo, đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài. Chúa không chỉ
tạo dựng mọi sự mà còn gìn giữ cho nó được hiện hữu nữa. Sự hiện diện của Ngài
trong việc tạo dựng có thể ví như một máy chiếu xinê phóng ảnh lên trên màn
hình. Máy chiếu này làm hình ảnh hiện ra trên bức màn, và hình ảnh sẽ tồn tại
bao lâu máy chiếu vẫn còn lưu giữ hình ảnh đó. Trong trường hợp của Chúa cũng vậy,
Ngài làm cho tạo vật được hiện hữu và tạo vật sẽ tồn tại bao lâu Chúa còn bảo tồn nó.
b) Thứ đến, Chúa hiện diện qua lời Ngài
trong Kinh Thánh. Có người mô tả Kinh Thánh như là thư tình ông bố gử đến các con mình. Giống như một người
bố trần gian biểu lộ ý nghĩ, tư tưởng mình cho con cái trong một lá thư thế nào
thì Chúa cũng mạc khải tư tưởng Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy. Vì
thế, nói thật chính xác, Kinh Thánh làm cho tâm trí Thiên Chúa trở thành hiện
diện cụ thể rõ ràng, sống động đối với chúng ta.
c) Cuối cùng, Chúa hiện diện với chúng
ta qua Đức Giêsu, Con Ngài. Cùng với việc chào đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã
bước thêm một bước khổng lồ để tiến đến cư ngụ giữa chúng ta. Như thế, Chúa đã
hiện diện với chúng ta không chỉ qua việc tạo dựng, qua lời Ngài mà còn bằng đích
thân Ngài nữa (Trích M. Link, Giảng lễ Chúa nhật A, tr 29-30).
Chúng ta đang ở vào những ngày chót của
Mùa Vọng để đón chờ lễ Giáng Sinh. Chúng ta hãy bắt chuớc thánh Giuse mà cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Thánh Giuse đã đón nhận mầu nhiệm này
với lòng tin. Thiên Chúa cần đến Ngài để Ngài đứng ra chấp nhận làm cha Chúa Giêsu
trước pháp luật. Ngài đã thuận theo thánh ý Chúa để mọi công cuộc của Chúa được
diễn tiến theo đúng chương trình Ngài đã ấn định.
Chúng ta cũng phải cộng tác với Chúa để
mọi công việc của Chúa được diễn tiến trong trần gian và trong từng người chúng
ta theo đúng kế họach của Ngài. Chúng ta hãy làm cho mọi người cảm nhận được rằng
Đấng Emmanuel đang hiện diện giữa lòai người. Ngài hiện diện nơi từng người,
trong những người hèn mọn nhất trong chúng ta, để rồi chúng ta phải xác nhận rằng
“Tha
nhân chính là Chúa”.
Truyện : Chúa đến nơi tha nhân.
Một tác giả kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây : Vào buổi sáng nọ, người
thợ giầy thức dậy rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị chiếc xưởng nhỏ của anh cho
tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quí. Và người khách
đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện
ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những
tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi
hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt
anh không phải là Chúa, mà là người phát thư.
Sáng hôm đó là một ngày cuối đông, cái
lạnh đã khiến mặt mũi , tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không
nỡ để nhân viên bưu điện phải run lẩy bẩy ngòai cửa. Anh mời ông ta vào
nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậây cám
ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ
Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà.
Anh gọi nó lại, hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường
về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn báo cho người khách
quí biết mình phải đi ra ngòai.
Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu
phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé,
và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người
đang đợi anh, nhưng đó không phải là Chúa, mà là một người đàn bà với dáng vẻ
tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt
suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm
anh mới về đến nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến
thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe thấy tiếng Chúa nói
với anh :”Cảm ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho
Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm
nay”.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo
xứ Kim phát
Đà
lạt