CHÚA
NHẪT 12 THƯỜNG NIÊN A
NGƯỜI
TÔNG ĐỒ NHIỆT THÀNH
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc của tuần XI mời gọi các
Kitô hữu hãy trở nên sứ giả Tin mừng, đem ơn cứu rỗi của Chúa đến cho mọi người.
Tuần này, Chúa báo trước cho chúng ta rằng
muốn làm tông đồ của Chúa phải can đảm, vững tâm, đừng sợ trước những gian
nan thử thách. Nếu Chúa là chủ và là Thầy
mà người ta còn xử tàn tệ như thế, thì chúng ta, những tôi tớ, những môn đệ của
Chúa cũng không tránh khỏi con đường đó.
Nhưng Chúa khuyên chúng ta đừng lo âu sợ hãi vì Thiên Chúa quan phòng luôn
nâng đỡ, che chở và hộ phù mọi sứ giả của Chúa. Hãy có một đức tin vững vàng và
một đức cậy sáng suốt mà hành động, và phần thưởng của chúng ta đang chờ nếu biết
xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
Người ta thường nói :”Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử” : không
vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác
thì người tông đồ phải biết dấn thân và dấn thân cũng gần có nghĩa như liều mạng.
Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân. Ngài không nề quản những khó khăn vất
vả, những gian nan thử thách, ngay cả đến tính mạng của mình vì ngài luôn tâm
niệm :”Khốn cho tôi nếu không rao giảng
Tin mừng”. Các thánh Tông đồ cũng đã
dấn thân rao giảng Tin mừng và kết cục là đã nhận lấy cái chết vì Chúa.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở cho cúng ta cái
tư tưởng là “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ “đừng sợ” 365 lần trong Thánh Kinh. Người Tông
đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa. Chính Ngài
sẽ ban ơn đầy đủ để chúng ta có thể hòan thành sứ mạng đã được giao phó. Qua
kinh nhgiệm, thánh Phaolô đã khẳng định được tư tưởng trên khi ngài nói :”Omnia
possum in eo qui me confortat”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Gr 20,10-13.
Tiên tri Giêrêmia là một con người đau
khổ triền miên. Ông đã lãnh nhận nhiệm vụ tuyên sấm cho người Do thái, một nhiệm
vụ khó khăn và nguy hiểm: Ông phải vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng
phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là trò hề
cho họ nhạo báng sỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên : Ôi, hành hung, ức hiếp... nhưng
Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr 20,7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu
nguyện và ca tụng Thiên Chúa... Ông tiếp tục công bố sứ điệp vừa bằng lời nói,
vừa bằng đời sống.
+ Bài
đọc 2 : Rm 10,226-33.
Bài đọc 2 hôm nay chỉ là chủ đề phụ,
không hoàn toàn ăn khớp với bài đọc 1 và bài Tin mừng, theo đó, thánh Phaolô dạy
chúng ta rằng nếu vì liên đới với nguyên tổ Ađam mà chúng ta phải mang tội và
phải chết, thì nhờ kết hợp với Đức Kitô, chúng ta sẽ được lãnh nhận ân sủng và
sự sống.
Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn
tội lỗi và sự chết là lương bổng của tội lỗi, khiến cho tội của Adam trở nên “Tội
hồng phúc” (bài Exultet) vì nhờ đó mà Ngôi Hai Thiên Chúa mới xuống thế làm người
và ở cùng chúng ta.
+ . Bài Tin mừng : Mt
10,26-33.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin
mừng tuần trước : Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng nhưng đồng thời
Ngài cũng phải khuyến cáo họ rằng rao giảng Tin mừng không phải là một chuyện dễ
dàng, phải dùng đến nội lực , phải can đảm và vững lòng trông cậy trước những
khó khăn chồng chất, ngay cả khi bị hãm hại. Đừng sợ ! vì Chúa quan phòng luôn ở bên cạnh để che chở. Đừng sợ vì
Cha trên trời đã lưu ý đến cả những con chim chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc
trên đầu từng người. Chúa đã dựng nên tất cả, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn những thứ bé nhỏ như thế, huống chi đối với các
tông đồ của Chúa. Ngoài ra, Chúa còn hứa ban thưởng cho những ai dám tuyên xưng
Chúa ra trước mặt thiên hạ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chân dung người tông
đồ
Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo.
Mọi người phải trở thành sứ giả Tin mừng.
Sứ mạng thì cao qúi, nhưng thực thi sứ mạng đó rất cam go, việc rao giảng
đòi hỏi nơi người tông đồ một số đức tính mà thiếu nó thì không thành công. Dựa
theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cho rằng muốn thành công trong việc rao giảng,
người tông đồ phải có 3 đức tính sau đây :
I. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI
DẤN THÂN.
Đứng trước những công việc khó khăn, ai cũng thấy ái ngại. Những khó khăn
trong việc rao giảng Tin mừng không phải là tình cờ hay do may rủi, nhưng đã được
Chúa Giêsu báo trước : “Thầy sai anh em đi
như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16).
Con chiên sẽ là mồi ngon cho bầy sói, nguy cơ bị ăn thịt luôn rình rập. Người tông đồ phải sống hiền lành như
con chiên, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Tin mừng.
Chúa Giêsu cũng còn cho biết : số phận
của tông đồ là bị bách hại, vì nếu Chúa Giêsu mà còn bị bách hại thì làm sao họ
lại tha các môn đệ ? Vì thế, Chúa đã dặn trước :”Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành
khác. Thầy bảo thật anh em ; anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con
Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ không
hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24).
Bài đọc hôm nay cũng cho biết tiên tri
Giêrêmia phải loan báo cho dân biết những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ trút xuống
dân. Những lời loan báo này chẳng hay ho gì đối với dân, lại làm cho họ bực
mình, nên họ đã chống đối ông, hành hạ ông và muốn giết ông (x. Gr 20,10-11). Các
tông đồ nhận trách nhiệm đi rao giảng lời Chúa cho muôn dân, cũng bị người ta
chống đối, hành hạ và giết chết. Các ông
đã phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm.
Số phận các ông cũng giống như Chúa Giêsu.
Những Kitô hữu đầu tiên rất ý thức về
sự quan trọng của việc truyền bá đức
tin. Họ mang trong lòng lời dặn dò của Chúa Giêsu trước khi về trời là hãy rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái
đất. Tuy nhiên, loan báo Tin mừng một cách công khai đã không phải là một chuyện
dễ dàng, bởi vì, trong thời gian đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đã bị bách hại.
Giữa những người Do thái, nhiều người xem những người chuyển sang Kitô giáo như
là những kẻ phản bội, và tìm cách loại trừ. Làm chứng đức tin trong thời kỳ này,
đôi khi là liều mạng sống. Chính vì thế mà một vài người bị cám dỗ sống âm thầm,
kín đáo, không dám lên tiếng.
Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng.
Ngài nói :”Khốn cho tôi, nếu tôi không
rao giảng Tin mừng”.. Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi
nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về
một số nguy hiểm đã phải trải qua : 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn,
một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm (2Cr 12,24-25). Ngài phải được
gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất
chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì :
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
Anh
hùng hào kiệt có hơn ai.
(Nguyễn
bá Học)
Chúa muốn cho các tông đồ của Ngài phải
yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa
hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng : con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng
lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh mục : con có muốn tận hiến toàn thân cho
Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không ?
- Thưa con muốn.
Một
sự dấn thân trọn vẹn : Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong
những điều cao cả của cuộc sống con người.
Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn (André Sève, Sương mai, tr 77).
II. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI
CAN ĐẢM : ĐỪNG SỢ.
Con người không biết sợ được coi là một
người can đảm. Nói theo kiểu bình dân, người ta gọi đó là người “có gan
cóc tía”. Con người dám liều mạng vì lý tưởng cao cả, không gì có thể lay
chuyển được chí khí của họ., không khó khăn nào có thể làm cho họ chùn bước hay
bỏ cuộc. Tấm gương sán lạn của thánh Phaolô tông đồ đã chứng tỏ điều đó. Cuộc hành
trình truyền giáo của Ngài đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhưng không
gì làm cho ngài chùn bước :
Cũng có lúc mưa dồn sống vỗ,
Quyết
ra tay buồm lái với cuồng phong,
Chí
những toan xẻ núi lấp sông,
Làm
nên đấng phi thường đâu đấy tỏ.
(Nguyễn
công Trứ)
Nhưng bình thường, con người có nhiều
nỗi lo sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thấn v.v…
Cái sợ làm tê liệt con người : không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng
suốt, không giải quyết được tình huống... Ngay cả những người làm việc tông đồ
cũng không tránh khỏi nỗi sợ : sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe
mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin mừng... Vì sợ
như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu
cũng bảo cho các tông đồ :”Đừng sợ”.
Ngài đã thấy trước bao nhiêu gian nan khốn khó đang chờ đón các ông khiến các ông
nản lòng. Hãy can đảm lên vì đã có Chúa ở
bên. Các ông hãy nhớ lại lần vượt biển bị sóng gió đánh tơi bời, tưởng chừng
thuyền chìm tới nơi. Nhưng Chúa Giêsu đã
can thiệp, sóng gió phải vâng lời Ngài, biển lại trở nên tĩnh lặng như tờ. Ngài khuyên bảo các ông một mặt dựa vào Chúa,
một mặt cứ vững tay chèo lái con thuyền đời mình :
Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng
cả mặc sóng, chèo cho có chừng.
(Ca dao)
Chúa Giêsu bảo :”Đừng sợ vì không có gì che giấu mà sẽ không bị tỏ lộ ra, không có gì bí
mật, mà người ta sẽ không biết”. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm
ngôn La tinh có câu :”Chân lý là vĩ đại và
chân lý sẽ thắng”. Đức thánh Cha
Gioan Phaolo II hay nhắc đến đề tài này trong các huấn dụ của ngài.
Khi vua Giacôbêâ VI hăm dọa treo cổ hoặc
lưu đầy André Meville, ông khảng khái đáp :”Vua
không thể treo cổ hoặc lưu đầy chân lý”.
Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng
một ngày kia mọi sự được phơi bầy, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng
của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người nhận đúng phần công của
mình.
Người tông đồ nói điều mình đã nghe Chúa
Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể
toi mạng. Người đời không ưa chân lý vì
“chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau” (Diogens). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng,
có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng
ngài nói lớn như nói với chính mình :”Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều
ngươi nói, có vua Henri đấy”. Kế đó, ngài ngưng, rồi nói tiếp :”Latimer, Latimer.
Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người giảng đạo đem một sứ điệp nói
cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi chôn Gioan Knox, người ta nói về ông :”Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi
trước mặt loài người”. Chứng nhân
Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán
xét tạm thời. Người truyền giảng là người lắng nghe cách cung kính, và nói với
lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên
Chúa.
Các tín hữu thời sơ khai đã gặp bao
nhiêu khó khăn, nhưng họ tỏ ra luôn vững tin, không nao núng trước những thử thách.
Sử gia Tertullianô đã viết về họ :
“Những người tin theo Chúa được
mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên
họ đã phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ.
Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. . Câu :”Kẻ muốn
theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn
họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói
ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như
hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu.Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ,
nếu họ đi trệch đường”.
Người làm tông đồ phải được huấn luyện,
tập cho mình biết hy sinh chịu đựng mà không kêu ca phàn nàn. Người làm tông đồ hãy theo cách huấn luyện
thanh niên ở thành Spartes : Hằng năm, một số trẻ em thành Spartes cử hành lễ
CHỊU ĐỰNG, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách nhưng
không được thối chí hay khóc lóc. Châm
ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngoài ra, các em phải tự mưu
sinh ở trong rừng một thời gian, chiến đấu với thú rừng để sinh tồn .
Chớ gì người tông đồ tỏ ra kiên trung, sẵn sàng
vượt qua mọi khó khăn để một lòng một dạ theo chân Chúa dù phải đòn vọt, gông cùm
hoặc phải nhận lấy cái chết :
Chân xiềng cổ lại đeo gông,
Chết
anh anh chịu, anh không buông nàng.
(Ca
dao)
Truyện : Gương can đảm.
Các
vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như sau :
Ghèssèssén
là một bé trai Eùthiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui ve ûvà sẵn sàng giúp đỡ mọi
người. Em thuộc một gia đình quí tộc lâu
đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Oâng không bao giờ chấp nhận
kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.
Lớn
lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các
nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các
em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước
ao được rước lễ. Nhưng cac Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến
của ba má em.
Ngày
nọ, em bị Ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng
em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực
để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ
chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi :
Con
đến gặp Ba con, cùng đi với con có Mẹ con. Ôâng ôm hôn con, và con hôn đầu gối
Ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve :
- Ta và Mẹ đã quyết định
cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ : “Dạ”.
Con đã trả lời :
- Không.
Cha con nói gằn giọng
:
- Mày nói gì ?
- Con nói “Không”,
vì con muốn được học ở nơi các Cha Cố.
- Im đi ! Ta muốn mày
cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!
- Thưa cha, con đã là
Công giáo trong tâm hồn rồi.
Nghe các lời này, ông
nổi cơn tam bành, hét to :
- Đồ bị chúc dữ ! Mày,
con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo ! Ta thích mày chết đi còn hơn !
Ôâng nghiến răng, nắm
tay đấm. Ôâng dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la
to :”Phải phạt nó”.
Mẹ con thì im lặng.
Ba con lặp lại :
- Hãy bỏ tôn giáo đó
đi ! Nếu không, tao giết mày như một con vật.
- Con không thể bỏ đạo
thánh được, thà chết còn hơn. Ba là Ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là
Cha của linh hồn con.
Thế là một trận đòn
với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do Ba
con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng
tay.
Ba con lại hỏi một lần
nữa :
- Có bỏ đạo Công giáo
không ?
Con trả lời :
- Không, thà chết…
Trải
qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững
lập trường bắt con bỏ đạo. Ôâng hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích
!
Ngày
7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với Ba cậu :
- Cho con đến Gouala, nhà các Cha.
Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm
gì khác. Ôâng đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.
Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng
tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói :
-
Các Cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo
nữa sao ? Xin đừng sợ ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu ! Vì Ngài,
con sẵn sàng dâng cả mạng sống con.
III. NGƯỜI TÔNG ĐỒ
LUÔN TRÔNG CẬY VÀO CHÚA.
Trên bước đường truyền giáo, người tông
đồ không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết trông cậy vào sự quan phòng của
Chúa. Tuy không thấy Chúa nhưng phải tin rằng lúc nào cũng có cánh tay của Chúa
đang hướng dẫn và hộ phù.
Người phó thác vào Chúa quan phòng tin
rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống :”Ta hằng ở với con” (Gr 1,10) hoặc “Thầy sẽ ở với
các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 26,20).
Người tín thác vào Chúa luôn tin rằng
Chúa có kế hoạch của Ngài và không có gì xẩy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa
:”Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà
Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”(bài
Tin mừng hôm nay).
Người phó thác cho Chúa xác tín rằng
Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Một người cha tốt lành lo cho con tất cả,
đem đến cho con những gì tốt lành nhất :”Cha
chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”(Mt 6,32).
Truyện : Mối dây liên lạc với Thiên Chúa.
Một em bé chơi diều, thả con diều lên
cao đến độ con diều trở nên như một chấm
nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời,
một người qua đường hỏi em :
- Em đang làm gì vậy ?
Em bé trả lời :
- Cháu đang chơi thả diều.
Người kia ngạc nhiên hỏi tiếp :
- Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên
trời cả.
Em bé thưa lại :
- Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc
chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong
tay cháu đây mà.
Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông
thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và
tình yêu thương của Ngài.
(Hạt giống âm thầm,
tr 196)
Chúng ta hãy tiếp tục triển khai lòng
tin cậy vào Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu câu nói đầy ý nghĩa này :
Thiên Chúa đóng kín
cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.
Đây là câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống
của đạo sâu xa. Thiên Chúa đóng kín cửa chính đó là khi chúng ta gặp thử thách,
đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của
Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc ta đương đầu với thử thách
khó khăn. Lúc đó chúng ta nhớ rằng : Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một
lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần
trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, để hướng
chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn, và trước đó ta không ngờ những kinh nghiệâm đau
thương tiêu cực, mà ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên
Chúa, để mời gọi ta bước ra một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị ta sẵn sàng
đón nhận những hồng ân mới.
Nhìn lại cuộc sống, có thể mọi người
chúng ta sẽ cảm nghiệm được những giây phút, Thiên Chúa như đóng kín cửa chính,
nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới tốt đẹp hơn
cho cuộc đời chúng ta.
Khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, thì
Ngài sẽ mở ra cửa sổ, chúng ta hãy nhìn trong những biến cố đau thương, tiêu cực
xẩy ra trong cuộc đời, với tinh thần tích cực lạc quan và sự tin tưởng vào sự
quan phòng của Chúa. Chính những lúc ta gặp thử thách đen tối, là lúc ta cần
tin tưởng phó thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ngắm nhìn thấy những cánh cửa sổ
Thiên Chúa mở ra cho cuộc đời mình. Mỗi
người chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Ngài, cần lưu hướng về Ngài
trong việc thực hành cầu nguyện đối thoại với Ngài. Khi gặp thử thách đau thương,
chúng ta không nên giảm bớt hay bỏ quên việc cầu nguyện, chạy đến tiếp xúc với
Thiên Chúa.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt