CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN A
BIẾT ĐÓN NHẬN THA NHÂN
A.DẪN NHẬP.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc ta hãy lưu tâm đến việc tiếp nhận
tha nhân, nhất là đón nhận những người nghèo hèn, bé mọn, cô thế cô thân, bị bỏ
rơi... Đón tiếp tha nhân chính là đón nhận Chúa Kitô. Muốn đón tiếp phải có lòng
yêu thương, thành thật, hy sinh, từ bỏ, tế nhị, cởi mở. Biết đón tiếp là bước
khởi đầu của tình yêu. Chúa Giêsu hứa sẽ ban thưởng bội hậu cho những ai có lòng
quảng đại biết tiếp rước những người nghèo hèn, làm phúc bố thí cho họ dù chỉ một
bát nước lã.
Qua bài đọc sách Các Vua, một bà già son sẻ sang trọng miền Sunêm rất
giầu lòng quảng đại đã mời tiên tri Eâlisê dùng bữa khi tiên tri đi ngang qua.
Do lòng quảng đại bác ái đó, bà đã khám phá ra
đây là người của Thiên Chúa. Bà lại càng trân trọng tiếp đãi nồng hậu hơn
: dọn phòng trên lầu, có giường, có ghế, có đèn… Qua nghĩa cử “cho khách đỗ nhờ”, bà ta đã được
đền đáp xứng đáng : sẽ có được con trai trong lúc hai ông bà đã cao niên.
Sự đón tiếp cần phải với tấm lòng.
Đón tiếp vào nhà, với tinh thần chỉ có thể thực hiện nếu có sự đón tiếp với tấm lòng chúng ta, vì
nói cho cùng, đón tiếp là tự hiến dâng : đấy là biết từ bỏ sự thỏai mái riêng tư,
sự yên tĩnh của mình để lo cho người khác.
Một sự hiến dâng như thế chỉ có thể thực hiện theo lệnh của con tim chúng ta. Sự hiến dâng này chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó biểu
hiện sự đón tiếp từ trong lòng, làm cho tình thương nên trong sáng và bất vụ lợi.
Chúa Giêsu đã nói :”Kẻ nào đón tiếp các
ngươi là đón tiếp chính ta”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2V 4,8-11. 14-16
Trên đường sứ mạng, ngày kia tiên tri Êlisê ghé thăm nhà một người đàn
bà ở Sunêm. Bà này tỏ ra rất qúi trọng nhà tiên tri vì bà coi ông là vị thánh của
Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà đã dọn cho tiên tri một phòng ở trên lầu
với đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào tiên tri cũng có thể đến trú
ngụ.
Đáp lại tấm thịnh tình của bà, tiên tri đã cầu khẩn Thiên Chúa ban
tặng cho bà một đứa con vì bà hiếm muộn
và chồng bà đã già. Lời cầu xin của ông đã được chấp nhận. Ông nói với bà :”Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ
có cháu trai bồng” (2V 4,16).
+ Bài đọc 2 : Rm 6,3-11.
Bài đọc 2 chỉ là chủ đề phụ. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh
Phaolô dạy cho các tín hữu biết rằng nhờ Phép Rửa chúng ta đã cùng được mai táng
với Đức Kitô, và sẽ được cùng với Ngài sống lại hiển vinh để hiệp thông một cách
nhiệm mầu vào chính sự sống của Thiên Chúa :”Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên
Chúa, trong Đức Giêsu Kitô”(Rm 6,11).
+ Bài Tin mừng : Mt 10,37-42.
Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn
bước theo Ngài. Theo Chúa thì phải yêu mến Ngài trên hết, trên cả cha mẹ vợ con
và trên cả thân mình. Như vậy Ngài có ý nói theo Ngài thì không được để bị ràng
buộc bởi gia đình.
Ngoài ra, Chúa đòi chúng ta yêu mến Ngài hơn tất cả trong việc vác
thập giá theo Ngài và biết đón tiếp người khác nhất là những người bé mọn. Điều
này đòi hỏi người theo Chúa phải quên mình. Quên mình là từ bỏ những gì liên
quan đến con người và mọi liên hệ của bản thân từ sự sống cho đến tình cảm.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thương
người có mười bốn mối
Mỗi sáng Chúa nhật chúng ta đều đọc kinh “Thương người có mười bốn mối : 7 mối qui về thể xác và 7 mối qui về
tinh thần , nghĩa là thương con người toàn diện. Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nhắc nhở
chúng ta phải lưu tâm tiếp đón mọi người,
không những phải tiếp đón các sứ giả của Chúa một cách cẩn trọng mà còn đón tiếp
tất cả những kẻ bé mọn vì tất cả đều là môn đệ của Chúa.
I. BÀI HỌC CHÚA DẠY HÔM NAY
Nhà triết học hiện sinh Pháp, ông Jean Paul Sartre, có nói một câu làm cho chúng ta ngạc nhiên :” L’enfer
c’est les autres”: Tha nhân là hỏa ngục đối với ông. Thật là một câu nói quái gở
vì nó đi ngược hoàn toàn với Tin mừng.
Tha nhân là ai ? Họ ở đâu ? Làm thế nào tìm được
họ ? Thưa, họ là mọi người ở quanh chúng
ta, chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng, có thể động chạm đến họ. Nếu chúng ta hỏi Chúa Giêsu : người khác hay
tha nhân là ai ? Chúa Giêsu sẽ trả lời ngay :”Tha nhân chính là Ta”bởi
vì Ngài đã khẳng định :”Sự gì ngươi làm
cho một người bé mọn nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi buộc
các môn đệ của Chúa phải yêu mến Chúa trên hết, hơn cả cha mẹ anh em, ngay cả mạng
sống của mình. Đây là một đòi hỏi rất khắt khe và dứt khoát. Sau đó, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tiếp đón
các môn đệ của Chúa.
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng
sai đi và người được sai đi :”Ai tiếp đón
các con là tiếp đón Thầy, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.Sau
đó, để phân biệt chi tiết sự đón nhận theo ba mức độ giảm dần một cách nghịch lý
: các “tiên tri”, những “người công
chính”, những “kẻ bé mọn”, và
long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm.
Các “tiên
tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận
trong Giáo hội sơ khai.
Những “người
công chính” có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu.
Còn nhữõng “kẻ bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Kitô. Họ cũng đáng được trân
trọng và yêu mến đặc biệt.
(Fiches dominicales, năm A, tr 215)
Tất cả những điều nói trên chung qui lại cũng
chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa
là Kitô
hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mạng của Thầy mình.
Ngay cả người Kitô hữu khiêm hạ nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho
mình những điều đã nói trên.
.
Ta phải lưu tâm đến hết mọi người và phục vụ họ ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất,
như một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng
là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta
sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm cho ta thỏa mãn.
II. GƯƠNG SÁNG VỀ SỰ ĐÓN TIẾP.
Trong Kinh thánh chúng ta thấy còn ghi lại một
vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn
luôn giữ được tính cách thời sự của nó.
1. Ông Abraham (St 18).
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi
thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc
họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó
là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông,
ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.
2. Một
gia đình ở Su-nêm.
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất
hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên
tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do.
Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa
ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ :”Vào
thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (Bài đọc 1).
3. Gia đình ba chị em ở Bêtania.
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi
qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả
Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà
nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô
là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là nhậu và chuyện trò với Chúa.
Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của
ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.
Truyện : Một nghĩa cử tuyệt đẹp.
Một hôm, hòang đế Napoléon của
Pháp vào một nhà hàng nọ. Đi theo hòang đế chỉ có một vị sĩ quan tùy viên. Vì
không muốn cho ai nhận ra mình là hòang đế, nên Napoléon và viên sĩ quan cận vệ
cải trang ăn mặc như thường dân.
Sau khi đã ăn uống xong, bà
chủ nhà hàng đến tính tiền. Tổng cộng số tiền phải trả là 14 quan. Viên sĩ quan
cận vệ mở chiếc cặp xách tay để lấy tiền. Bỗng mặt ông tái mét đi vì trong cặp
không có đồng tiền nào cả.
Thấy thế, Napoléon hiểu ý nói
nhỏ với viên sĩ quan :”Đừng lo, để tôi trả cho”. Nói rồi ông móc túi lấy tiền.
Nhưng sờ túi trên, túi dưới, túi trước, túi sau, ông không thấy có đồng tiền nào
cả. Napoléon nhìn viên sĩ quan nhướng mắt, nhún vai.
Trước tình thế đó, viên sĩ
quan nói với bà chủ :
- Thật là rủi ro cho chúng tôi, chúng tôi quên
không đem tiền theo. Xin bà vui lòng cho tôi thiếu một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ
trở lại thanh tóan với bà được không ?
Bà chủ nhất định không chịu và dọa rằng nếu
hai người không chịu trả tiền ngay, thì bà sẽ gọi cảnh sát.
Một anh bồi bàn theo dõi công việc từ đầu cảm
thông với hai người khách nên nói với bà chủ :
- Quên đem tiền trong túi, đó là điều thường xẩy
ra. Vì thế, xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì ! Theo tôi thì hai ông đây là người
rất thật thà, không có ý lường gạt đâu.
Nghe anh bồi bàn nói, bà chủ vẫn không chịu và
cứ nằng nặc đòi kêu cảnh sát.
Thấy thế, anh bồi bàn móc túi lấy ra 14 quan
trao cho hai người khách và nói :”Đây tôi cho hai ông mượn để thanh tóan với bà
chủ”.
Thế là nhờ anh bồi bàn mà Napoléon và viên sĩ quan mới có thể rời khỏi
nhà hàng.
Một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà
hàng. Ôâng gặp lại bà chủ và nói :
- Bà đã tốn kém mất bao nhiêu để tạo lập nhà hàng
này ?
Bà chủ trả lời : 30.000 quan..
Viên sĩ quan mở chiếc cặp da xách tay lấy ra
30.000 đặt trên bàn và nói :
- Vâng lệnh của chủ tôi là hòang đế Napoléon,
tôi xin bà sang lại nhà hàng này cho anh bồi bàn, người đã giúp chúng tôi đang
lúc chúng tôi kẹt không có tiền.
III. CÁCH THỨC ĐÓN TIẾP
Trong việc tiếp đón, người ta phải chú ý đến
phương diện vật chất và tinh thần. Phương diện nào cũng quan trọng để làm cho
khách được hài lòng, nhưng phương diện tinh thần thì quan trọng hơn.
1. Phương
diện vật chất.
Khi đón khách vào nhà, ai cũng muốn khách được
hài lòng : dọn dẹp nhà cửa, trang bị đồ dùng cần thiết, cơm nước ngon lành... Phần trang bị vật chất càng đầy đủ càng nói lên
lòng hiếu khách, nếu không sợ khách phê bình “khẩu thiệt đãi chi”. Gia đình
ở Su-nêm chẳng những đón tiếp tiên tri Êlia mà còn dọn cho ông một căn phòng để
những lần sau ông tới đã có chỗ trọ. Dĩ
nhiên, mến khách thì càng tốn kém, nhưng đó là điều kiện bắt buộc.
2. Phương diện tinh thần.
Khía cạnh tinh thần trong việc đón tiếp khách
mới là quan trọng. Người đời thường nói
:”Người ta thèm lòng chớ không thèm thịt”
hoặc câu khác :”Cách cho thì qúi hơn của
cho”. Cách tiếp đón qúi ở chỗ thành
thực, quảng đại và cởi mở, chú trọng đến con người hơn là của cải. Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong
nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ. mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người
khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
Đối với hai trường hợp đón tiếp khách ở trên,
tại sao những chủ nhà ấy quảng đại đón tiếp khách ? Thưa, vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn
quan tâm tới người khác.
Abraham
lo cho ba người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ
ngơi để lấy sức.
Gia đình ở Su-nêm lo sợ tiên tri Êlia phải bơ
vơ nơi miền đất lạ, không có chỗ nương nhờ trong hoàn cảnh khó khăn đó.
Gia đình ở Bêtania thì muốn dành cho Chúa Giêsu
và môn đệ có chỗ nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc mệt nhọc. Gia đình kiếm
cho Chúa có chỗ dừng chân mỗi khi đi qua Bêtania.
IV. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO SỰ ĐÓN TIẾP
Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát :
mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công
cho ở đời này hay đời sau.
Trở lại ba việc đón tiếp trên, phần thưởng của
lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống
: hai đứa con đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho
Lagiarô đã chết bốn ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người
khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Theo bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng
định không có việc gì làm cho người khác mà bị bỏ quên, Chúa ghi nhớ tất cả và
sẽ thưởng công cho, mặc dù việc ấy rất nhỏ nhặt :”Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi
với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất
phần thưởng đâu”.
Đến ngày phán xét, ngày thưởng phạt đích đáng,
Chúa Giêsu sẽ nói với mọi người chúng ta :”Mỗi
lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho
chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ngược lại
là chúng ta đã không làm cho Chúa và sẽ phải lãnh hình phạt đời đời
.
Truyện : một chén ân tình
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính
như sau :
Vào sáng một mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar
Singh và một người bạn du lịch qua miền
núi Bắc Ấn độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên
tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.
Đang lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, họ lại thấy một
người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp
người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy
chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.
Chạnh lòng thương, Sadhu ở lại bên cạnh kẻ bất
hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại,
Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hoà quyện lấy nhau khiến
người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.
Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy
một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ
càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng
nay.
(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 85)
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn đưa
ra một điều kiện nghịch lý cho các môn đệ Người theo :”Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,
thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39). Cứ
thực hành đi rồi sẽ thấy nó không nghịch lý nữa.
Chúng ta thấy nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã
minh chứng hùng hồn cho lời nói của Chúa Giêsu ở trên. Bạn của Sadhu đã cố giữ
lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mạng “vì anh em” nên đã được
sống. Một người không có khả năng từ bỏ
mình vì anh em thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy
lại”. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người
đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang cũng để nói lên lời yêu
thương con người.
Mỗi ngày Chúa nhật đọc kinh
“Thương người có 14 mối”, chúng ta hãy xem lại con người chúng ta còn thiếu sót
những mối nào trong kinh ấy, hãy cố gắng thực hiện tất cả. Mỗi lần chúng ta làm
cho tha nhân điều gì thì đó là chúng ta đang làm cho Chúa dù cho người bé mọn
chỉ một chén nước lãø thôi.
“Một chén nước lã” đối với Chúa là
“một chén ân tình”. Điều đó
cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào, cho dù chỉ là
nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó trở nên
vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống Kitô hữu.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt