CHÚA
NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU RỖI MỌI NGƯỜI
+++
A. DẪN NHẬP.
Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ
cho một dân tộc nào mà muốn dành cho mọi dân tộc không phân biệt mầu da, tiếng
nói. Dân Do thái là dân được tuyển chọn, dân riêng của Chúa được chuẩn bị để đón
nhận ơn cứu độ, đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu , nhưng họ dã từ chối, lại
còn chống đối Ngài.
Người đàn bà Canaan là đại diện cho dân
ngoại được đón nhận đức tin, được Chúa ban hồng ân theo lòng tin khiêm tốn và
kiên trì của bà. Chính Chúa Giêsu đã phải bỡ ngỡ về lòng tin sắt đá của bà nên đã
khen ngợi :”Lòng tin của bà mạnh thật”,
và đáp lại lòng tin ấy Chúa Giêsu đã nói :”Bà
muốn sao thì được như vậy”.
Chúng ta là những Kitô hữu , ai cũng đã
có đức tin nhưng nhiều khi còn non yếu, có khi còn non yếu hơn cả người ngoại. Hãy củng cố đức tin ấy
và sẵn sàng đón nhận những thử thách Chúa gửi cho để đức tin của chúng ta mỗi
ngày một tăng trưởng dưới sứ hướng dẫn và che chở của Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Is 56,1.6-7.
Tiên tri Isaia đã viết đoạn sách này từ
một thế kỷ sau cuộc lưu đầy ở Babylon. Dân Israel được trở về quê hương, xây dựng
lại đền thờ Giêrusalem, và đền thờ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt tôn giáo
và xã hội. Isaia cho biết : Thiên Chúa
không những chỉ dành ơn cứu độ cho dân riêng của Ngài là Israel, Ngài còn muốn
mở rộng dân này bằng cách nhận tất cả những ai thừa nhận Ngài như là Đức Chúa
chân thật và duy nhất, mà hiến thân phục vụ Ngài vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
+ Bài
đọc 2 : Rm 11,13-15.29-32.
Trên bước đường truyền giáo, thánh
Phaolô thấy dân Do thái đã được chuẩn bị đón Chúa lại khước từ không nhận Người. Tuy thế, Ngài không thất vọng, vì dân ngoại đã
có lòng tin mạnh mẽ nên được Thiên Chúa xót thương, để cho dân Do thái, dân đã
có đạo từ lâu, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên
phải có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân
ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh mẽ của dân
ngoại, đánh thức lòng tin của dân Chúa để sẽ được Chúa xót thương.
+ Bài
Tin mừng : Mt 15,21-28.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta
: Thiên Chúa không phải chỉ dành riêng cho dân Do thái mà còn ban ơn cho cả dân
ngoại. Người đàn bà Canaan là một người
dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân của Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài
với dân Do thái mà thôi, theo lời Ngài đã hứa với họ, nhưng Chúa không ngần ngại
nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.
Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy ?
Vì bà đã có đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy nên bà ấy đã làm
cho Chúa xiêu lòng : Ngài đã nhận lời cầu xin của bà và hứa cho con bà khỏi bị
quỉ ám.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lòng
tin của bà mạnh thật
Lòng tin mạnh mẽ cần thiết, thế nên lòng tin ấy cần phát sinh tâm tình
khiêm hạ, can đảm, kiên trì cũng như niềm hy vọng thật sự thì lòng tin ấy mới có hiệu lực và ích lợi. Người đàn bà Canaan ngày hôm nay, do lòng tin
mạnh mẽ, nên bà đã khiêm hạ thực sự, nhìn nhận tất cả những thành kiến của người
khác đối với mình, sự khiêm hạ này đã khiến Đức Kitô động lòng như thế nào ?
Bà cũng đã can đảm nói lên ước muốn và
kiên trì xin cho được một ân huệ, bất chấp
sự thinh lặng hững hờ của Chúa Giêsu, và bà đã không thất vọng vì những câu trả
lời của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Trái lại, qua những lời bà nghe thấy, bà
nắm chắc được tia hy vọng lóe sáng ở đó : Ngài để cho vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống...
nhờ niềm hy vọng mà lời cầu xin của bà ta có sức mạnh.
I. NÓI VỀ ĐỨC TIN.
1. Tin là gì ?
Đức tin là hạt giống thiên ân.
Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi
hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo”
(ĐHY Nguyễn văn Thuận).
Phân tích chữ TIN.
Chữ TIN bởi chữ TÍN.
Theo Hán học, chữ TÍN gỗm chữ ‘nhân” và chữ “ngôn”, nghĩa là tin vào lời người khác nói.
Tiếng Pháp thì chữ CROIRE , nguyên ngữ của nó nghĩa là ‘dựa vào
lời lẽ kẻ khác và chứng kẻ khác mà tin” vì họ không thể sai lầm và không thể đánh
lừa ta.
Chữ TIN còn có nghĩa rộng là nhận làm
chắc chắn những cái ngũ quan ta không thấy, chỉ nhờ lý luận của ta mà biết có
thực. Ví dụ : Tôi thấy có vùng khói trước
mặt tôi, tôi tin có lửa sau bức tường che mắt tôi.
Theo SPINOZA và những triết gia khác đã phân tách : tin là việc hoàn toàn
tùy thuộc vào lý trí, chúng ta tin vì những lý chứng hiển nhiên đáng cho ta
tin. Một ý tưởng hiển nhiên nó thúc bảo chúng ta phải tin, chúng ta không thể
phủ nhận không tin được ...
Ông J. Calvet nói :”Dĩ nhiên lòng tin phải dựa vào lý chứng bởi
vì một phần nào nó cũng là kiến thức về chân lý, nhưng nó là một hành động tự
do của ý chí cho chúng ta tin tưởng gieo mình vào cánh tay của Thiên Chúa, khi
ta tới chỗ nào mà khoa học không còn
gì cho ta biết nữa” (J. Calvet, Prends
et lis)
(Lê thành Trị, Tìm hiểu Duy linh, tr
91-92)
2. Thấy và hiểu mới tin ư ?
Khó hiểu là một chuyện mà phi lý lại là
một chuyện khác ! Khó hiểu mà hợp với chân lý thì không sao. Chỉ sợ khó hiểu mà
đi ngược với chân lý thôi.
Biết bao điều bí ẩn trong vũ trụ mà ta
chưa hiểu hết được, hay nói một cách thông thường, chán chi những sự dễ dàng trước
mắt mà ta không hiểu nổi và không hiểu hết.
Trí khôn con người chỉ hiểu biết một mức
nào thôi, cũng ví như cậu học sinh không thể hiểu biết được ngang với trình độ
giáo sư. Ví dụ : một em bé, học mới
trình độ toán cộng, em làm một bài toán : 1+1+1 = 3. Nhưng tôi lại bảo rằng cũng phương pháp làm
toán mà ba con số 1 bằng số 1 : 1x1x1 = 1.
Em bé chưa hiểu quy tắc phép nhân nên
không hiểu biết được. Vậy thì hỏi em bé này có tin phương pháp làm toán này không
? Ví dụ trên cũng như trăm ngàn ví dụ khác
đều chứng minh cho ta thấy rằng : chán chi sự việc trong đời rất tầm thường mà
ta không thể hiểu hết được nhưng ta vẫn tin. (Sđd, tr 88-89).
Truyện : Hiểu mới tin
Một vị trạng sư tự phụ rêu rao trước mặt
đông người rằng : mình chỉ tin cái mình hiểu thôi. Trong đám đông có một thằng
nhỏ đã được nghe cha xứ giảng, đứng lên hỏi :
- Thưa ông, nếu vậy ông không tin những
gì ông không hiểu ư ?
- Dĩ nhiên thế.
- Thưa ông, vậy xin ông cho cháu biết
: tại sao ông cử động được ngón tay ?
- Tại vì ta muốn, chỉ có thế thôi.
- Ông muốn, vậy sao ông không thể cử động
được hai tai ?
Vị trạng sư bí lối không biết trả lời
thế nào, bèn mắng :
- Thằng nhỏ này mày muốn giảng cho ta
phải không ?
Nghe vậy mọi người đều cười.
(Trần công Hoán, Tìm hiểu ít thắc mắc, tr 50)
II. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI
ĐÀN BÀ CANAAN.
Người đàn bà Canaan ngoại giáo này có
một đức tin đặc biệt đã làm cho Chúa phải xiêu lòng mà ban cho bà được như ý sở
nguyện :”Bà muốn thế nào sẽ được như vậy
“(Mt 15,28). Như vậy, đức tin của người đàn bà này có nhiều đặc tính, chúng
ta cùng tìm hiểu.
1. Đức tin mạnh mẽ.
Tại sao một số người co ùđức tin mạnh
mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém ? Tại sao một số người thấy đức tin là điều
dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn ? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người
ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người
Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và
muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà ?
Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một
người ngoại khác là viên bách quan kia :”Thưa
Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ
theo Ngài :”Quả thật, Ta bảo các ngươi,
Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel”(Mt 8,10).
2. Tin và khiêm nhường.
“Con
cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó
con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người
Do thái chứ không có ý mỉa mai. Dùng chữ
“chó con” mà không dùng chữ “chó” không. Chó con giống nuôi trong nhà được vỗ về,
còn chó hay chạy bậy nơi đường phố có ý nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” đã gợi cho bà này một
lời thỉnh nguyện đầy khiêm nhường và tin tưởng.
Các Tông đồ đuổi bà đi mà không được,
và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời :”Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm
chực vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa :”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được
ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”.
Thật đáng kinh ngạc ! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo nào lại
khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
3. Tin và yêu thương.
Người đàn bà Canaan này có đứa con gái
bị qủi ám đau khổ lắm. Bà thương con vô
cùng mà không biết làm cách nào để cứu chữa con, bà bất lực hoàn toàn trong cảnh
huống này. Vì quá thương đứa con gái bị
qủi ám nên đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị các Tông đồ xua
đuổi nhiều lần, bị Chúa Giêsu có vẻ hững hờ và còn nói những lời khinh bỉ nữa.
Bà vẫn kiên trì, lòng yêu thương con bà
giúp bà chịu đựng tất cả. Bà đến với Chúa Giêsu là vì người khác chứ không
vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu
thương, tin tưởng. Lòng yêu thương của bà đối với đứa con đã làm cho Chúa cảm động
và nhận lời cầu khẩn của bà. Còn tình yêu nào cảm động cho bằng câu chuyện dưới
đây :
Truyện : người mẹ Arménia.
Câu
truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở
Armenia thuộc Liên xô cũ giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn
dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà
Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt
trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương
thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc
đó đứa con 4 thuổi kêu lên :”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho
con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng
kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một
đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau
khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng :”Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng
tôi muốn con tôi sống”.
4 .Tin và kiên nhẫn.
Người đàn bà này gặp cản trở vì không
phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là ngoại giáo, nhưng
từ lâu còn là thù địch của dân được Chúa tuyển chọn. Thế mà bà đã cứ kêu to nài
xin Chúa Giêsu cứu chữa con của bà bị qủi ám.
Bà mẹ người Canaan này là người dân
ngoại. Bà biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng
là bà đã nghe biết phép lạ của Chúa Giêsu, bà kêu lớn tiếng :”Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Tóm lại, bà này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một
người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ cứ muốn đuổi bà ấy đi, còn
Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng.
Bà kêu lớn tiếng :”Lạy Ngài, xin giúp tôi”… Người đàn bà này đến với Chúa không phải chỉ
vì Ngài có thể giúp đỡ, nhưng Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của bà. Bà đến với
niềm hy vọng tha thiết với nhu cầu thúc bách, với quyết tâm không chịu nản lòng.
Người đàn bà này có một đức tính tối cần để cho lời cầu nguyện được hữu hiệu, đó
là bà có lòng kiên nhẫn và thiết tha vô cùng. Cầu nguyện đối với bà không phải
là một nghi thức nhưng là dốc đổ ước vọng nung nấu linh hồn bà, khiến bà cảm biết
mình không thể bị từ chối.
III. ĐỨC TIN CỦA CHÚNG
TA THẾ NÀO ?
Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn
mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người ngoại giáo này để có một đức tin chân
thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị
hay được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ,
cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh thánh nói lên sự thử
thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với
người đàn bà Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ
tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách tới một mức độ nào đó rất
là cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử
thách ta mới được rèn luyện vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng
tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lĩnh của ta tới mức độ nào.
Kinh thánh nói :”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thử thách rất quan trọng cho con
người trong cả đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trong đời sống thiêng
liêng. Tổ phụ Abraham được gọi là “Pater credentium” (cha của những kẻ tin) vì ông
đã chịu một thử thách quá sức tưởng tượng mà ông đã thắng .
Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán, Abraham kể ra có nhiều cớ để từ chối
đề nghị của Thiên Chúa. Người ta thường dễ phiêu lưu, mạo hiểm khi con trẻ tuổi, chưa bị gắn buộc bởi nghĩa vụ gia đình, hoặc
chưa gây được sự nghiệp : nhưng Abraham đã cao niên, tuổi quá thất tuần (St
12,4), lại đã lập gia thất (St 11,29), còn cơ nghiệp thì dư dật, bộ hạ đông đúc,
lục súc không ít, lời Thiên Chúa mời gọi xem như chẳng đem thêm gì đến cho Tổ
phụ.
Người ta lại cũng dễ thay đổi môi trường
sinh hoạt khi có môi trường phong phú hơn đem đến cho mình cơ hội sống an toàn, sung mãn, với đủ tiện nghi
: nhưng khi ấy Abraham đang sống tại Harân, một thị xã miềm Mêsopotamia mà lịch
sử công nhận là văn minh, phồn thịnh. Bỏ Harân đã chắc gì tìm thấy một vị trí
khá hơn ? Nơi Thiên Chúa ấn định là nơi
xa lạ, chẳng hiểu đến rồi làm ăn có nổi chăng ? Đành rằng Chúa cũng hứa nơi ấy
sau này sẽ phì nhiêu cho con cháu của ôngAbraham
(St 12,2-3) : nhưng tổ phụ làm gì có con cái để mà hy vọng cho hậu thế (St
18,11-12) ?
Vậy mà lời Chúa vang lên, Abraham đáp
liền, rời cảnh an ninh, nếp sống nhàn hạ, lên đường để khởi xuớng một giai đoạn
lang thang, long đong, chật vật, hết nếm mùi đói kém lại chịu cơn khói lửa của
chiến tranh (St 12,10 và 14,13-14). Abraham đã gỡ mọi dây liên ái để gia nhập đất
khách quê người : mà tổ phụ đã làm như thế CHỈ VÌ THIÊN CHÚA ĐÃ GỌI, CHỈ VÌ
ABBRAHAM ĐÃ TIN.
Đức tin bao giờ cũng là một cuộc VĨNH BIỆT, CHIA LY : vĩnh biệt cái lòng tự phụ
làm mình đinh ninh là có thể giải quyết mọi vấn đề, đối phó với các trở ngại bởi
duy sức riêng mình, chẳng cần nhờ đến sự can thiệp bên ngoài, bên trên. Vĩnh biệt để chấp nhận một trật tự khác : trật
tự siêu nhiên của Thiên Chúa
(Nguyễn
huy Lịch, báo Nhà Chúa, số 3, 1968, tr
6-7).
Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta
luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng dờ, khích lệ mặc dầu chúng
ta không trông thấy. Con mắt Ngài hằng
theo dõi chúng ta như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng
bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.
Truyện : Chính ba tôi cầm tay lái.
Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một
câu truyện như sau :
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi
trên mặt biển mông lung. Phía chân trời xa, một chòm mây xám chờn vờn nổi lên.
Bầu trời quang đãng không mấy chốc đã bị phủ kín đen đặc. Rồi cơn giống tố ầm ầm
phát nổ. Sấm chớp kinh hoàng. Và càng lâu mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành
khách hoảng hồn mất vía kêu la thất thanh, hỗn loạn. Duy có một đứa trẻ cứ ngồi
chơi trên cầu tầu, bình tĩnh ngồi nhìn con tầu chòng chành nghiêng ngửa, giữa
muôn con sóng dữ tợn gầm gừ đang lao mình tới, như không có việc gì xẩy ra.
Lạ lùng ! Một thủy thủ giương to đôi mắt
hỏi :
- Em không sợ chết sao ?
- Sao lại sợ ? Chính ba tôi cầm tay lái con tầu
này kia mà.
Chớ chi ta cũng trả lời được như vậy
trước mỗi một cơn thử thách, mỗi một bước gập gềnh trên biển dương thế đầy giao
động vì chính Cha chúng ta đang cầm lái con tầu trần gian !
Chớ chi ta biết áp dụng vào đời sống lời
Chúa đã nói lên trước ngày Thương khó :
“Tôi phải đâu một
mình đơn côi ?
“Tôi
có Người Cha vạn năng ở bên cạnh”
(Ga
16,32)
Xin
Chúa cho mọi người chúng con cũng có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa
như người đàn bà Canaan nọ, và từ niềm tin đó chúng con cũng biết khiêm hạ, trước
nhan Chúa, nhưng không khiếp sợ; trái lại, can đảm kiên trì bầy tỏ tất cả những
ước muốn chất chứa trong cõi lòng chúng con với niềm hy vọng sâu xa vào sự giúp
đỡ của Chúa. Có như thế đời sống của chúng
con sẽ đầy tràn sự thỏa mãn và hạnh phúc.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt