CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN A

ANH EM HÃY SÁM HỐI

+++

A. DẪN NHẬP

 

          Sau khi nguyên tổ phạm tội, cửa thiên đàng bị đóng lại, nhân lọai phải sống trong bóng tối tăm của tội lỗi và sự chết. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đem ánh sáng đến cho nhân lọai. Từ lâu, tiên tri Isaia đã loan báo cho biết  sẽ có một vầng ánh sáng chiếu soi cho nhân lọai để cứu họ ra khỏi bóng đêm của tội lỗi. Chính Đức Giêsu đã thực hiện lời loan báo ấy khi Ngài đến rao giảng Tin mừng cho dân vùng Giabulon và Neptali, đại diện cho dân ngọai, lúc Ngài khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng.

 

          Đề tài chính khi khởi sự rao giảng của Đức Giêsu là :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Đề tài này xem ra không có gì mới mẻ vì chính Gioan Tẩy giả cũng đã rao giảng như vậy để giúp dân chúng dọn lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Như vậy có sự tiếp nối chặt chẽ giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy giả, để rồi sau này các tông đồ cũng sẽ tiếp nối công việc ấy. Đức Giêsu rao giảng sự sám hối vì sám hối là điều kiện cần thiết để vào Nước Trời. Hay nói khác đi, muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải sám hối.

 

          Từ xưa đến nay, Đức Giêsu đã từng kêu gọi người ta sám hối và ngày nay Giáo hội vẫn tiếp tục kêu mời và thúc giục con cái mình thực hiện tin thần sám hối ấy trong đời sống thường ngày vì mỗi ngày chúng ta đi xa dần đường lối của Thiên Chúa : chúng ta không còn là ánh sáng chiếu soi trần gian nữa, lại còn gây chia rẽ làm mất sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hãy sám hối để chúng ta sống xứng đáng với Đấng đã phán với dân Người :”Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh”.

 

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

 

          + Bài đọc 1 : Is 9,1-4.

 

          Giabulon và Neptali ngày xưa thuộc vùng Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, sau này gọi là Galilê) đã bị đế quốc Assyria đánh chiếm vào năm 734. Người ta đã bắt dân chúng đi lưu đầy, đặc biệt là các thành phần ưu tú trong dân. Thay thế cho đám dân bị lưu đầy, người ta đã đem đến đây dân cư của khắp các xứ, đủ mọi thành phần. Bởi thế,  sau này người ta gọi vùng Giabulon và Neptali là vùng của dân ngọai, vùng của lương dân, vùng đất tối tăm.

 

          Nhưng tiên tri Isaia loan báo cho họ rằng vùng dân ngọai Giabulon và Neptali một ngày kia sẽ được ánh sáng chiếu rọi, dân sẽ được thóat khỏi tối tăm, sẽ được chứa chan hoan hỉ như trong ngày muà, như khi chia nhau chiến lợi phẩm.

 

          + Bài đọc 2 : 1Cr 1,10-13.17.

 

          Côrintô là một thành phố cảng tấp nập. Dân chúng tới 2/3 là nô lệ. Thánh Phaolô đã đến truyền giáo ở đây và đã lôi kéo được một số người tin theo Chúa. Phaolô đã lập được một giáo đòan ở đây mà đa số là người lương trở lại. Sau đó dân Côrintô đã đuổi ngài đi. Sau khi ông ra đi ít lâu, có một nhà trí thức Do thái ở Alexandria tên là Apôlô đế nối tiếng sứ mạng rao giảng Tin mừng cho dân Côrintô và thu được nhiều kết quả. Sau đó lại có thêm thánh Phêrô nữa.

 

          Nhưng không phải cái gì cũng tốt đẹp êm xuôi, có nhiều vấn đề nội bộ rất phức tạp, nhiều khi rất đau lòng. Người ta đã dựa vào các thừa sai mà chia thành bốn nhóm chốâng nhau : nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apôlô, nhóm theo Phêrô, nhóm theo Đức Kitô. Phaolô đã phải viết thư khuyên nhủ họ hãy tránh sự chia rẽ, phải đồng tâm nhất trí với nhau.

 

          + Bài Tin mừng : Mt 4,12-23.

 

          Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu không chọn Nazareth quê hương của mình  mà lại chọn Capharnaum thuộc miền đất Giabulon và Neptali làm trung tâm truyền giáo. Như thế hợp với lời tiên tri Isaia đã báo trước : vùng lương dân này sẽ được ánh sáng chiếu soi. Năm 734 trước công nguyên, hai miền đất này bị quân Assyria chiếm đóng, vì thế, dân chúng bị ảnh hưởng nặng nề dân ngọai nên được gọi là “Galilê ngọai bang”.

 

          Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ khi Thiên Chúa chấm dứt họat động của Gioan Tẩy giả (ông bị bắt cầm tù). Điều này chứng tỏ hai sứ vụ có liên kết thành một trong một chương trình của Thiên Chúa. Đức Giêsu tuyên bố :”Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Câu này đánh dấu khởi điểm chính thức sứ vụ của Đức Giêsu. Kiểu nói này của Đức Giêsu giống như kiểu nói của Gioan Tẩy giả (Mt 3,2) và huấn thị của Đức Giêsu cho các tông đồ khi sắp đi truyền giáo (Mt 18,7). Nó khẳng định tính cách liên tục việc rao giảng của Gioan Tẩy giả là bước chuẩn bị cho Đức Giêsu rao giảng với việc rao giảng của các tông đồ là nối tiếp sứ vụ của Đức Giêsu Thầy mình.

 

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

                                                Anh em hãy sám hối

I. ĐỨC GIÊSU ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG.

 

          Thánh Matthêu viết thư cho người Do thái nên ngài chủ ý chứng minh rằng tất cả các lời tiên tri Cựu ước đều được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; bởi đó, Ngài phải là Đấng Cứu Thế (Messia), có một câu thường được lặp đi lặïp lại suốt cả sách đến 16 lần như một điệp khúc :”Việc này xẩy ra như vậy để ứng nghiệm lời Chúa dùng Đấng tiên tri mà phán rằng…”.

 

          1. Capharnaum, trung tâm truyền giáo.

 

          Vì thế khi Gioan bị bắt cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện. Đức Giêsu đã rời Nazareth đến Galilê chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Vùng Galilê này bị người ta khinh dể bởi vì đối với thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ; đối với người mộ đạo sùng tín, miền này thật đáng nghi ngờ. Đó là miền hầu như thuộc ngọai bang, nơi hội tụ dân ngọai. Một dân cư phức tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày.

 

          Thế mà tại sao Đức Giêsu lại tới cư ngự tại Capharnaum, bên bờ hồ ? Thưa Ngài chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo vì ba lý do :

          Thứ nhất để thực hiện đúng lời tiên tri Isaia đã loan báo từ  732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngọai.

          Thứ hai Capharnaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên, mà có lẽ nhà ông Phêrô là nơi thuận tiệân cho việc truyền giáo.

          Thứ ba đây là lý do quan trọng nhất : để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hòang”.

 

          2. Đặc điểm của vùng Galilê.

 

          Ngòai ra , Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam  dài khỏang 60 cây số, nhưng dân cư sống đông đúc vì là phần đất phì nhiêu nhất Xứ thánh. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân.  Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới.  Josephus nói về dân Galilê như sau :”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.

 

          Đặc tính bẩm sinh của người Galilê  khiến việc truyền giáo cho họ  rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng.  Có lẽ vì những yếu tố này mà Đức Giêsu chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo.

 

          Như vậy, Capharnaum trở nên quê hương thứ hai, “thành” của Chúa. Ngài đóng thuế ở đây (Mt 17,23), có nhà để ở, có lẽ là nhà của ông Phêrô (Mt 13,1-26). Đây là nơi xuất phát các việc tông đồ : như hành trình truyền giáo, giảng dạy, làm phép lạ. Đức Giêsu đi rồi lại trở về. Tại đây Ngài giảng trong hội đường (Ga 6,60), trên bãi biển hay trên đồi lân cận. Đây cũng là nơi Ngài đã làm biết bao phép lạ, là nơi tuyển chọn một số các tông đồ.

 

          3. Nội dung việc rao giảng.

 

          Có thể nói thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu trong một câu :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Thực ra, nội dung việc giảng dạy này đã được Gioan Tẩy giả rao giảng và sau này các tông đồ cũng tiếp tục thực hiện.

 

          Sám hối là bước dứt khóat đầu tiên tiến vào Nước Trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lẫm lỗi và tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngọai cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.

 

          Sám hối là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo chính là  càng nhận ra sự nhỏ bé bất tòan của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng của Chúa. Chính khi Gioan Tẩy giả nhận mình nhỏ bé. Chúa lại cho Ngài được lớn lên. Chính lúc ý thức mình thấp kém, Chúa lại tôn vinh ngài như người cao trọng nhất trong Nước Trời.

 

 

II. NHỮNG BÀI HỌC QUA CÁC BÀI ĐỌC.

 

          1. Sám hối vì Nước Trời đã gần đến (Mt 4,17).

 

          Lời đầu tiên Đức Giêsu dạy khi rao giảng Tin mừng là “Hãy sám hối”. Theo nguyên nghĩa của nó là trở lại (metanoia). Tại sao chúng ta phải quay trở lại ? Vì đã đi lạc đường, lạc hướng. Đời sống con người là một cuộc hành trình đi về quê trời. Cuộc hành trình nào cũng phải có đích đến và cuộc hành trình chỉ kết thúc khi đến đích. Trong cuộc hành trình có những người đi lạc hướng, mà nếu đã lạc hướng thì không bao giờ tới đích. Ai đã lạc hướng mà càng chạy nhanh thì càng xa đích đến. Thánh Augustinô khen họ là những người “bene currit, sed extra viam” : chạy nhanh đấy nhưng lạc đường.

 

          Đại triết gia thời cổ Hy lạp xưa, ông Platon, đã nói :”Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích  thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”.

 

          Điều kiện sám hối là phải “biết mình”, xem mình đang ở trong tình trạng nào và phải chỉnh hướng cuộc đời làm sao cho đúng. Cổ nhân thường nói :”Khôn chết, dại chết, biết là sống”.  Chính vì thế ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng :”Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).

 

          Chúng ta có thể biết được nhiều sự từ xa đến gần, biết được nhiều sự trong trời đất, nhưng có một điều gần nhất mà ta lại không biết, đó chính là con người của mình.

 

                                      Truyện : Hậu sinh khả úy.

          Người ta kể rằng : một hôm Khổng Tử và đồ đệ đang đi đường, thình lình một cậu bé chặn đường không cho đi và xin hỏi Khổng Tử một câu :

          - Nghe tin ngài hiểu biết nhiều lắm, nhìn xa thấy rộng, xứng đáng là bậc thầy của thiên hạ. Dám xin hỏi ngài một câu . Khổng Tử trả lời :

          - Cứ nói.

          Cậu bé hỏi ngay :

          - Trước mắt ngài có bao nhiêu cái lông mi ?

          Khổng Tử lắc đầu, trả lời :

          - Chịu, không biết được.

          Cậu bé trả lời :

          - Có một cái gần nhất mà ngài không thấy thì làm sao thấy được những cái ở xa.

          Khổng Tử tỏ vẻ cảm phục và khen :

          - Thật, hậu sinh khả úy.

 

          Biết mình là một điều rất khó, nên thánh Augustinô đã phải cầu nguyện để được biết Chúa hơn và hiểu rõ con người mình hơn “Noverim Te, noverim me”.

          - Biết con là tạo vật một kiếp đời sống kiếp con người.

          - Biết con không là gì chỉ là bụi cát mà thôi.

          - Biết con thân phận hèn mỏng dòn muôn vàn yếu đuối.

          - Biết con bao tội tình để lòng xao xuyến khôn nguôi.

                   (Bài hát : biết Chúa, biết con).

 

          Không ai biết khuôn mặt thật của mình, chỉ có thể biết qua trung gian một chiếc gương soi. Nhưng cũng chưa chắc, nhiều khi cái gương kém phẩm chất phản chiếu không trung thực, có khi làm méo mó khuôn mặt thật của mình. Cũng thế, không ai biết khuôn mặt thật của linh hồn mình nếu không có Chúa để soi, chỉ có Chúa mới phản ánh cho ta biết được khuôn mặt thật của linh hồn mình.

 

          Khởi đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời, Đức Giêsu đã đưa ra câu châm ngôn hướng dẫn :”Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Sách Tin mừng (hay Phúc âm) là cái gương cho ta soi vì Phúc âm là những lời dạy dỗ của Đức Giêsu được các thánh sử ghi lại, làm chỉ nam cho đời sống của ta. Hãy để cho Chúa hướng dẫn đời ta, chúng ta tin chắc rằng không bao giờ bị lạc hướng vì Ngài đã nói :”Chính Thầy là con đường, là sự thật và sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6). Nhờ đọc lời Chúa mà chúng ta được Chúa soi dẫn, vạch đường chỉ lối cho ta đi, ban cho ta sức mạnh thiêng liêng để kiên nhẫn thực hiện Lời Chúa.

                                      Truyện : Tướng cướp sám hối.

          Trong một khu rừng già miền núi Hắc sơn ở nước Đức, một bọn cướp đang chia nhau chiến lợi phẩm mà chúng lấy được hồi đêm. Bọn cướp này có thói quen bán đấu giá với nhau của cải chúng cướp được, rồi sau đó chúng mới đem bán lại cho người khác.

 

          Hôm ấy, món cuối cùng chúng đem ra đấu giá là một cuốn Thánh Kinh. Tên cướp đóng vai hộ giá viên giới thiệu món hàng này bằng những lời diễu cợt phạm thượng khiến cả bọn cười ồ lên. Một tên khác mở đại một trang  như kiểu bói tóan. Hắn chỉ vào một câu và đọc to lên rồi thêm những lời trào phúng làm cả bọn cười ngặt nghẹo.

 

          Nhưng tên cầm đầu trong bọn bỗng dưng trở nên nghiêm nghị, hai tay ôm đầu rồi gục xuống tỏ vẻ suy nghĩ. Ba mươi năm về trước, chính vào buổi sáng ngày hắn quyết định bỏ nhà ra đi, hắn đã nghe ông bố hắn  đọc những lời Thánh Kinh này trong giờ kinh sáng của gia đình. Lúc này đây hắn không thể ngờ được rằng hắn lại nghe vang lên những lời ấy.

 

          Tên tướng cướp còn đang chúi đầu về dĩ vãng thì một đồng bọn vỗ vai hắn và bảo :”Này, sao đàn anh có vẻ mơ mộng thế ? Đàn anh muốn mua nó không ? Đàn anh cần cuốn Thánh Kinh hơn đàn em đó,  vì điển mặt anh hùng phạm pháp trên thế giới thì đàn anh phải là vô địch mà”.

 

          Trước lời diễu cợt bạo gan đó, hắn chỉ chậm rải trả lời :”Mày nói đúng ! Tao chính là thằng phạm tội nặng nhất. Cứ để cuốn sách cho tao, bao nhiêu cũng được.

 

          Bọn cướp chia tay để đem các món hàng đi bán. Riêng tên tướng cướp thì cầm cuốn Thánh Kinh, đi tìm một chỗ vắng trong rừng ở lại đó đọc Lời Chúa và ăn năn sám hối về cuộc đời tội lỗi của mình (Mỗi ngày một tin vui, tr 7-8).

 

          Tên tướng cướp có được lòng sám hối vì anh ta tin vào Lời Chúa. Lời Chúa có sức giúp anh cải tà qui chính và có thể trở nên thánh. Bởi vì, thánh nhân không phải là lọai người phi thường không có tội lỗi, nhưng các ngài cũng như chúng ta, chỉ hơn ta ở chỗ các ngài sống thực với lòng mình, biết kiên trì sửa sai lỗi lầm, biết khiêm tốn cậy nhờ Chúa giúp sức, biết cố gắng làm thiện hơn điều ác. Chúng ta đâu có khác gì với các thánh, đâu có thua gì các ngài. Chúng ta sẽ làm được nếu chúng ta muốn.

          2. Đám dân đã thấy ánh sáng huy hòang (Mt 4,16).

 

          Trước khi Đức Giêsu giáng lâm, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa  một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Đức Giêsu giáng lâm.

 

          Matthêu so sánh Đức Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Đức Giêsu là sự hòan thành lời tiên tri cao cả của Isaia :”Đòan dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Đức Giêsu đã mô tả sứ vụ của Ngài bằng những lời tương tự khi Ngài nói :”Ta là ánh sáng thế gian”.

 

          Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những  ánh sáng cần cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc đời chúng ta : bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai trong tâm hồn (Phạm văn Phượng).

 

          Các nhà tu đức bảo chúng ta rằng điều đã xẩy đến với Israel trên bình diện một dân tộc thì cũng sẽ xẩy đến với mọi người chúng ta xét trên bình diện cá nhân. Nói cách khác, trong đời sống chúng ta có những lúc ánh sáng vụt tắt khiến chúng ta rơi vào tăm tối y hệt như dân chúng  phải sống trong tối tăm trước khi Đức Giêsu giáng lâm. Vậy trong bóng tối tăm của tội lỗi, ai có thể xua đuổi được bóng tối ấy ? Thưa, chỉ có ánh sáng của Đức Kitô. Ngài là ánh sáng được Chúa Cha sai đến chiếu soi mọi người sinh trong thế gian. Ngài đã tuyên bố :”Ta là ánh sáng thế gian”, và ánh sáng là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của Ngài.  Ngài mời gọi mọi người đi trong ánh sáng của Ngài :”Các con là ánh sáng cho thế gian. Không ai đốt đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng để trên cao soi cho cả nhà”.

 

                                      Truyện : ánh lửa trong đêm tối

          Trong cuốn Justs for today người ta có kể lại : ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ, đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói :”Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời  thì cả sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp :”Bây giờ tôi xin đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên : “Đã thấy”. Cả sân vận động vang dội tiếng :”Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật sáng. Diễn giả giải thích : “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm đen của nhân lọai như thế.  Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh :”Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như sau :”Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau,  chúng ta có thể chiến thắng bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

 

          3. Anh em hãy nhất trí với nhau (1Cr 1,10).

 

          Đức Giêsu đến trần gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa Thiên Chúa và nhân lọai, giữa con ngưởi với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Đức Giêsu và là điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha  để trở nên  hiện thực như lời cầu nguyện hiến tế của Ngài :”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”(Ga 17,21).

 

          Trong bài đọc 2 của Thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô, vị Tông đồ Dân ngọai,  đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời sống cộng đòan và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ. Thánh Tông đồ đã viết :”Hỡi anh em, nhân danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em  hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia rẽ trong anh em, nhưng hãy đòan kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan điểm”(1Cr 1,10).

 

          Sở dĩ thánh Phaolô phải viết thư cho tín hữu Côrintô là vì ở đó đang có sự chia rẽ trầm trọng. Các tín hữu đã chia thành bốn nhóm dựa vào một thừa sai mà chống lại nhau :”Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Apôlô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi thuộc về phe Chúa Kitô. Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao”(1Cr 1,12)? Tuy nhiên, những vấn đề tranh chấp giữa họ không thuộc phạm vi tín lý hay luân lý, nhưng chỉ là những khác biệt về tính tình, sở thích. Khi đã đến lúc phải chặn đứng vấn đề phe nhóm trong giáo đòan, thánh Phaolô bảo họ :”Người lãnh đạo của anh chị em là Đức Kitô chứ không phải tôi hay Apôlô. Và anh chị em chịu phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, chứ không phải nhân danh Phaolô hay Apôlô”(1Cr 1,13-15).

                                      Truyện : Mầm mống chia rẽ.

          Chuyện kể một nhà buôn nọ. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp bội.

          Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói :”Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ từ chối. Thôi thì bây giờ  cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho… và đồng thời  để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế… và có khi gấp đôi luôn”.

          Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng  hân hoan qua buồn sầu lo lắng. Anh tự nhủ :”Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn… chúng nó sẽ được hai chiếc. Ồ, thế thì không được !  Nhưng nếu mình xin cho đươc trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm… họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được !  Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng  đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong khi mình chỉ có một… Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ ? Nhưng xin như thế làm sao mà hơn được”.

          Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến qùi xuống và thưa với thần :”Lạy Ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt”.

         

          Đọc câu chuyện này, chúng ta thấy lời cầu xin của người thương gia này thật là quái gở !  Đáng lẽ anh ta phải cầu xin cho mình được giầu sang phú qúi, được mọi sư may mắn để bản thân mình, gia dình mình được hạnh phúc và cả xã hội cũng được hạnh phúc theo,  chứ tại sao lại cầu cho mình phải rủi ro để người khác phải gặp rủi ro hơn. Thật lòng con người quá nhỏ nhen, ích kỷ và dã tâm.

 

          Do đó, chúng ta có thể cho là chính cái tính ghen tương, đố kỵ, ích kỷ, dã tâm là mầm mống của bao chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly … trong cộng đồng xã hội.  Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái không những chỉ ra ngòai đời, trong các đòan thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói : có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức của Giáo hội nữa. Trường hợp chia rẽ tại cộâng đòan Côrintô ngày xưa đã làm chứng điều đó.

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt


Về trang Mục Lục