LỄ
HIỆN XUỐNG A
THÁNH
THẦN ĐƯỢC BAN CHO GIÁO HỘI
+++
A. DẪN NHẬP.
Sau khi Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn,
các tông đồ trở nên hoang mang, sợ sệt,
đang tụ họp trong nhà Tiệc ly, chưa biết phải xử sự làm sao, thì chiều
ngày phục sinh, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các ông, trấn an và thổi
hơi trao ban Thánh Thần cho các ông :”Anh
em hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần”. Và 50 ngày sau nữa, vào sáng ngày lễ Ngũ
tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống một cách
công khai để ban cho các ông những đặc sủng của Ngài để các ông mạnh dạn đi loan báo Tin mừng và xây dựng Giáo hội.
Thực ra, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần
cho các Tông đồ ngay khi Ngài hiện ra lần thứ nhất tại nhà Tiệc ly vào buổi
chiều hôm Phục sinh. Sau khi chào các ông, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các
ông khi Ngài thở hơi và nói :”Các con hãy
nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì người ấy được tha, các con
cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ””(Ga 20,22-23). Còn ngày lễ Ngũ tuần chỉ
là dịp Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các ông một cách đặc biệt, với đặc sủng
ngôn ngữ, đồng thời cũng là dịp giới thiệu Giáo hội cho muôn dân và chính thức
sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người.
Lịch sử cứu rỗi còn tiếp tục qua lịch
sử nhân lọai và ngày hôm nay lại khai mở một giai đọan mới khi Thánh Thần hiện
xuống cách huy hòang vĩ đại trên một nhóm người và biến cải họ nên cột trụ một
tập đòan mới là Hội thánh. Hôm nay trong nhà Tiệc ly chỉ có 120 người, nhưng
rồi đây sẽ lan tràn khắp thế giới, trở thành Giáo hội hòan vũ. Ngày nay Chúa
Thánh Thần vẫn còn được ban xuống cho chúng ta, đặc biệt với đặc sủng ngôn ngữ, để chúng ta biết cao rao
những kỳ công của Chúa, giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người và góp phần xây dựng
Hội thánh của Chúa ở trần gian này.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 2,1-11.
Bài sách Công vụ tông đồ hôm nay tường
thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ trong nhà Tiệc ly ngày
lễ Ngũ tuần.
Theo lời căn dặn của Đức Kitô phục sinh,
các tông đồ tập họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Đây
chính là Đấng Bảo trợ mà Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ trước khi đi
vào cuộc tử nạn. Hôm nay ngày lễ Ngũ
tuần, Chúa Giêsu chính thức gửi Chúa Thánh Thần cho các tông đồ để Ngài cư ngụ
và hoạt động nơi các ông bằng sức mạnh của Ngài, thôi thúc họ và ban cho họ
những đặc sủng, đặc biệt là đặc sủng ngôn ngữ.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các
tông đồ bằng hình lưỡi lửa cho mỗi người.
Lưỡi tượng trưng cho lời nói, Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt
thành. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin mừng
và làm chứng cho Ngài khắp mọi nơi.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 20,19-23.
Chúa Thánh Thần được ban cho các tông
đồ và Giáo hội đặc biệt trong ngày lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần là hồn sống của
Giáo hội, Ngài luôn hoạt động trong Giáo hội cách tích cực. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu
Corintô hãy hiệp nhất trong Thánh Thần.
Trong Giáo hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho
các tín hữu, những đặc sủng ấy nhằm ích lợi cho mọi người. Vì thế, các tín hữu
phái tránh chia rẽ, đừng làm gì khả dĩ gây phương hại cho sự đoàn kết ; trái
lại, phải dùng các ơn ấy để xây dựng thân thể Giáo hội.
+ Bài Tin mừng : Ga 20,19-23.
Trong các sách Tin mừng, không chỗ nào
nói tới việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, chỉ trừ sách công vụ
tông đồ (Cv 2,1-11). Tuy nhiên, Hội
thánh muốn lấy lại bài Tin mừng Chúa nhật II Phục sinh để cho biết : ngay buổi
chiều hôm lễ Phục sinh, Chúa Giêsu đã
hiện ra với các tông đồ trong nhà Tiệc ly và đã ban Chúa Thánh Thần cho các ông
:”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ”. Như thế, trước khi ủy thác sứ vụ cho các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh
đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông, và nhờ đó, các môn đệ giờ đây thực thi
sứ mạng trong ân sủng và quyền năng của Chúa Thánh Thần.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đặc sủng ngôn ngữ.
I. CHÚA THÁNH THẦN
ĐƯỢC BAN XUỐNG.
Trong lễ Hiện xuống hôm nay, Giáo hội
đọc bài Tin mừng kể việc Đức Giêsu hiện ra lần thứ nhất với tập thể tông đồ
chính ngày Phục sinh.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Đức
Giêsu đã hiện ra với một số phụ nữ (Mt 28,9) trong đó có bà Maria Magdala (Ga
20,11t), bà Gioanna và bà Maria mẹ Giacôbê (Lc 24,9t). Buổi chiều Ngài đã hiện
ra với hai môn đệ đi đến làng Emmau (Lc 14,13t) và cũng chiều đó, Ngài lại hiện
đến với các tông đồ, có thể có một số môn đệ ở cùng các ông.
Có lẽ Đức Giêsu hiện ra với các ông về
đêm khuya. Đang lúc hai môn đệ đi làng Emmau về kể cho các ông nghe việc Chúa
hiện ra với mình, thì Đức Giêsu hiện ra. Đường đi từ Giêrusalem đến Emmau khá
xa, đi về phải muộn mới tới nơi.
Các cửa phòng đều đóng kín, Đức Giêsu
đột ngột hiện ra đứng giữa các ông và nói :”Bình an cho các con”. Đây là lời
chào bình thường của người Do thái mỗi khi gặp nhau. Trong bối cảnh của các
tông đồ khi đó, lời chúc của Đức Kitô chắc chắn đã có ý nghĩa đặc biệt cụ thể chứ không thể như ta chào bình thường, vì
liền sau đó Ngài đã trao ban sứ mạng cho các ông.
Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn.
Phải chăng Đức Kitô lưu giữ các dấu thương tích như một kỷ niệm… Hay để cho các
tông đồ và môn đệ xem thấy dấu vết rành rành đó mà vững tin vào sự Phục sinh
của Ngài ? Và Ngài thổi hơi và ban Thánh Thần :”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy
được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Hành
động của Đức Kitô như lặp lại hình ảnh
cuộc sáng tạo của Thiên Chúa Cha (St 1,1t). Đức Kitô qua cuộc Tử nạn và
Phục sinh đã trở thành Đấng tái tạo một nhân lọai mới (Ga 3,5t ; Is 32,16).
Trong bài đọc 2 trích sách Công vụ
tông đồ, thánh Luca còn cho chúng ta biết thêm về ngày lễ Hiện xuống : Khi đến
lễ Ngũ tuần, mọi người đang tề tựu tại một nơi, có lẽ là tại nhà Tiệc ly, với
số người là 120. Bỗng nhiên trời phát ra một tiếng, nghe như tiếng gió ào ào,
vang dội khắp cả nhà. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa
tan ra đậu xuống từng người một và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần, họ bắt
đầu nói được tiếng nước ngòai. Sự kiện này làm cho các khách hành hương phải
kinh ngạc vì ai nấy đều nghe nói tiếng
bản xứ của mình. Họ phải sửng sốt và thán phục.
Chúng ta không biết Đức Giêsu đã thiết
lập Giáo hội lúc nào, nhưng chúng ta biết chắc lễ Hiện xuống là ngày Đức Giêsu
khai trương Giáo hội, Ngài giới thiệu Giáo hội cho muôn dân và cũng từ hôm nay
các môn đệ chính thức được sai đi đến với muôn dân :”Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai các con”, để các ông rao giảng Tin mừng về Nước Trời và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ Chúa Kitô.
II. CHÚA THÁNH THẦN
BAN ĐẶC SỦNG NGÔN NGỮ.
Được đầy tràn Thánh Thần trong buổi
sáng lễ Hiện xuống, các Tông đồ cũng đón nhận được ơn đặc sủng về ngôn ngữ. Vì thế, các ông có thể nói cho những người đến hành
hương tại Giêrusalem từ khắp nơi trên thế giới : mọi người đều hiểu theo ngôn
ngữ của mình. Thánh Phêrô đã dùng đặc sủng ấy màø giới thiệu Đức Giêsu Nazareth
cho những người tại Giêrusalem, và qua bài giảng nảy lửa ấy, đã có 3000 người
trở lại. Đặc sủng ấy vẫn còn được ban cho Giáo hội và cho mọi thành phần trong
Giáo hội hôm nay.
1. Ơn nói các thứ tiếng lạ.
Sách Công vụ tông đồ thuật lại việc
chúa Thánh Thần ban đặc sủng ngôn ngữ cho các tông đồ như sau :”Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như
lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh
Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác , tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”
(Cv 2, 6). Mọi người đến xem đều lấy làm lạ khi thấy các ông nói được các
tiếng thổ ngữ của mình một cách thành thạo.
Đây là một đặc sủng ngôn ngữ. Có hai
cách chú giải về phép lạ ngôn ngữ này :
có nhà chú giải cho rằng các tông đồ nói tiếng lạ hoặc chỉ nói một thứ tiếng
nhưng Thánh Thần tác động trên người nghe để họ hiểu được theo tiếng của
họ. Cách thứ hai thì cho rằng quả thực
Thánh Thần tác động trên các tông đồ để các ngài có khả năng nói được các thứ
tiếng ngoại ngữ. Theo mạch văn thì cách thứ hai có sức thuyết phục hơn : chính
các thính giả la lên :”Chúng tôi đều nghe
họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).
Phép lạ ngôn ngữ này là hình ảnh đối
lại với câu chuyện tháp Babel xưa (St 11,1-11). Câu chuyện đó là ngày xưa, ở
Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và
đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái
tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn
Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn
hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau.
Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa
thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không còn thông cảm với nhau được..
Hôm nay, với tác động của Chúa Thánh
Thần, mọi dị biệt ngôn ngữ đã bị xóa bỏ để mọi người cùng nghe được sứ điệp Tin
mừng. Nhân loại được giao hòa và hiệp
nhất với nhau.
2. Nói về ngôn ngữ.
Theo tự điển Đào duy Anh thì : tự mình
nói ra là ngôn, đáp lại kẻ khác gọi
là ngữ. Hay nói cách khác, ngôn ngữ
là “nói năng”. Ngôn ngữ bất đồng là
tiếng nói không giống nhau, không thể nói chuyện cùng nhau. Có nhiều loại ngôn ngữ, ta tạm chia làm 3
loại :
a)
Ngôn ngữ bằng lời nói.
Đây là thứ ngôn ngữ dành riêng cho con
người có trí khôn. Con vật dù có thông minh mấy cũng không thể xử dụng được thứ
ngôn ngữ này vì nó đòi hỏi phải có lý trí để hiểu biết lời mình nói. Con yểng,
con nhòng, con sáo... có thể bắt chước tiếng người nói lại được một vài câu,
nhưng chúng chỉ nói lại như cái máy vi âm chứ không hiểu biết gì cả.
Vì con người có thể hiểu được lời mình
nói và phải chịu trách nhiệm về lời nói đó, nên người ta mới khuyên :
Lời
nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
(Ca dao)
Ngôn ngữ này cũng liên quan đến tiếng
cười, tiếng khóc. Cười hay khóc đều biểu
lộ niềm vui hay nỗi buồn của con người.
Cười khóc cũng là đặc tính riêng biệt của con người, cần phải có sự hiểu
biết thì mới có thể cười hay khóc được, con vật không có khả năng này. Vì thế
người ta nói :
Làm
người có miệng có môi,
Khi
buồn thì khóc, khi vui lại cười.
(Ca
dao)
b)
Ngôn ngữ bằng chữ viết.
Ngày xưa, người ta có những tư tưởng
rất hay, rất thâm thúy, có cả những phát minh nữa như Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, giáo lý của
Phật Thích Ca, triết lý của Socrates, Platon, Aristote, Lão Tử, Khổng Tử... làm
thế nào có thể truyền lại cho hậu thế , nếu không dùng đến ký tự, chữ viết đủ
mọi loại vì ngày xưa chưa có máy vi âm như ngày nay ?
Trong những kim tự tháp ở Ai cập, còn
có nhiều loại chữ viết kỳ bí mà ngày nay người ta cũng chưa giải mã được, chưa
hiểu được ý nghĩa của những chữ viết đó.
c)
Ngôn ngữ bằng cử chỉ.
Khi nói tới ngôn ngữ thì không nhất
thiết là phải nói tới lời nói hay nói năng, còn có một thứ ngôn ngữ khác không
cần phải nói năng mà ai cũng hiểu được, đó là “cử chỉ”. Ngôn ngữ cử chỉ đây là một qui ước người ta đặt ra với
nhau và cho nó một ý nghĩa để người ta có thể hiểu nhau được.
Có những cử chỉ mang một ý nghĩa phổ biến mà bất kỳ ai cũng có thể
hiểu được, ví dụ : cười biểu lộ sự vui tươi, khóc biểu lộ sự buồn bã, gật đầu
tỏ vẻ đồng ý, lắc đầu tỏ ý từ chối.
Dĩ nhiên có một số cử chỉ khác mang ý
nghĩa theo qui ước mà người ta phải học thì mới hiều được, ví dụ “xê-ma-pho, hay cử điệu bằng tay của những
người câm.
3. Ngôn ngữ của chúng ta.
a) Ngôn ngữ tự nhiên.
Trong đời sống hằng ngày, việc trao
đổi tư tưởng và tâm tình thường diễn tả bằng lời nói vì đó là thứ truyền thông
rất hiệu nghiệm và phổ biến. Chỉ có người nào câm mới bị loại trừ ra khỏi thứ
ngôn ngữ này.
Chúng ta cũng phải lưu ý trong việc
dùng ngôn ngữ bằng lời nói vì nó dễ đưa tới hậu quả xấu khi chúng ta cẩu thả
trong lời nói, thiếu suy nghĩ như người ta khuyên :”Hãy uốn lưỡi bảy lần trước
khi nói”. Người xưa khuyên ta phải thận
trọng trong lời nói :
Nhất ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy.
(Một lời nói sai trái thì bốn con ngựa đuổi không kịp)
Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta là
sẽ bị lên án về lời nói của mình :”Loài
rắn độc kia, xấu như các ngươi, thì làm sao nói điều tốt được ? Vì lòng có đầy,
miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình ; kẻ xấu
thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các ngươi hay : đến ngày
phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời
nói của anh em mà anh em sẽ được trắng án ; và cũng tại lời nói của anh em mà
anh sẽ bị kết án”(Mt 12,34-37 ; Mc 3,29 . Lc 12,10).
b)
Ngôn ngữ thiêng liêng hay thần bí.
Trong đời sống thiêng liêng chúng ta
còn có loại ngôn ngữ thần bí mà không có cách nào diễn tả được. Đó là ngôn ngữ
đức tin và ngôn ngữ của tình yêu. Chúng ta chỉ có thể có được ngôn ngữ này khi
chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa,
hai tâm hồn đã kết hợp với nhau để không còn phân biệt được Chúa nói với
ta hay ta nói với Chúa , vì lúc đó “tôi
sống mà không phải tôi sống mà Chúa Kitô sống trong tôi”, tôi đã nên một
với Người.
Bình thường khi cầu nguyện thì ta nói
, Chúa nghe , đôi lúc Chúa nói, ta nghe,
nhưng đến giai đoạn cao nhất là không còn nói, không còn nghe. Chúng ta
có thể chia thành 4 giai đoạn theo tứ tự
sau đây:
1/ Ta nói, Chúa nghe.
2/ Chúa nói, ta
nghe.
3/ Không ai nói, cả
hai chỉ nghe.
4/ Không ai nói mà
cũng không ai nghe.
Tất cả chỉ là một sự im lặng tuyệt đối.
Truyện : Trong phòng thông dịch viên.
Người ta mới phát minh được một cái
máy kỳ diệu. Nó là một óc điện tử có thể dịch ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
Hiện thời, máy chỉ có thể dịch tiếng Nga sang tiếng Anh. Nhưng bước đầu đã
thành công, một bước tiến vĩ đại, và chắc thế nào những bước sau cũng sẽ thành
công hơn.
Hiện nay trong những hội nghị quốc tế
chẳng hạn như hội nghị Minh ước Bắc Đại tây dương ở Paris, hay tại Liên hiệp
quốc ở New York, người ta còn phải dùng thông dịch viên, đây cũng là một thành
công chói lọi của kỹ thuật tân tiến. Các đại biểu trong hội nghị chỉ cần đưa
máy nghe lên tai thì tức khắc họ sẽ nghe diễn giả đang nói tiếng Ba tư nói
thành tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Ý… từng câu một, tòan thể bài
diễn văn được dịch ra và chuyền lại cho các thính giả nghe.
Người ta có thể so sánh việc này với
phép lạ về ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc các tông đồ còn đang sợ
sệt lo ngại vì Đức Giêsu đã lên trời. Họ đóng cửa ở trong phòng, không biết làm
thế nào để thực hiện được lời Chúa dạy là biến đổi thế gian. Rồi một buổi sáng
nọ, bỗng nhiên Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình thức cơn gió lốc. Các tông
đồ tự nhiên thấy vững tâm mạnh dạn. Họ mở cửa, ra ngòai đường và bắt đầu
giảng.Trước mặt họ là một đám đông dân chúng hỗn độn, gốc cả 15 nước và nói 15
thứ tiếng. Thế mà khi tông đồ nói, mỗi người nghe như tông đồ nói tiếng xứ
mình. Tất cả đều hiểu rằng tông đồ giảng về Tình thương và Hòa bình. Thông dịch
viên là ai ? Đó là Đức Chúa Thánh Thần.
4. Ngôn ngữ và loan báo Tin mừng.
Thánh Phaolô bảo : có nhiều đặc sủng,
có nhiều cách phục vụ khác nhau trong Giáo hội. Nhưng các đặc sủng ấy chỉ nhằm
phục vụ lợi ích chung… Khi chúng ta được chịu phép rửa tội và đặc biệt trong
ngày lễ hôm nay, Chúa Thánh Thần đều ban cho mỗi người chúng ta đặc sủng ngôn
ngữ để chúng ta loan báo Tin mừng, để làm trọn sứ mạng tiên tri của mình.
Ngôn ngữ đây không nhất thiết phải là
lời nói hay chữ viết, mà là cử chỉ, điệu bộ ; hay nói cách khác, ngôn ngữ này
là chính con người chúng ta, cuộc sống thực tế hằng ngày của ta. Loan báo Tin
mừng bằng lời nói hay chữ viết có thể vượt trên khả năng của ta, nhưng ngôn ngữ
bằng cuộc sống hằng ngày thì phù hợp với tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh.
Chính cuộc sống gương mẫu của ta là một bằng chứng hùng hồn nói lên sự hiện hữu
của Thiên Chúa. Gương sáng của ta là một sức mạnh lôi kéo mọi người đến với
Chúa, một việc làm có tính cách thuyết phục đến nỗi không thể từ chối được. Vì
:
Lời nói như gió lung lay,Gương bày như tay
lối kéo.
(Tục
ngữ)
Ánh sáng soi vào trong đêm tối sẽ làm
cho bóng tối biến đi. Sứ mạng của ánh sáng là phải chiếu vào nơi tối tăm, mà
chúng ta là ánh sáng thế gian (Mt 5,14) thì chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho
thế gian u tối phải bừng lên ánh sáng Chúa Kitô như lời Ngài dạy :”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước
mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chính cuộc đời gương mẫu của ta sẽ trở
thành một bài giảng hùng hồn khiến họ cảm phục, một bài giảng không cần dùng
lời nói mà có sức lôi kéo không thể cưỡng lại được, dĩ nhiên phải cùng với sự
hỗ trợ của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá Giáo hội và mỗi người.
Truyện
: Bài giảng biết đi.
Một buổi chiều của năm 1953, các ký
giả và một số nhân viên chính phủ tập trung tại một nhà ga xe lửa ở Chicago,
Hoa kỳ để chào đón một người được giải thưởng Nobel hoà bình năm 1952.
Người vừa xuống khỏi xe lửa là một
người đàn ông to lớn, tóc ngắn và mang một chòm râu cắt gọn ghẽ. Các máy hình
chớp liên hồi. Các nhân viên cao cấp của thành phố đang rộng tay để đón chào vị
thượng khách.
Người được giải Nobel hoà bình cám ơn
mọi người rồi bỗng đưa mắt nhìn vào một chỗ nào đó trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng
ấy. Mọi người đều tưởng ông đã để quên
một hành lý nào chăng.
Ông băng qua đám đông đi thẳng tới một
người đàn bà có tuổi đang khệ nệ với hai vali nặng. Ông giơ tay đỡ lấy một
chiếc vali, mỉm cười với bà rồi dẫn bà ra một
chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp
người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám
đông đang chờ đợi, ông nói :”Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị chờ đợi”.
Người được giải Nobel hoà bình năm
1953 ấy, không ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitser, nhà truyền giáo nổi
tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Phi châu. Chứng kiến cử
chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó, đã nói với một ký
giả :”Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi”.
(R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọÏng, tr
41-42)
Lm Giuse Đinh lập
Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt