LỄ
HIỂN LINH A,B,C
ÁNH
SÁNG CHO MUÔN DÂN
+++
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay là ngày lễ Hiển Linh. Ngày xưa
chúng ta quen gọi là lễ Ba Vua vì chúng ta chú trong vào việc các đạo sĩ đại
diện cho dân ngọai đi tìm Chúa, còn lễ Hiển Linh nhằm nói lên việc Chúa tỏ mình
ra cho dân ngọai. Như vậy, lễ Hiển Linh hôm nay được gọi là Lễ Giáng Sinh của
dân ngọai. Các bài đọc đều nói lên tư tưởng chung : Đức Giêsu là ánh sáng soi
cho muôn dân. Tiên tri Isaia tiên báo Giêrusalem sẽ được tỏa sáng, các dân sẽ
lần bước tìm về sự sáng ấy (Bài đọc 1). Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy trở
nên những vì sao trên vòm trời qua đời sống gương mẫu của mình (Bài đọc 2).
Thánh Matthêu diễn tả Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân, không trừ ai, kể
cả dân ngọai, mà đại diệân của họ là các đạo sĩ (Bài Tin mừng).
Theo bài Tin mừng hôm nay, các đạo sĩ
bên phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường đã đến Belem triều bái Chúa Hài Nhi. Công
việc đi tìm kiếm không phải là dễ dàng, các vị đã gặp nhiều gian nan thử thách
trên đường, nhất là khi ngôi sao vụt tắt lúc các vị tới Giêrusalem. Qua cuộc dò
hỏi tìm kiếm, các vị lại được ngôi sao tái xuất hiện dẫn đường tới Belem và gặp
Chúa Hài Nhi ở đó. Họ đã phủ phục thờ lậy Đấng Cứùu Thế và dâng cho Ngài ba thứ
lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã tỏ lòng ưu ái với dân
ngọai, đã tỏ mình ra cho họ. Còn chính những người dân Chúa lại không được
trông thấy, họ không thấy không phải vì Chúa kỳ thị họ, không muốn tỏ mình ra
nhưng là vì họ không muốn thấy, lại còn chống đối nữa.
Chúng ta cũng là dân ngọai được Chúa
tỏ mình ra cho chúng ta được biết. Chúng ta phải cảm tạ Chúa vì hồng ân này.
Đồng thời chúng ta cũng có bổn phận phải làm cho người khác biết Chúa qua cuộc
sống gương mẫu của chúng ta. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Philipphê
:”Aùnh em hãy chiếu sáng như những vì sao
trên vòm trời”. Những vì sao của chúng ta tuy phát ra ánh sáng yếu ớt,
nhưng với ơn hỗ trợ của Chúa, chúng sẽ có sức tỏa sáng mạnh mẽ trước mặt người
đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 60,1-6.
Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh
lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải
thóat mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó,
dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức
trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ sẽ được rạng rỡ, sẽ trở thành
ánh sáng thu hút muôn dân vì được hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó,
và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy
cùng với vàng bạc, đá qúi, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.
Trong thực tế, dân Chúa đã được giải
thóat, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri
Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi
Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mở của tiên tri Isaia còn hướng về
thời cánh chung, khi mọi sự được hòan tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền
có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời
(Kh 21,9-27).
+ Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a. 5-6.
Dân Do thái luôn hãnh diện là dân
riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thóat chỉ được
dành riêng cho họ, còn dân ngọai thì bị đẩy ra ngòai. Nhưng thánh Phaolô, cũng
là người Do thái, không nghĩ như vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho
ngài biết : ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng
cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí
mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó
là : trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin mừng , các dân ngọai được cùng thừa kế gia
nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều
Thiên Chúa hứa.
+ Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.
Các đạo sĩ phương Đông, là những nhà
chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các
vị biết có Đấng Cứu Thế đã ra đời và các
vị đã lên đường triều bái Chúa Hài Nhi.
Có người cho rằng đây không phải là
ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình
cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi
Thiên Chúa Giáng sinh, tiên tri Mikêa đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong
Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các
thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến sau khi các đạo sĩ tới cũng xác nhận
như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO “của Chúa bên phương Đông,
nên đến thờ lậy”(Mt 2,2).
Nếu tiên tri Mikêa không được Thiên
Chúa mạc khải, làm sao ông biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ?
Nếu đó chỉ là ngôi sao chổi tự nhiên
thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước
Do thái ? Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ tới Belem thì nó lại “biến” mất ?
Tại sao nói lại tái xuất hiện và đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra
mới dừng lại ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo
sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu Thế ? Vì vậy, phải gọi là “ánh sao
lạ Belem”.
Trên đường đi tìm Chúa Hài Nhi, các
đạo sĩ cũng gặp thử thách, nhưng kiên trì tìm hiểu và Chúa đã cho các vị được
tọai nguyện.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ánh sáng soi cho muôn dân.
I. CHUNG QUANH NGÀY LỄ HIỂN LINH.
1. Tên ngày lễ.
Ngày xưa ta gọi lễ này là
“Lễ Ba Vua” vì dựa vào việc 3 nhà bác học từ phương Đông đến triều bái Chúa Hài
Nhi với ba thứ lễ vật là vàng, nhũ hương
và mộc dược, qua ba lễ vật này người ta cho rằng những vị này là thuộc hòang
tộc và gọi họ là Vua. Gọi là Ba Vua vì chú trọng đến việc các vị đi tìm Chúa
Hài Nhi, còn ngày nay chúng ta gọi là lễ “Hiển Linh” (Epiphania) vì chú trọng
vào việc Thiên Chúa tỏ mình ra . Như vậy, Hiển Linh là việc Thiên Chúa biểu lộ
mình ra cho dân ngọai, cho thế giới ngòai Do thái giáo.
Vì lễ Hiển Linh mừng kính
việc Đức Giêsu tự tỏ mình cho thế giới dân ngọai, nên một số quốc gia mừng lễ
này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Thực thế, lễ Hiển linh là lễ Giáng sinh
dành cho dân ngọai.
2. Các đạo sĩ.
Đọc Tin mừng Thánh lễ hôm nay,
chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy
nói về các đạo sĩ (Magi) hay các nhà chiêm tinh. Ngày xưa ở Trung đông, nhất là tại Ba tư, các
vị chiêm tinh, hoặc các đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho
các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền
thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua.
Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại còn đặït tên cho họ là Melchior, Gaspard và
Balthazar. Rồi đến thế kỷ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng
cho tòan nhân lọai, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người
da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng
mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được
thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên
báo trong sách Dân số :”Một vì sao xuất
hiện từ nhà Gia-cóp, một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel”(Ds 24,17),
các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành,
bất chấp đường xa và nguy hiểm để thờ lạy Người.
Con số các đạo sĩ (chiêm
tinh) là bao nhiêu chúng ta không biết rõ. Do chi tiết ba thứ lễ vật ở câu Mt
2,11 mà từ xưa truyền thống vẫn cho là có 3 vị đạo sĩ; thực ra gốc từ không xác
định như thế, mà chỉ ở số nhiều (có thể hơn 3 mà cũng có thể dưới 3). Căn cứ
vào câu 1 và 2 các nhà chú giải cho rằng các vị này xét về tinh thần thì là
những con người có tâm hồn khát khao tìm kiếm chân lý (Đấng Cứu Tinh) nhưng các
vị cũng là các nhà chiêm tinh nhìn các vì sao mà biết có vua mới ra đời.
3. Lễ vật dâng Chúa Hài Nhi.
Thánh Matthêu viết :”Khi bước vào nhà và nhìn thấy Hài nhi cùng
Đức Maria Mẹ Ngài, họ liền quì gối xuống tôn thờ Hài Nhi đọan mang các tặng vật
ra gồm vàng, nhũ hương và mộc dược dâng lên Ngài”(Mt 2,11).
Ông Seneca ngày xưa cho biết rằng chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật. Các đạo sĩ cũng theo tập
tục ấy, các vị đã dâng ba thứ lễ vật cao qúi xứng đáng với các vị vua và nó cũng
có ý nghĩa tượng trưng đối với chúng ta ngày nay. Các vị đã dâng cho Chúa Hài
Nhi :
a) Vàng.
Vàng là vua của mọi kim lọai
xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Đức Giêsu là người “sinh ra để làm vua”, nhưng Ngài không
cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá. Vềø vương
quyền của Đức Giêsu, thánh Phaolô có viết trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô :”Chúa Cha đã phục sinh Đức Kitô từ cõi chết
và đặït Đức Kitô bên hữu Ngài trên thiên quốc. Đức Kitô cai trị trên vạn vật…
Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Đức Kitô” (Ep 1,20-22).
b) Nhũ hương.
Người xưa thường dùng nhũ
hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca
tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính
của Đức Giêsu. Khi nói về thiên tính Đức Giêsu, trong thư gửi cho tín hữu Do
thái, thánh Phaolô đã diễn tả như sau :”Chúa
Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể
của Thiên Chúa; Ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật”(Dt 1,3).
c) Mộc dược.
Mộc dược là hương liệu để
xông hay ướp xác người chết trước khi an táng. Vì chết là thân phận của con
người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược được tượng trưng cho nhân
tính của Đức Giêsu. Khi bàn về nhân tính của Đức Giêsu trong thư gửi cho tín
hữu Philipphê thánh Phaolô nói :”Chúa
Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như mọi người…
Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết và chết trên thập giá” (Pl 2,6-8).
II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
1. Đức Giêsu là ánh sáng trần
gian.
Trong bài khởi đầu sách Tin
mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là sự sáng :”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự
sáng của nhân lọai, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận
sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này, chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó về Ngài
:”Ta là sự sáng thế gian”(Ga 9,5).
Đức Giêsu là Aùnh sáng, ánh sáng
huy hòang hơn cả mặt trời. Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Đức
Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân tộc. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân.
“Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi
người”.
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo
hèn, Đức Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Đức Giêsu là Aùnh sáng chiếu
soi cho thế gian đang sống trong u tối, nếu không có ánh sáng, nhân lọai sẽ
không biết đường đi. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Ngài ờ trần gian để
trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
Truyện : Có cần Đức Giêsu không ?
Trong ấn bản trên mạng của
tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả
về niềm tin vào Đức Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên
tốt lành hay xấu hơn nếu như không hề có Đức Giêsu, thì
- 61% trả lời rằng : thế
giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn
nếu như không có Đức Giêsu.
- 47% nói rằng : sẽ có nhiều
cuộc chiến tương tàn hơn nếu như Đức Giêsu
không tồn tại nơi thế giới này (16% thì nói ngược lại, và 26 % thì cho
rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Đức Giêsu).
- 63 % nói rằng sẽ có ít
lòng nhân ái hơn.
- 58 % thì cho rằng sẽ có ít
lòng khoan dung hơn nếu không có Đức Giêsu.
- 59 % thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi.
- 38 % tin rằng sẽ có nhiều
sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Đức Giêsu (Công giáo và
dân tộc, số 1487-1488, th. 12/2004, tr 53).
2. Chúng ta là ánh sáng thế
gian.
Những người theo Chúa thì
được Chúa soi sáng cho, nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản
chiếu :”Chính các con là ánh sáng cho
trần gian”(Mt 5,14). Và nếu đã là ánh sáng thì phải chiếu tỏa ra như Chúa
dạy :”Một thành xây trên núi không tài
nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng
đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của
các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp
các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,15-16).
Vì Chúa tỏ mình ra cho muôn
dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có
bổn phận giúp cho lương dân nhận biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm
nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó lá “Aùnh Sáng” :
- Hãy đưa cao Tin mừng như
người ta nâng cao đuốc sáng để soi chiếu
mọi vùng tối tăm.
- Cách sống của những người
đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng
gương mẫu cho những người chung quanh.
Đức Giêsu nói :”Sự sáng của các
con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người”.
Còn thánh Phaolô thì nói :”Anh em
hãy chiếu sáng như những vì sao trên bầu
trời”. Tuy ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng
làm nên một đóm sáng trong đêm tối được.
Truyện : Ngọn hải đăng.
Vào một đêm mưa bão, ngọn
hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến
nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy
giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ
trách rằng :
- Ông đem tôi đi đâu vậy ?
Ông trả lời :
- Ta mang nhà ngươi lên sân
thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngòai khơi biết đường trở về và cập bến an
tòan.
Cây nến lại nói :
- - Nhưng tôi chỉ là cây nến
nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngòai khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi
được ?
Người phụ trách trả lời :
- Bây giờ ta chỉ cần nhà
ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.
Khi cả hai leo lên đến nơi,
thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra
chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay
bóng đèn điện. Aùnh sáng của nó có sức
chiếu ra tận ngòai khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an tòan.
Mỗi người chúng ta cũng là
một cây nến nhỏ trong bàn tay Thiên Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta là phải làm hết khả năng Chúa ban và phó thác
kết quả cho Thiên Chúa định liệu. Về vấn đề này thánh Phaolô cũng đã dạy :”Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới
là Đấng làm cho cây mọc lên”. Ngòai ra, người ta cũng thường nói :”Mưu sự
tại nhân, thành sự tại thiên”, hãy làm việc hết sức mình trước đã, rồi Chúa sẽ
thêm sức cho sau. Trong mọi hòan cảnh, chúng ta cần thực hành câu châm ngôn sau
:”Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn
ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
III. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO.
1. Ngôi sao dẫn đường.
Các đạo sĩ Đông phương đã đi tìm kiếm Đức Giêsu vì “Chúng tôi đã xem
thấy ngôi sao của Ngài”, nhưng ngôi sao của Ngài là ngôi sao nào ? Có những người đã tìm hết cách để giải thích
theo hiện tượng tự nhiên. Thực thì Chúa có thể dùng các hiện tượng tự nhiên vào các mục đích của
Ngài. Song theo lối diễn tả của thánh sử thì khó có thể giải thích theo các
hiện tượng tự nhiên được. Sao xuất hiện, dẫn đường, rồi biến đi, rồi lại hiện
ra đến chỗ Hài Nhi ở thì dừng lại ở trên… Những hiện tượng tự nhiên mà làm việc
đó thì cũng là quá sức tự nhiên vậy !
Chúng ta không biết ngôi sao
nào đã dẫn đường các đạo sĩ, nhưng chắc chắn có một ngôi sao kèm với sự soi
sáng và thúc đẩy các vị đi tìm Chúa Hài Nhi. Sự soi sáng của Chúa mới là chính
yếu, còn ngôi sao chỉ là phụ thuộc để theo đó mà thi hành thánh ý Chúa. Phải
biết nhìn trời mà nhận ra ý Chúa : các đạo sĩ đã biết nhìn lên bầu trời mà nhận
ra ngôi sao lạ. Từ ngôi sao đó, các đạo sĩ đã nhận ra vị Cứu Thế. Đời người
Công giáo cũng phải có lối sống đó :”Nhìn điềm
thời đại” đểû đón nhận ra ý Chúa (x.Mt 16,14). Vậy tất cả những việc xẩy ra
trong đời ta, dù lớn nhỏ, đều là ngôi sao điềm trời, cho nhận ra Thiên Chúa, ý
Ngài.
2. Đức Giêsu là ngôi sao Hy
vọng.
Tiên tri Isaia đã nói :”Dân đang lần bước giữa tối tăm đã nhìn thấy
ánh sáng huy hòang; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng
lên chiếu rọi”(Is 9,1).
Aùnh sáng bừng lên chiếu
rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang
của địa đàng vụt tắt, nhân lọai mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong
ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian. Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề
để ai phải thất vọng khi cậy trông nơi Ngài, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để
nỗi thất vọng nào chạm được đến chúng ta.
Bất kỳ ai cũng được hưởng ơn
cứu độ. Dân ngọai cũng được vào Nước Trời. Ngày xưa, những người theo đạo Do
thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do thái, nghĩa là có chịu phép cắt
bì mới được cứùu rỗi. Sách Công vụ tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ :”Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em
rằng :”Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo luật Maisen, thì anh em không thể
được ơn cứu độ”(Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm
tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin mừng hôm nay mạc khải một sự thật
hòan tòan ngược với lại quan niệm ấy.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, ta
thấy những người Do thái – mặc dù đã biết Đấng Cứùu Thế sinh tại đâu - lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh
ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng lễ vật cho
Ngài lại là dân ngọai từ tận đâu đâu
đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do
thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế,
Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối,
nên đã được đem đến cho dân ngọai.
3. Hãy theo ánh sao chỉ đường.
Các đạo sĩ khát khao được
triều bái Chúa Hài Nhi, họ thành tâm đi tìm Chúa chứ không lừa đảo như
Hêrôđê. Theo phong tục Á đông, họ đến để
thờ lạy Đấng Cứu Thế mới sinh. Kính bái và thờ lạy thường được dành cho người
mà ta coi là vĩ đại, cao trọng và quyền thế. Ta biết vua chúa thì thường sinh
ra nơi cung điện huy hòang. Ở đây Chúa Cứu Thế chọn sinh ra nơi hang bò lừa, có
thể là hôi hám, chứ không đẹp như ta thấy trang hòang trong các nhà thờ mùa
Giáng sinh. Vậy thì làm sao các đạo sĩ
có thể quì xuống thờ lạy một hài nhi mới sinh nơi hang bò lừa ? Đâu là cái dấu
hiệu để các vị nhận ra Hài nhi mới sinh trong hang bò lừa là Đấng Cúu thế
? Theo Thánh Kinh thì cái dấu hiệu là
ngôi sao lạ chỉ đường. Việc Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Belem đã được tiên tri
Mikêa loan báo cả ngàn năm trước. Vậy làm sao khi Đấng Cứu thế sinh ra , mà dân
được chọn không nhận ra ? Lý do là vì họ
mong đợi Đấng Cứu thế đến trong uy quyền vinh quang, nên khi Ngài chọn sinh ra
trong hang bò lừa, họ không nhận ra Ngài.
Theo gương các đạo sĩ, chúng
ta cũng phải lên đường đi tìm Chúa. Thật vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta
thành tâm thiện chí thì chúng ta sẽ tìm được ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức
Giêsu. Tất cả những việc chung quanh ta cũng như trong tòan thế giới cũng là
những ngôi sao nhắc nhở về Chúa, những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng mang một
sứ điệp nào đó của Thiên Chúa. Hãy chú ý
lắng nghe, cởi mở tâm hồn và đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với
chúng ta.
4. Mỗi người cũng phải là một
vì sao.
Thánh Gioan tông đồ nói :”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và
không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi
Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân lọai. Aùnh sáng chiếu soi
trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế
gian không chấp nhận Đức Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối !
Chúng ta phải làm sao cho thế gian chấp
nhận được Đức Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế trong thư gửi cho
tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyện :”Anh
em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Phaolô giải thích :”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng
ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách
khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị
“Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách
sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau
thì Thiên Chúa ở trong chúng ta , bởi vì “Thiên
Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm
cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà
thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô
hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời
ấy (Lm Carôlô).
Trong đời sống xã hội hôm
nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ
ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì lọan cào cào
với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là
sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
Trong phạm vi tôn giáo, ta
thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho
những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng (x. Lc
17,10). Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la
cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời của thế kỷ hai mươi.
Là Kitô hữu, chúng ta phải
là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành ngôi SAO MAI
chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh
tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày), vì thế
nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn.
Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao
hôm.
Aùnh sáng của SAO MAI (Kim
tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều
nhất :”Đẹp như ánh Sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt,
Kim tinh, Ngôi Sao Mai đã được dùng để chỉ Đức Trinh Nữ Maria : Stella matutina
(Đức Bà như ngôi sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã tung hô Ngài
bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như
vì SAO MAI rạng, như chính cửûa thiên đàng.
Sang thế kỷ 21 này, Thiên
Chúa vẫn còn muốn Hiển Linh nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân lọai ở thế kỷ
này. Chúa vẫn còn cần có những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời của thế hệ
này. Những ngôi sao lạ ấy là chính chúng ta.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt