CHÚA
NHẬT LỄ LÁ, A
THÔNG
CẢM VỚI CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh,
kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc
bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá.
Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc
làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối
với chúng ta : Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn
thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá
để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng . Nhưng sau
cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho
chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương
Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực
điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính
Ngài đã chẳng nhói :”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là
chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta
có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo :”Khi nào Ta
được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm
hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông
cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương
Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ : đường thập giá :”Nếu ai muốn theo Ta,
hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi
đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu
sóttrong cuộc tử nạn của Ngài để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người
khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 50, 4-7).
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi
Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ
ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với
những đặc tính sau đây :
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung
thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả : sự bách hại, tra
tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng,
không dùng bạo lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho
Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2 : Pl 2, 6-11.
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ
mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có
hai sự tương phản rõ rệt : sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người
phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi
tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ.
Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa
Giêsu đã được đền đáp : Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài
muôn vật.
+ Bài Tin Mừng : Mt
26,14-27,66.
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc
thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật
đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi
bật lên :
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền
giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu
của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận
của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn
cả. Bài thưong khó này được coi như bài
giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của
Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta ;
đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh
chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương
khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can
đảm đón nhật mọi gian nan thử thách
trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay
sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho
ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn
truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người
như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà
thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng
ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ : đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần.
Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là
đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ
có sự tương quan với nhau : đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau
khổ có thể đưa đến đau đớn , hoặc vừøa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế
nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau
đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế :
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần
có vui sao chẳng cười khì.
(Cao
bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các
đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của
Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa,
mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho
nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết
:
. 85% đau khổ là do người làm
khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt,
động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện
tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu
nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên
ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không
ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi
tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý
nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
*
Thiên Chúa giáo :
Theo nhiều bản kinh , nhất là kinh Lạy
Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là
thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra,
có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề
thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc
đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng
dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm
gửi trong một khoảng thời gian dự bị , thời sau mới là sung sướng hay đau khổ,
và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy
đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ
hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật
giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của
các đau khổ là : sinh, lão, bệnh, tử.
Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật
giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế
của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ
là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn
trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm :”Này các thầy Sa-môn, đây là
phép mầu về sự khổ : sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì
muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm
Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong
tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất
nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật
giáo. Chính phật Tổ cũng dạy :”Nước mắt
chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong
bốn bể”(Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
*
Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con
người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn
răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy.
Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không
để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể : Zénon de Cittium, thuộc
phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ
trương của phái mình trước đau khổ : coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai
đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà
vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại
bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh.
Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng :
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy
hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra.
Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói :
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm
gẫy đôi ống chân ra rồi.
*
Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và
cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương
tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng
những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ :
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách
tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao
bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không
vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói :”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”.
Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện
ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này : càng bị
giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr
108). Cũng một lẽ : chiếc lò xo bị nhận
xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị
nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng
hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định
rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng
như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái ; hoặc
muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục
đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu
nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào
trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành
cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức
Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này :”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúc rơi xuống đất không mục đi thì
cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với
Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau
khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương
đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến
:”Đối với con người tầm thường, sự đau
khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn
chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và
hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công
Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy
đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con
người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy
trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền
nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời
cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm
mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b)
Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ
man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức
mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn
sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong
cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không
có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát
có lợi hay có hại cho ta ? Phải chấp
nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ?
Phải phân biệt :
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc
chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con
sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất
nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm
sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa
Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu
đóng đinh : chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu
chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo
thánh ý Chúa.
Trong
một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles
khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác
nhau nhưng rực rỡ hơn :
“Một hôm gặp những người lấy một
trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ
ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ
chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết
trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp
đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi
được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy
những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm
nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu
ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và
vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của
Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những
hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm
trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn
hay rét cóng : Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng.
Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ
và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can
đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt