CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C
HÃY SÁM HỐI
+++
A. DẪN NHẬP
Hai tuần I và II Mùa Chay cho ta hiểu ý
nghĩa về thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Với Chúa
nhật III này, các bài đọc của Lời Chúa chú trọng vào một trọng tâm là phải ăn năn
sám hối và sinh hoa kết quả bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày
của Kitô hữu.
Chúng ta đã khởi đầu Mùa Chay bằng
nghi thức xức tro trên đầu, một nghi thức thật cụ thể để diễn tả một trong những
mục tiêu của Mùa Chay, đó là sám hối và trở về. Trong tâm tình đó, hôm nay vào
giữa Mùa Chay, một lần nữa, Mẹ Giáo hội mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân
từ hay tha thứ của Thiên Chúa để can đảm đứng dậy, sám hối về tất cả những yếu đuối
lỡ lầm của chúng ta trong cuộc sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi dùng
hai biến cố gây ra chết người làm bối cảnh cho giáo huấn của Ngài – Trước hết Đức
Giêsu đã đánh đổ quan niệm cũ sai lầm trong Do thái giáo, coi những người chết
vì bệnh tật, tai nạn, bị đàn áp… là những người tội lỗi – Rồi Ngài khẳng định rằng
nếu không sám hối và sinh hoa kết quả – mà cứ chai lì ra, thì sẽ chịu hậu quả
khốc liệt hơn những người chết trong hai biến cố trên – vì họ sẽ bị chính ÔNG
CHỦ LOẠI BỎ VĨNH VIỄN. Ôâng chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa và cây vả là ai ngoài
Kitô hữu, những người mà Đức Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu
Ngài.
Mùa Chay là cơ may Chúa ban cho để chúng
ta hối cải như thánh Phaolô đã nói với
tín hữu Côrintô :”Đây là lúc thuận tiện, đây
là ngày cứu độ”(2Cr 6,2b). Ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thời
gian gia hạn Chúa ban do lòng thương xót của Ngài. Sau khi cánh cửa thời gian
khép lại, chúng ta sẽ không còn cơ hội để hối cải và sinh hoa kết quả nữa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Xh 3,1-15.
Dân Do thái là mối quan tâm đặc biệt của
Thiên Chúa. Tuần vừa qua, qua bài đọc 1, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn chọn ông Abraham để thành lập
một dân mới, dân riêng của Ngài. Tuần này, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn
nhờ ông Maisen để cứu dân ấy ra khỏi ách nô lệ của Ai cập và đưa họ vào Đất Hứa.
Khi ấy, Ôâng Maisen đang trốn trong sa
mạc vì sợ vua Pharaon lùng bắt. Ôâng trông thấy bụi gai đang cháy bừng bừng mà
không bị cháy rụi. Ôâng đến gần xem sao. Thiên Chúa hiện ra và gọi rõ tên ông và
trao cho ông sứ mạng đưa dân ra khỏi Ai cập. Ôâng muốn hỏi tên Ngài, nhưng Thiên
Chúa chỉ trả lời cho ông:”Ta là Đấng Hằng
Hữu”.
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu. Có nhiều
lối giải thích kiểu nói này :
,
- Thiên Chúa từ chối không nói tên
mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa.
- Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu,
khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do thái
: người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng Giải thoát)
- Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
- Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là” : ngược lại với các thần
Ai cập chỉ là hư vô giả trá, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật (Carôlô).
+ Bài đọc 2 : 1Cr 10,1-6.10-12.
Tín hữu Côrintô đã được rửa tội và thông
hiệp Bí tích Thánh Thể, nên tưởng rằng mình đã được giải thoát khỏi mọi cám dỗ.
Phải luôn đề phòng kẻo bị sa ngã. Thánh Phaolô so sánh cuộc xuất hành về trời của
tín hữu ngày nay với cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa : mặc dầu
được Chúa che chở, nhiều người đã gục ngã trước những thử thách ở sa mạc. Kitô
hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do thái xưa, nhưng đừng bắt chước họ chiều
theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại, hãy tin tưởng phó thác
cho Chúa và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 13,1-9.
Người ta báo cho Đức Giêsu biết nguồn
tin sốt dẻo : quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng
lễ trong đền thờ. Đức Giêsu không muốn bày tỏ ý kiến về luân lý, chính trị hay
xã hội, mà nhân cơ hội này nhắc nhở cho mọi người : đứng trước những biến cố lớn
nhỏ của cuộc sống, hãy nhìn ra những tín hiệu nhắc nhở hãy sám hối để được sống.
Trong dụ ngôn cây vả không sinh trái, Đức
Giêsu nhấn mạnh đến những tai vạ sẽ đè lên trên dân tộc bất trung (Mc 11,13). Vậy
là Chúa mời gọi mọi người hãy sinh hoa trái của lòng sám hối. Phải biết rằng cuộc
sống của chúng ta chỉ là một thời gian được
gia hạn nên phải lợi dụng thời gian này mà sám hối.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sám
hối để được sống
I. HAI SỰ KIỆN, MỘT Ý
NGHĨA.
1. Hai sự kiện :
Đang lúc Đức Giêsu khuyên giục các
thính giả ăn năn sám hối, thì có người thuật lại với Đức Giêsu câu chuyện rùng
rợn về vụ quan tổng trấn Philatô giết hại những người Galilê đang khi họ dâng lề
trong đền thờ. Có lẽ đây là một cuộc biểu tình của nhóm người quá khích đang cố
dấy lên một phong trào nổi dậy để cứu dân,
chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang
dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô
tàn sát.
Đưa ra tin sốt dẻo này, chắc người ta
tưởng Đức Giêsu sẽ đồng tình truyên bố số phận của những người bị tàn sát và bị
tháp đè bẹp ấy là đúng lắm và Ngài cũng rơi vào lối ngụy biện thường tình, là
người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội nặng. Nhưng Đức Giêsu trả lời
cho họ rằng người ta tạm thời chưa bị đau khổ là dấu ân huệ đặc biệt của Thiên
Chúa.
2.
Một
ý nghĩa.
Người Do thái thường cho rằng những thử
thách xẩy đến cho một người là như một sự trừng phạt kẻ đó. Nói cách khác, đau
khổ là hình phạt của tội. Đối với Đức Giêsu, không có sự liên hệ nào giữa tai họa
và tội lỗi. Trong phép lạ chữa cho người mù từ mới sinh, người ta hỏi Đức Giêsu
: anh mù ấy do tội của anh hay của cha mẹ anh, thì Đức Giêsu trả lời rằng:”Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ
anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xẩy ra
là để các việc Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại một
sự kiện khác : 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết. Ngài khẳng định rằng đau
khổ không phải do Thiên Chúa gửi đến. Sự thử thách không phải là một sự trừng
phạt. Sự dữ xẩy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của qui luật vạn vật…
Thay vì buộc tội Chúa là “nguyên nhân đệ nhất” như các triết gia thường nói, chúng
ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng.
Đức Giêsu đã chiến đấu chống lại sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng
phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Như vậy là Đức Giêsu không muốn trả lời
thẳng vào câu hỏi mà họ muốn đặt ra : những người bị giết và bị đè chết là do tội
mà ra. Nhân dịp này Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học không phải thuộc lãnh
vực luân lý, chính trị hay xã hội mà là thuộc lãnh vực tôn giáo. Đức Giêsu phán
:”Nếu các ông không chịu sám hối, thì các
ông cũng sẽ chết y như vậy”. Lời nói của Ngài có tính cách răn đe : nếu các
ông không thay đổi cách sống. Ngài không có ý nói đến cái chết thể lý mà chúng
ta thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính cách mầu nhiệm
do tội lỗi gây ra : một sự hư mất đời đời. Như vậy, qua sự kiện một số người
Galilê bị giết Đức Giêsu muốn nhắc nhở cho người Do thái và chúng ta là phải sám
hối kẻo phải hư mất đời đời.
II. DỤ NGÔN CÂY VẢ.
1. Cây vả tại Palestine.
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả để
khích lệ người Do thái ăn năn hối cải. Quả vả là thức ăn quen thuộc đối với người
Do thái . Ở Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những
vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng
cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng
đáng với đặc ân đó. Đức Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nhắc nhở dân
chúng rằng họ sẽ bị xét đoán tùy theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Trong dụ
ngôn cây vả chúng ta thấy có những ẩn dụ :
- Người trồng cây vả là Tiên Chúa.
- Cây vả là dân Do thái.
- Người làm vườn là Đức Giêsu.
2. Cây vả không sinh trái.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến
hóa, tất cả cuộc tiến hóa nhằm sản sinh ra những cái gì có ích lợi, điều gì có
ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hóa, trong khi những gì vô ích sẽ
bị tiêu diệt. Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh ra gì cả
thì để làm gì cho nó ăn hại đất ?
Cũng thế, cây vả Israel phải sinh hoa
kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel, trong quá
khứ dân đã nhận được nhiều ơn. Chúa trông đợi nơi họ sinh nhiều hoa trái, tức là
sự trung thành với lề luật, sự phụng thờ sốt sắng và trong sạch… Kết quả không
như Chúa mong muốn. Chúa có quyền bỏ dân Chúa đã kén chọn.
Nhưng Thiên Chúa chấp nhận đề nghị của
Đức Giêsu cho khoan giãn một thời gian, để Đức Giêsu sẽ chăm bón thêm bằng cách
ban thêm nhiều ơn nhờ việc giáo huấn và
các phép lạ… Nhưng Israel vẫn cố chấp không hoán cải để sinh hoa trái. Vì vậy,
họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Chính việc tàn phá Giêrusalem năm 70 là sự việc chứng
thực điều đó.
3. Cơ may cuối cùng.
Một cây vả thường phải 3 năm mới trưởng
thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây
vả này được ban cho một cơ may nữa để sinh hoa quả nếu không sẽ bị chặt đi.
Dụ ngôn này muốn diễn tả Thiên Chúa chờ
đợi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những
lời mời gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu, Đấng trung gian giầu lòng thương xót,
nhưng nếu họ cứ cố chấp mà khoan giãn không chịu sám ghối, thì họ sẽ bị số phận
như cây vả không trái.
Như vậy, đối với chúng ta, nếu chúng
ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ
trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa
đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.
III. CHÚNG TA PHẢI
KHẨN TRƯƠNG SÁM HỐI.
1. Mọi người phải sám hối.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải
sám hối, không trừ ai. Đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những
người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm, trộm cắp, nhưng trong dụ ngôn cây vả
trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 13,1-9), lại là những người được coi là đạo đức,
ngay chính, được mọi người kính trọng : những người biệt phái.
Vậy người tốt cũng phải sám hối sao
? Trong trường hợp những người được gọi
là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây
vả trong bài Tin mừng này. Ôâng chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những
trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả
mà không sinh trái vả thì đâu còn là cây vả nữa, nó hoàn toàn trở nên vô ích.
Các Kitô hữu ít khi đặt cho mình câu hỏi
sau đây : Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không
chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng
những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhăm đến mọi người (McCarthy).
2. Khác biệt giữa thánh thiện và tội lỗi.
Người ta thường nói :”Nhân vô thập toàn”, không ai là con người
hoàn hảo đến nỗi không còn điều gì phải sửa đổi. Đức Khổng Tử đã đưa ra một chương trình tổng quát để đào tạo con người,
biến con người thành những hiền nhân quân tử và cao nhất là bậc thánh nhân, đó
là TU THÂN.
Tu thân có nghĩa là sửa mình. Phải sửa mình cho nên tốt hơn theo phương châm
của vua Thành Thang :Nhật nhật tân, hựu
nhật tân” : ngày ngày mới, lại ngày mới hơn. Muốn sửa mình, cần phải xét mình để biết rõ
con người mình.
Ôâng Trình
Tử đã thực hiện việc xét mình hằng ngày khi ông nói :”Nhất nhật tam tỉnh ngô thân” : mỗi ngày ta phải xét mình ba lần.
Thánh Phaolô
cũng nhắc nhở cho tín hữu Côrintô là phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người
mới. Con người mới đây là con người đã được tu thân, đã qua một quá trình biến đổi
cho nên tốt hơn.
Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã
nói:”Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và
người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai
là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội
lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Truyện : Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai
người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Ââu đã bị bắt quả tang ăn
trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST”
có nghĩa là Sheep Thief ! Ăên trộm cừu ! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải
mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này
là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và
cuối cùng chú đã bị chết trong tù ! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn
toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng
trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm
tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày
nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc
mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng :”Điều
đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi ! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán
ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
3. Tiêu cực và tích cực.
Lời kêu gọi sám hối của Đức
Giêsu hôm nay không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, nhưng là một lời
kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như bổn phận. Kitô giáo không phải là một
tôn giáo chỉ cấm những điều xấu như không được giết hại người khác. Giáo lý của
Chúa Kitô còn đòi buộc cả những điều tích cực : phải giúp đỡ tha nhân, yêu thương
người nghèo khó. Thánh Giacôbê đã nói :”Kẻ
nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Sám hối hay hối cải không chỉ
là từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, trái lại sám hối cũng còn có nghĩa là không được
như cũ mà phải tốt hơn, tấn tới hơn, nhân đức hơn và sinh nhiều hoa trái thiêng
liêng hơn. Do đó, một người sống cứ lừng khừng, tầm thường cũng đáng bị lên án
như kẻ có tội vậy. Trái lại, một kẻ được gọi là sám hối thực sự không những xa
lánh tội lỗi mà còn là con người có ích, trưởng thành.
Khi đọc dụ ngôn cây vả không
sinh trái, chúng ta phải luôn theo nghĩa tích cực, nghĩa là không phải điều xấu
điều ác đã không làm, nhưng là điều tốt, việc thiện đã bỏ qua. Người chủ vườn
thất vọng không phải vì cây vả đã cho trái xấu xí hay độc hại, nhưng vì nó đã
không sinh sản. Nó đã bị xét xử vì nó không sinh hoa trái. Bởi vậy, người sám hối
là người phải đổi mới để mỗi ngày một nên tốt hơn :”Phải tiến bước trên con đường sám hối và của đổi mới, và phải qua cửa hẹp
của thập giá, để thông ban hoa trái của ơn
cứu độ cho người ta” (GLCG số 853 ; Lumen
gentium đoạn 8).
4. Hãy tìm đến với Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ
vạn vật, trong đó có loài người chúng ta (x. St 2,4-8). Ngài là chủ của vũ trụ.
Đã là chủ, Thiên Chúa có toàn quyền kiểm điểm mọi vật từ vô tri vô giác cho đến
giống có sự sống như loài người, loài vật hay cây cối. Giống vật nào không vừa ý
Ngài, hay đi sai đường hướng Ngài đã chỉ
định, thì Ngài sẽ hủy bỏ đi. Phải tìm đến với Ngài để Ngài chỉ bảo cho biết phải
sống như thế nào mới đẹp lòng Ngài. Ngài ở gần chúng ta chứ không xa xôi gì, Ngài
ở sát cạnh chúng ta, luôn hiện diện bên chúng ta. Tiên sinh Chư Cát Võ Hầu viết :
Thiên
tính tuyệt vô âm,
Thương thương hà xứ tầm,
Phi cao diệc phi viễn,
Đó chi tại nhân tâm
Thiên Chúa vô hình vô tượng,
Ngự trời xanh mà chẳng thể tìm ra.
Tuy cao mà vẫn không xa,
Tìm Ngài không gặp đó là tại tâm.
Chúa đã trồng chúng ta là cây
vả trong lòng Giáo hội, Ngài luôn săn sóc cây vả này, Ngài mong cho nó sinh hoa
kết quả. Vì vậy, sám hối là một việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không
được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”,
lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống lầm lỡ đó. Hoặc
chúng ta lại ru ngủ mình bằng ý tưởng “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền
tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình” !!!
Nhưng cuộc đời chúng ta kéo
dài được bao nhiêu ? Người ta thường nói :Sinh
hữu hạn, tử bất kỳ”, chết bất cứ
lúc nào, ai biết được. Cái chết luôn gần kề, phải chuẩn bị cho kịp. Thiết tưởng
dụ ngôn cây vả không sinh trái trong bài Tin mừng là một lời cảnh cáo cho tất cả
Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra
tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa trái yêu thương, nhưng
cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình
thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang
chờ chúng ta :”Cái rìu đã đặt sát gốc cây,
bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3,10 ; Lc
3,9).
Truyện : Cơ may cuối cùng.
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà
vua bắt những kẻ phản loạn về. Ôâng ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ
:”Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị
giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu.
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như
vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng :
không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn (GM Arthur Tonne).
Nếu có người đặt câu hỏi : Hiện nay
trong Giáo hội còn nhiều người tội lỗi mà Chúa không diệït hết đi ? Để giải đáp
thắc mắc này, chúng ta cần nhớ đến lời người làm vườn thưa với ông chủ :”Thưa ông,
xin để thêm một năm nữa, nếu nó không sinh trái, chúng ta sẽ chặt đi”. Vẫn biết
trong Giáo hội có nhiều người tội lỗi, nhưng Chúa nhân lành vô cùng còn đợi chờ
và hy vọng, họ sẽ ăn năn hối cải như người coi vườn cố để cây nọ cây kia một thời gian nữa với hy
vọng nó sẽ sinh trái để bõ công trồng.
Đối với người thực tình sám hối thì không
có gì là quá muộn. Chúa sẽ tạo điều kiện cho họ. Một cây vả sau 3 năm mà không
sinh trái thì hầu như chẳng bao giờ sinh trái nữõa. Nhưng cây vả này được ban
cho một cơ may nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này
đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa
vô cùng nhân từ với kẻ sa ngã chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ cần con người có thiện
chí muốn hối cải tùy theo sức của mình, còn bao nhiêu chúng ta trao trọn cho Chúa
để Ngài cải hóa và hoàn thiện con người chúng ta để cho con người chúng ta sẽ
trở nên có giá trị gấp trăm ngàn lần.
Để kết thúc, tôi xin mượn lời và câu chuyện cha Mark Link để diễn tả
tư tưởng ấy trong những dòng sau đây : Có một bài thơ nói về một chiếc vĩ cầm cũ
kỹ. Giống như chúng ta, nó cũng có một cơ may thứ hai. Hơn nữa, nó còn là hình ảnh câu chuyện của bạn, của tôi
và của tình yêu Chúa dành cho chúng ta nữa. Hy vọng bài thơ ấy sẽ tác tác động đến
tâm hồn các bạn và sẽ thôi thúc các bạn tham dự thánh lễ hôm nay với niềm tri ân
và lòng yêu mến nhiều hơn thường lệ.
Truyện : cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán
lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm
gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán :
- Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả
giá đầu tiên đây ? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi
sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây ? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba
đồng, không còn ai nữa sao ?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm
lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó
ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần.
Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói :
-Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ
cầm cũ kỹ này đây ?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói :
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên
2000 ? Hai ngàn rồi ! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không ? Một người chịu giá
3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa !!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài
người trong họ la lên :
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái
gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy
!
Lập tức có tiếng đáp lại :
- Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào
đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng
đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác
nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa
chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác,
và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân
chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi
giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi
tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật ,
năm C, tr 75-76).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt