CHÚA
NHẬT 4 MÙA CHAY C
DỤ NGÔN NGƯỜI
CON HOANG ĐÀNG
+++
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có
xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng
phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa
hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do
là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Chính vì con người có quyền tự do nên
họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương
xót, Ngài vẫn yêu thương con người khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên
nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của
Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương
xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu
sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã.. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng
sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông
bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ
trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Madalena, Phaolô, Augustinô, Charles de
Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng
tự do.
Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi
chua xót vì đã sử dụng tự do sai trái ! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ mà
Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa
con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và cam đảm
làm cuộc trở về với Người Cha Nhân Hậu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gs 5,9-12.
Trong 40 năm trên đường về Đất Hứa,
Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn,
không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất Hứa rồi, mannna thôi rơi, và dân
bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc,
họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn
quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng
Nisan hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ
đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Trong cuộc hành trình về quê trời,
Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương
nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2 : 2Cr 5, 17-21.
Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương
xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hòa chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta
và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho
chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát
một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người : đó là tầm quan
trọng của sứ mạng hòa giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có
sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
+ Bài Tin mừng : Lc 15,1-3.11-32.
Thiên Chúa luôn giầu lòng thương xót và
tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua
3 dụ ngôn :
- Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7).
- Dụ ngôn đồng tiền bị mất
(Lc 15,8-10).
- Dụ ngôn đứa con hoang đàng
(Lc 15,1-3.11-33).
Trong dụ ngôn người con
hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm : tôn trọng tự do của con, sẵn
sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về
ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi
tâm : anh ta không có vẻ ăn năn thống hối
thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
Tuy thế, Thiên Chúa là người
Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng
ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài
vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào,
đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ
biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Trở
về với Cha nhân hậu
I. BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Theo giáo thuyết của các giáo
sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo
và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài
giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
Thấy thái độ Đức Giêsu đón
tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt
phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức
Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm :
a) “Ôâng này đón tiếp những người tội
lỗi” : Người Do thái hành động theo châm ngôn sau : Thiên Chúa yêu thương
những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm
ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu
làm ngược lại : Ngài đón tiếp các tội nhân.
b) “Và cùng ăn với chúng” :
Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn : là cùng ăn
với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì
thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ” Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp
thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị
bỏ rơi.
Trong chương 15, ta thấy Đức
Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái vì họ tự cho mình là
công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ.. Ba dụ
ngôn ấy là :
- Con chiên
lạc (Lc 15,4-7).
- Đồng tiền
bị mất (Lc 15,8-10).
- Đứa con
hoang đàng (Lc 15,11-32).
Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp
bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bầy tỏ nơi Đức Giêsu;
tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những
người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ
là công chính dành cho họ. Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà
chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về
tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quí báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc
biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này.
Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng,
những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ :
- Người kia tức là người cha
: ám chỉ Thiên Chúa.
- Người con cả : ám chỉ dân
Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái.
- Người con thứ : ám chỉ người
có tội.
1. Màn thứ nhất : Người
cha chia gia tài.
Theo luật của người Do thái,
người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con
thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được
phép chia gia tài khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng
khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm !
Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm.
Nó làm thế như có ý nói : “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước
sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
Người cha không tranh luận
gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ôâng cũng hiểu rằng nếu con ông cần được
một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức
khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
2. Màn thứ hai : Đứa con
thứ ra đi và trở về.
Nhận được phần gia tài rồi,
hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân
du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng
bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xẩy ra tại miền ấy.
Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn
chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất
phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
Sống trong cảnh nhục nhãø và
túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại : ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến
đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám
heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết,
chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này : tôi sẽ trở
về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu
dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà,
một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa,
thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không
thuộc về gia đình chút nào.
Sau khi đã suy nghĩ rất
hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca
đã mô tả :”Anh ta còn ở đàng xa, thì người
cha đã trông thấy. Ôâng chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.
Bấy giờ người con nói :”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng
gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng :”Mau đem áo đẹp
nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt
con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con tay đây đã chết
mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
3. Màn thứ ba : Người anh
cả giận dữ.
Đáng buồn thay, khi về đến
nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả
giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể tha
thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà vì anh sợ quyền lợi của anh bị
xâm phạm. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của
người cha.
Hóa ra, bấy lâu nay anh sống
trong nhà cha mà như ở bên ngoài : anh không trái lệnh cha chỉ để làm tròn bổn
phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng
không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp
kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
II. BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
Thiên Chúa là người cha giầu
lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng
đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng
tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa
con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chằm, hôn nó một hồi lâu,
không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa,
nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
Thái độ của người cha thật
tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ôâng đã lên tiếng
trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng
cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy
quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giầy là dấu hiệu làm con khác với nô lệ
vì con cái trong gia đình mới mang giầy, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được
bầy ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
Ta thường gọi dụ ngôn này là
dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người
cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn
là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông
chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì
cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có
sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được
tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng
tội người ấy vẫn còn giữ đó.Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt.
Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi.
Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui
thực sự.
Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln.
Một lần kia, Lincoln được hỏi
ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại
liên hiệp với Hoa kỳ ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng
Lincoln trả lời :”Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng
tôi”.
Đây là một dụ ngôn có tầm vóc
thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng
không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm
vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn
ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài
? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó
là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những
người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches
dominicales).
Truyện : Đứa con hoang đàng của Phật giáo.
Trong giáo lý nhà Phật cũng
có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người
con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng
của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm
tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm
tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng
người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và
cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để
con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu
vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà
của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người
con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của
cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và
được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
(Nguyễn văn Thái, Sống
lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128)
Câu chuyện này không khác gì
lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương
tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải
sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của
mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của
mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
2. Người con di hoang đã mất
nay lại tìm thấy.
Người con thứ được xác định
là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối
tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của
anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một
quyết định can đảm vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu
hổ.
Đúng thế, thậât dễ dàng trở
về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa
con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có
thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương.
Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà,
lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng thật ngạc nhiên, khi
người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương,
và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận
cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người
con hoang đàng đã nhận ra đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi
của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu
của người cha, anh luôn đuợc yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng
khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm
tuyệt vời.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không
phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại.
Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để
cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (McCarthy).
“Giây phút
người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản
của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của
heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu
hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải
chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời
gian sống trong tù thật đáng giá”(Oscar Wilde).
Truyện : Chúa quên hết tội rồi.
Một bà già thường đến gõ phòng
cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng
đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ
con có tội gì nặng nhất ? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng
thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa
lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không ?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp :
- Bà hỏi thế nào ?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo
:”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm :
- Vậy Chúa có trả lời không
?
- Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ lo lắng
thật sự :
- Chúa nói sao ?
- Chúa nói :”Ta đã quên hết
rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
3. Người anh cả bất hợp tác.
Người anh cả trở về nhà và
anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ
thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm
lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao
lâu anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét
và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với
em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ
và tái ngộ.
Thái độ của người anh cả đối
với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc
dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án
hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người
ta trở nên thương cảm hơn đối với những
kẻ bị sa ngã ? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều
này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người
anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể
tha thứ được.
Truyện : Người cha giết con.
Nhà truyền giáo T.R.
Stevenson ở Thượng hải kể : một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con
trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng.
Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị
lộ, người cha cho người đến nói với hắn : nếu biết đường cải tà qui chính thì sẽ
được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm
chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của
hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra tòa vì
theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con.
Từ câu chuyện này, các nhà
truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng
ta đọc hôm nay.
Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng
ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người
anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác :
Nói
người phải nghĩ đến ta
Suy
đi nghĩ lại hóa ra chính mình.
Người cha có hai người con :
người con đây là ai ? Và đứa con hoang đàng chỉ ai ? Các nhà chú giải không đồng
ý kiến.
Các nhà chú giải thời xưa
cho rằng : người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
Ngày nay quan niệm đó hầu như
bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây :
- Một ý kiến cho rằng : con
cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu
trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
- Ý kiến thứ hai cho rằng :
con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái
độ Chúa đối với tội nhân trở lại.
Xem chừng người ta nghiêng về
ý kiến thứ nhất.
Chúng ta là hạng người nào ? Dầu là anh cả, dầu
là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng
trước ơn Chúa. Trong cuốn Au Gré de Sa
Grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs
endurcis) mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người
con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là
hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo
đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
Có lẽ thái độ của người anh
tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người
cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là
người tốt nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự
mãn vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
Chúng ta đã ở vào giữa Mùa
Chay, chỉ còn một thời gian nữa là đến lễ Phục sinh. Mùa Chay là mùa được kêu mời
trở lại, chúng ta hãy can đảm nhận khuyết
điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên
Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự
lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người,
Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng,
nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để
phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi
lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội,
và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt