LỄ
THĂNG THIÊN C
CÁC CON LÀ
CHỨNG NHÂN
+++
A. DẪN NHẬP
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc
cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của
Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời
kỳ của Đức Kitô”â lại nhưỡng chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.
Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm
cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên
trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh.
Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải
chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).
Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu
đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng
trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng
thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn
dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở
về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm
của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên
trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước
mặt mọi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài
đọc 1 : Cv 1,1-11
Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng
ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40
ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông
những lời dạy cuối cùng
- Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng
sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.
- Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa
đã hứa ban.
- Ngài còn trao cho các ông
sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.
+ Bài đọc 2 : Ep 1,17-23
Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh
Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu
là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã
cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha
đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn
niềm tin cậy ở Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 24,46-53
Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh
Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :
- Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua
chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức
Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.
- Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm
diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình
trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa,
nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chứng
nhân của Đức Kitô
I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI
TRỜI.
1. Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.
Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công
vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục
sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày
Phục sinh. Thực ra, sách Tin mừng có ý viết
về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông
đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa
hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn
giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.
2. Ý nghĩa việc lên trời.
Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng
của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.
a)
Một giai đoạn đã qua.
Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái
chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.
Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng
Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội
trên thập giá và đã sống lại để cho những
ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy
đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ
đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ
nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không
gian.
b)
Khởi đầu một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng
với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục
trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng
bắt đầu từ Giêrusalem.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được
chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng
trái đất.
Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền.
Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với
người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta với
tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự
chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta ra
khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm
8,35-38).
II. TRAO SỨ MẠNG RAO
GIẢNG TIN MỪNG.
1. Sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải
rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ
hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng
cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).
Khi Chúa về trời thì cũng là
lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết
nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người
từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây
dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với
trời mới dất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc
để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa,
và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư
dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Truyện : Hoàn thành tác phẩm
Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo
Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi
tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị
ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải
hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.
Ôâng làm việc ngày đêm. Nhiều người
khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng
ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch này
được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng,
Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch
Turandot được, thầy muốn các con tiếp tục
công việc ấy cho thầy”.
Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi
Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của
ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch
Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ
đã hoàn tất vở ca kịch này.
Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới,
vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được
Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi
dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt
của người điều khiển. Ôâng ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng,
quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà
hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn
thinh lặng !
Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây
đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn
:”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot
kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo.
Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống
Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).
Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã
trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng
ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta
lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho các con”.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và
luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải
trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên
ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí
trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến
đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.
2. Rao giảng bằng cuộc sống.
Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến
những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng.
Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể
rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó
chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi,
Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng
Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,
Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,
Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc
Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có
chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,
Bản thân có
tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,
Gia đình có
thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,
Quốc gia có
thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa
Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa
lan khắp cùng thế giới. Nếu có đủ số người
Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn
sóng thủy triềâu, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời
đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG
CHO CHÚA.
Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48)
tức là làm chứng cho chính Thầy.
Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận
thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng
nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật
mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là
kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất
trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người
nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân
là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.
Tất cả những điều kể trên đã có quá
hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng
thời với Chúa, sau đó là chúng ta qua các
môn đệ Ngài.
Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng
nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống
với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ
tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.
Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng
cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu
bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh
của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục
sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó
chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại
của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự
chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài
người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường
sinh của loài người.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người
chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một
chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh
nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao
sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt
nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo
giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?
- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin
theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông
ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?
- Rất tiếc là tôi đã có học những chi
tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu
tuổi ?
- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không
dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác
phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta ?
- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để
có thể quả quyết là anh đã thực sự đi
theo ông Kitô.
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn
vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này
: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút
cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các
con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu
và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các
con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều
này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã
làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).
Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức
Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau
:”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế
giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình
với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu
với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện”
(Evangelii nuntiandi, đoạn 41),
IV. HÃY THEO CHÚA VỀ
TRỜI.
1. Quê hương chúng ta ở trên trời.
Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức
Giêsu dã khích le äcác Tông đồ :”Lòng các
con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy,
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho
các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với
Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).
Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói
rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và
chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).
Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng
ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải
hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã
yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê
hương trên trời.
Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải
nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến
luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh
cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang
thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.
2. Điều kiện để về trời.
Đức Giêsu phán :”Không phải
những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm
theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).
Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành
theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời
này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngắm
cõi đời mà thôi !
Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các
nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối
liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở
đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời.
Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như
đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong
bối cảnh của cõi sống đời đời.
Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích
thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất
cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt
cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái
lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều
kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ
quên hết đời sau.
Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi
chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm
tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái
ngộ với Thầy mình trên quê trời.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt