LỄ CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT
CHỨNG NHÂN ANH DŨNG
*******
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT
Hôm
nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam
long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm
vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm
chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo
sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta
với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc
truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái
chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam
phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các
vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
Nhà
cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh
Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình
phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem
một số hình phạt man rợ và bất công đó :
- Bá đao : bị lý
hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
-
Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4
vị.
-
Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
-
Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý
hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù :
bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và
chết gục trong tù. Chết cách này có 9
vị.
Cũng
nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc !
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi
biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của loài
người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế
hoạch Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.
Do
sự thi hành kế hoạch Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp,
trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công
giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh
mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị
giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác,
100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế
họach phân sáp gồm bốn mặt :
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở
trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy,
của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người
bên lương, những người này sử dụng và
nộp thuế lại cho Nhà Nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo
ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau,
mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công giáo thì phải để
cho gia đình người lương nuôi.
Đây
là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng
bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng : các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo
hội Việt nam, hiện nay, vẫn mạnh và vươn lên (Internet).
Có
nhiều lý do đẫn đến cảnh bách hại : vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những
nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300
năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận
lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự
của các tử đạo tại Việt nam cũng không
có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến
130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần
trong dân Chúa và ngành nghề xã hội : các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai
Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo
dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....
Giáo
hội tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong
lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng
kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm là ngày kỷ niệm
thành lập hàng giáo phẩm tại Việt nam
vào năm 1960.
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.
Xưa
nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách
thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh
vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo
nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng
nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Sự
thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì
đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus,
Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ
những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người
chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ
Martys này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.
Vậy
thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân
khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một
cách thức làm chứng mà thôi, chứ không
phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô. (Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr
310-311)
Nếu tử đạo do tiếng Martyr
là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo nhất là thời
Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng
can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải
chết. Còn cách xử dụng thông thường của
Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu
mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
Theo
nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới
xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong
cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất
là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về
lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết mà
Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực
hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố :”Ta đến
trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại
thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo : đó là
hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm
chứng cho sự thật.
Kinh
nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển
bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã
khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán :”Khi
nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu
làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sở khai với cuộc tử
đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Rôma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế
Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
Hoàng
đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên :”Các
ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu),
các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
Cuối
cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng nên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ
thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành
phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là
hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
Tại
sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa ?
Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá
và không gì có thể đổi lầy được vì :”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn
thì ích lợi gì” (Mc 8,36).
Truyện :
Xin mua được một linh hồn.
Thế
kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến
trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô
tuấn tú, quan động lòng thương.
-
MỚI - quan nói – con cứ đạp thánh giá
đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
-
Bẩm quan lớn, mộ nén bạc chưa là gì.
-
Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.
-
Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
-
Sao ? quan sửng sốt, quát : Thế còn chưa đủ ư ? Vậy mày muốn bao nhiêu ?
-
Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì
có thể mua được một linh hồn khác
đã...
Và
người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.
1.
Theo công đồng Vatican II.
Trong
hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa
riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm
tử đạo có từ trước. Theo công đồng, tử
đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng
như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho
việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin.
Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô
trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt
bớ thường xẩy ra cho Hột thánh (LG. số 42).
Một
số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner
trong cuốn Excursus sur le martyr :
”Tử đạo đơn thuần là
cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra,
Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho
Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong
hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang
dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh
phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thẫm kín này, trong thế giới ngày
nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một
hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
Nhà
thần học Cha Urs von Balthasar cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh
rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế
gian và tử đạo là trạng thái bình thường
của lời chứng Kiyô giáo.
Etienne
Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế
thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì
cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện
trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
2.
Tư tưởng chung thời nay.
Nếu
như các nhà thần học nói :”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta
phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị
đoạ đầy ? Chắc không phải thế. Cần phải
hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.
Ta
đặt câu hỏi : bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo
không ?
Ngay
từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế
này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin
hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo
hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn
được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ
xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế
thừa các anh hùng tử đạo.
Từ
đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo :
*
Tử đạo đo : là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
*
Tử đạo trắng : sống đời hãm mình trinh tiết.
*
Tử đạo xanh : chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không
phải là quê hương
xứ sở mình.
Chính
thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng:”Tôi cảm thấy tôi có ơn
gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và
tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành
mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng
giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi
của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá
ra ơn gọi của tôi : ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi
người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo
không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng
cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác
như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu
nói của Chúa :”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau
...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói :”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ
thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như
phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
Truyện :
Chết theo lệnh vua.
Trên
bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu
Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay
trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.
Nhà
vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre :
-
Nhà ngươi muốn gì ?
-
Ta muốn nhà vua đầu hàng.
-
Đầu hàng ? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu
hàng nhà ngươi ?
-
Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế
rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh
cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai
thành.
Tò
mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên
tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan
quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ
tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt
nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết
theo. Từng người, từng người theo nhau
đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ
thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững
sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho
Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng,
nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
Chúng
ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của
Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo
hội Việt nam bằng lòng trung tín các
Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Chúng ta nghĩ thế nào về những cái chết anh hùng của cha ông chúng ta đã dâng
hiến mạng sống mình cho Chúa ? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương
các ngài?
Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt
nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ
không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu
như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong
thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo
khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn
giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người
chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa.
Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ,
sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
Lễ
kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì
các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là
tất cả.
Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị
vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một
cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là
Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày
anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
Một
người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội.
? Anh mở đầu như sau :”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”,
rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau
cùng anh kết luận :”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng
triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài
bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như
nhau”.
Không
biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các
thánh tử đạo : các Ngài khôn hơn nhiều
người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải
bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì
qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Giáo
hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá
máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 26 giáo phận , với hàng giáo phẩm được
thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc hơn 6 triệu tín hữu. Chúng ta phải
bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat :
Cái
nhà là nhà của ta,
Ông
cố ông cha làm ra
Cháu
con ta gìn giữ lấy
Muôn
năm với nước non nhà.
Nếu
chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được
các ngài khen là :”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”. Nếu chúng ta
không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng
xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu :”Đời cha vo
tròn, đời con bóp méo”.
Ngày
lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài
để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày.
Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì
chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”. Hãy thực hiện lời
Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23).
Theo Chúa là phải từ bỏ
mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc
sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo
tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không
phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói
của thánh nữ Têrêsa Hài đồng:”Ơn gọi
tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt