CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN C
RA
ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG
+++
A. DẪN NHẬP.
Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin mừng Nước
Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là
làm cho mọi ngườiø được nghe biết Tin mừng. Mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong
lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ :”Lúa
chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa
về”(Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu
đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên
họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi
và đã trở về trong hân hoan. Đức Kitô cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước Trời.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn muốn cho công
việc rao giảng Tin mừng ấy phải được tiếp tục trong Hội thánh. Vậy những ai được
và phải loan báo Tin mừng ấy ? Đó là mọi
Kitô hữu. Tất cả những ai đã được chịu phép rửa tội đều có sứ mạng nên thánh và
truyền giáo (Redmptoris Missio)). Như vậy,
các thợ gặt trong cánh đồng truyền giáo không phải chỉ là các Linh mục và nam nữ
tu sĩ mà là mọi người mang danh là Kitô hữu. Chúng ta hãy tham gia vào việc
truyền giáo bằng cách sống sâu sắc niềm tin của mình và cố gắng trở nên muối đất
và ánh sáng cho trần gian trong mọi môi trường xã hội mình đang sống.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Is 66,10-14c.
Vua Cyrus nước Ba tư vừa tiêu diệt đế
quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân Do thái hồi hương. Tuy đã được thoát
khỏi ách lưu đầy, dân Do thái vẫn tỏ ra
chán nản vì Giêrusalem vẫn chưa được phục hưng như bao người mong đợi. Tiên tri
Isaia yên ủi họ bằng cách nêu lên những niềm hy vọng về một tương lai còn mờ mịt.
Sau những cơn đau dữ dội của việc sinh con, người phụ nữ Sion cảm thấy vui mừng
thư thái.
Đó là hình ảnh dân Do thái, một dân tộc
được Chúa săn sóc với một tình yêu của một người mẹ. Chúa sẽ ban phúc lành cho
dân, và phúc lành quí giá nhất là bình an.
+ Bài
đọc 2 : Gl 6,14-18.
Đây là đoạn cuối thư gửi cho tín hữu
Galata, thánh Phaolô nói lên trọng tâm của Đạo thánh là mầu nhiệm thập giá của Đức
Kitô. Có những người coi thập giá là cớ vấp phạm, có người cho là sự điên rồ,
nhưng thánh Phaolô đã khám phá ra giá trị tuyệt với của nó :
- Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi
người và ban cho họ sự sống mới.
- Thập giá là lẽ sống của thánh Phaolô
:”Đối với tôi, không một vinh quang nào
khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô”.
- Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc
của ngài.
+ Bài
Tin mừng : Lc 10,1-12.17-20.
Bài Tin mừng được chia thành hai phần
:
a)
Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng.
Trong bài Tin mừng, Luca và chỉ có
Luca tường thuật việc Đức Giêsu tuyển chọn 72 môn đệ và sai đi trước “đến các
thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”. Con số 72 được nhắc đến, phải chăng
là để ám chỉ 72 nước phát xuất từ miêu duệ ông Noê sau đại hồng thủy, hình ảnh
thế giới được kêu gọi đón nhận Tin mừng. Luca nhấn mạnh rằng không riêng gì các
Tông đồ, mà tất cả mọi người được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin mừng, vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến”(Lc
10,2).
b)
Khi đi truyền giáo trở vê.
Sau một thời gian đi truyền giáo trở vê,
các môn đệ vui mừng kể lại cho Đức Giêsu nghe về những thành công của mình, nhất
là thành công trên ma quỉ. Trong tình thân mật thầy trò, Ngài chia vui với các ông,
đồng thời cũng nhắc nhở các ông rằng những thành công ấy đáng ghi nhận , nhưng thành công lớn lao là họ được Thiên Chúa
coi họ là công dân Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Này
Thầy sai các con đi
I. CÁNH ĐỒNG TRUYỀN
GIÁO HÔM NAY.
1. Cánh đồng lúa chín Sichar .
Đức Giêsu đã ra đi rao giảng Tin mừng
về Nước Thiên Chúa. Ngài nhận thấy dân chúng muốn được nghe rao giảng Tin mừng.
Có những người quên ăn quên ngủ đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng, đến nỗi
thấy họ đói, Ngài đã làm cho bánh hoá nhiều hai lần để nuôi sống họ. Ngài thấy
cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la bát ngát trải rộng ra trước mắt Ngài. Cánh đồng lúa chín là mối ưu tư hàng đầu của
Ngài, nên khi đi qua cánh đồng lúa chín Sichar, đúng là tức cảnh sinh tình, Ngài
đã bộc lộ tâm tư với các môn đệ :”Lúa chín
đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con
hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa của Người”(Lc 10,2).
2. Cánh đồng truyền giáo hôm nay.
Chúng ta nhận thấy trên thế giới hôm
nay có gần 7 tỷ người, nhưng mới có 1,5 tỷ người biết Chúa. Tại Á châu, trong số
3,5 tỷ người mới chỉ có 100 triệu tín hữu
Công giáo, tính theo tỷ lệ là 2,6%. Như vậy, cứ 100 cánh đồng lúa chín, mới có
2,6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97,4 cánh đồng bị bỏ hoang. Chưa kể toàn bộ cánh đồng
đã bị bỏ hoang mãi cho đến thế kỷ 16 mới có thợ gặt. Đặc biệt thánh Phanxicô
Xaxiê không chỉ là thợ gặt mà là máy gặt.
Riêng tại Việt nam chúng ta, dân số hiện
nay lên tới 86 triệu, mà số người Công giáo mới tới hơn 6 triệu, tính ra mới được
7%, còn lại 93% kia thì sao ? Cánh đồng truyền giáo của chúng ta vẫn còn trải
ra trước mắt.
Vì thế, trước tình trạng khẩn cấp ngày
nay, Thượng Hội đồng Giám Mục Á châu đã được tổ chức tại Roma, từ ngày19/04 đến
15/05/1998, gồâm có 158 vị đại diện hàng Giám mục Á châu và một số Giám mục đại
diện các châu lục khác, cùng với một số chuyên viên, tất cả 230 vị dưới quyền hướng
dẫn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II để bàn về vấn đề truyềân giáo của Á châu
ngày nay.
3. Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo.
Chỉ có Luca tường thuật việc Đức Giêsu
chọn 72 môn đệ và sai đi trước “đến các
thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”.
Con số 72 hay 70 (tùy theo thủ bản Hy lạp hay Hy bá) có liên hệ với con số 72 dân
tộc làm nên nhân loại theo bản thống kê dân số của Kinh Thánh sau cơn đại hồng
thủy (St 10,10).
Theo các giáo phụ của Giáo hội Công giáo,
số 72 là con số có tính cách biểu tượng của các dân tộc và quốc gia trên thế giới
vào thời Đức Giêsu sinh sống.
H.
Cousin giải thích thêm : Bảy mươi hai ông thực ra không phải chỉ là những giao liên tiền trạm,
nhưng họ chính là những đại sứ đặc mệnh toàn quyền, giống như nhóm Mười Hai, có
quyền lực trên các thần dữ (9,17) và có trách nhiệm công bố Nước Thiên Chúa
(10,11). Như thế tác giả muốn xác định rằng không chỉ có Mười Hai ông mới được
chính thức được Đức Giêsu bổ nhiệm đi truyền giáo trước lễ Vượt qua. Nhưng khi Đấng
Phục Sinh hiện ra, thì cả Nhóm Mười Một với những người đồng hành sẽ là những
người được Chúa trao cho sứ mạng truyền giáo
(Fiches dominicales C, tr 239).
II. TƯ CÁCH CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO.
1. Tinh thần hiệp thông.
Đức Giêsu sai “Cứ từøng hai
người” đi trước Ngài vì họ phải hoạt động với tư cách chứng nhân. Theo truyền
thống Kinh Thánh, người ta không được đặt tin tưởng vào lời xác quyết của một
người duy nhất, mà cần phải có lời của hai hoặc ba nhân chứng.
H. Cousin quả quyết : “Con số hai không do ngẫu nhiên, bởi vì khi có
tranh cãi (Đnl 19,15), câu nói đáng tin
phải dựa trên lời của hai hoặc ba nhân chứng, trường hợp giả dụ được nói
đến ở câu 10-11. Trong sách Công vụ Tông đồ, Luca sẽ minh hoạ công việc truyền giáo của “từng cặp”, như
Phaolô và Barnabê (13,2-4), Barnabê và Marcô, Phaolô và Sila (15,39-40).
(Fiches dominicales C, tr 240).
2. Tinh thần chịu đựng.
Đức Giêsu nhắên nhủ các môn đệ :”Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy
sói” (Lc 10,3). Các con hãy ra đi ! Đây là một lệnh truyền. Ngài không che
giấùu sự khó khăn trong việc truyền giáo. Sự khó khăn này do kẻ thù của Nước Trời
gây ra. Các ông sẽ bị bắt bớ bởi đó là số phận của những kẻ được gọi để rao giảng
Nước Trời. Đứng trước những khó khăn, các môn đệ như con chiên giữa sói rừng. Con
chiên thì hiền lành. Vì thế các môn đệ phải có lòng khoan dung, nhân hậu và yêu
thương thù địch, chứ không thù oán như thái độ của Giacôbê và Gioan đối với người
Samaria (Lc 9,54).
3. Tinh thần siêu thoát.
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép...”. Đức Giêsu đòi các môn đệ phải có tinh thần siêu
thoát đối với của cải vật chất. Nói rõ ra, Ngài đòi các môn đệ phải sống khó
nghèo thực sự, vì khó nghèo là điều kiện để được vào Nước Trời (Lc 6,20). Không
nên ỷ vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng võ khí của
quyền lực, của giầu sang, lộng lẫy, huy hoàng... Do đó, yêu sách đầu tiên của
Giáo hội là theo gương của Thầy mình là
trở nên khó nghèo.
4. Tinh thần nhanh nhẹ.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”.
Đây không phải là một lệnh về
sự vô lễ, nhưng là một sứ mệnh khẩn cấp
không được trì hoãn. Giống như xưa kia người đầy tớ của tiên tri Êlisê trong sách
các Vua (2V 4,29), các sứ giả được lệnh lên đường đừng mất nhiều thì giờ trong
việc chào hỏi dài dòng của người phương Đông.
Lời khuyên nhủ này có ý nhắc
nhở các môn đệ hãy tránh xa những chuyện vô ích thường thấy trong xã hội Cận đông
thời Đức Giêsu. Người môn đệ đi truyền giáo đừng chia trí nhưng dồn nỗ lực vào
việc rao giảng Nước Trời là điều cấp bách.
5. Tinh thần kiên nhẫn.
“Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón”.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm
về vấn đề này. Ngài đã phải đối diện với những thất bại, những sự khước từ, chống
đối, không tin. Do đó, Ngài muốn truyền cho các môn đệ kinh nghiệm đó để các ông
đừng ngạc nhiên, đừng thất vọng. Nhưng các ông hãy tin chắc rằng, dù các ông có
muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, Nước Thiên Chúa sẽ phổ biến
khắêp nơi.
Tuy nhiên, về phía các ông,
trong thời gian rao giảng Tin mừng, các ông sẽ gặp phải sự chống đối và khước từ.
Các ông hãy nhẫn nhục chịu đựng, đừng nổi nóng lên như trường hợp ông Giacôbê và
Gioan muốn xin lửa trên trời xuống đốt cháy dân làng Samaria đã dám từ chối
không tiếp nhận Đức Giêsu và các ông. Sau cùng,
những thất bại cấp thời của các ông vẫn góp phần vào việc làm thành một
thành công lớn : Nước Chúa sẽ hiển trị. Đừng sợ thất bại vì ngạn ngữ Pháp có nói
:”Thất bại là mẹ thành công”.
III. ƠN GỌI RA ĐI TRUYỀN GIÁO.
1. Sứ mạng truyền giáo của mọi
người.
Khi xuống thế làm người, một
phần nào đó, Đức Giêsu bị hạn chế trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng
của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm
tuổi hay trường thọ hơn nữa để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân
thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm
vào đó, Ngài còn nhờ đến mấy ông quê mùa, dốt nát phụ giúp công việc truyền đạo
khi chọn 12 Tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã gần
7 tỷ người mà chỉ có một tỷ rưỡi Kitô hữu.
Tại sao Chúa không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến
con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo ?
Lý do là vì Chúa muốn mọi
tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công
việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế,
Khi Đức Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa
muốn trao cho chúng ta trách nhiệm là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh
em nữa.
Ngay khi lãnh Bí tích Rửa tội,
người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Trong hiến chế tín lý Lumen gentium, công đồng VaticanII nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh
phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái.
Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bất khả phân ly của ơn gọi
dành cho mọi người đã chịu phép rửa tội. Cam kết trở nên thánh thiện hơn được
liên kết chặt chẽ với sứ mạng truyền bá
thông điệp cứu độ.
Trong thông điệp Redemptoris
Missio của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2, đoạn 9, có nhắc lại rằng :”Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh
thiện và sứ mạng truyền giáo”.
2. Việc Tông đồ giáo dân.
Bảy mươi hai môn đệ còn là
hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo
phẩm. Đức Giêsu đã nói :”Lúa chín thì nhiều
mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai ? Trước đây người ta thường dành danh
xưng “thợ gặt” cho các Linh mục. các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là
một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa
chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ
làm nảy sinh những hình thức hoạt động
khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm
việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
Thánh Luca cho biết các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa
các đô thị và vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được
khai sinh không phải do hoạt động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng
do hoạt động tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề
nghiệp và họ đã loan báo Đức Giêsu (Rm 16).
Giáo hội được xây dựng trên
nền tảng Tông đồø thì đồng thời cũng dựa trên sức mạnh của từng viên gạch nối kết
đó đây xuất hiện những Giáo hội địa phương giữa vùng đất “ngoại” do những người
đàn ông đàn bà giáo dân gầy dựng. Giáo hội Triều tiên chẳng hạn đã được khai lập
đầu tiên không phải do các Linh mục thừa sai mà do chính giáo dân bản xứ, như
ngày xưa, tiếng gọi của một người Macédonia :”Hãy vượt biển, đến cùng chúng tôi”(Cv 16,9) đã hấp dẫn Phaolô và là
nguyên do của giáo đoàn.
Truyện : Đôi tay của Chúa.
Vào cuối thế chiến thứ hai, để
thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới đuợc giải phóng
khỏi tay quân Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại
từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước ngôi
nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán
lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức
tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành
như bụi.
Sau nhiều giờ bàn luận và gần
như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến
tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết
vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được
nhiều khách du lịch đến vùng này để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có
thể đoán được hàng chữ này không ? Đó là :
“CHÍNH BẠN
LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.
3. Truyền giáo bằng sống niềm
tin.
Trong bí tích Rửa tội, Linh
mục hỏi người chịu phép rửa :
- Hôm nay con xin gì cùng Hội
thánh ?
Người chịu phép thưa :
- Thưa, con xin đức tin.
Linh mục hỏi tiếp :
- Đức tin sinh ơn ích gì cho
con ?
Người chịu phép thưa :
- Thưa, đức tin đem lại cho
con sự sống đời đời.
Như vậy, Thiên Chúa đã ban đức
tin cho người chịu phép rửa tội, và một khi đã là một Kitô hữu thì phải có đức
tin. Một Kitô chỉ có đức tin thôi chưa đủ, còn phải sống đức tin nữa, nghĩa là
phải thể hiện đức tin ấy trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế, thánh Giacôbê
đã quả quyết :”Đức tin không có việc làm
là đức tin chết”.
Có người cho rằng sống đức
tin Kitô giáo là biết “sống tử tế” với mọi người. Sống tử tế
là sống thế nào cho xứng với danh hiệu là “Kitô hữu”, người được mang tên Chúa,
được thuộc về Chúa. Một trong những cuốn
phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện tử tế”
của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua
và được trình chiếu trong chương trình có tên “Đại dương”. Khi một ký giả ngoại
quốc hỏi :”Những người Kitô Việt nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế”? Nhà đạo diễn đã
trả lời :”Điều người ta mong đợi ở các người Kitô hữu Việt nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ
tin.
Lời phát biểu của nhà đạo diễn
trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một
đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian
manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của
mình là phải sống, phải tin thật tử tế,
tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với
nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các
linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu chúng ta (Phạm văn
Phượng, Chia sẻ Tin mừng, năm C, tr 161).
Truyện : Đức tin sống động
Felix Frankfurter là một
quan toà nổi tiếng của toà án tối cao của Hoa kỳ. Một lần kia ông được đưa vào
bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói
chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.
Trước đó, chưa bao giờ ông gặp
được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt đầu tự hỏi và
suy nghĩ, cố gắng phám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như
sau : Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản , chỉ là sự áp dụng thực
hành đức tin của chị.
Lucy không bao giờ biết đức
tin sống động của chị có ảnh hưởng như
thế nào, nhưng chịâ đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị
đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người
ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể trở thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
Một quan hệ thật sự với Đức
Giêsu sẽ có một ảnh hưởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức
Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ, khi
thuận lợi, nói về Đức Giêsu một cách rõ ràng cởi mở (McCarthy).
4. Truyền giáo bằng đèøn sáng
và muối đất.
Đức Giêsu đã gọi các môn đệ
của Ngài là muối cho đời và ánh sáng cho thế gian (Mt13-14). Muối, ánh sáng và
thành xây trên núi là những hình ảnh nói lên vai trò chứng tá của môn đệ Chúa
trên trần gian.
Muối thì thấp hèn, âm thầm và
khiêm tốn, nhưng muối có hai công dụng chính : ướp cho khỏi hư và làm gia vị. Người
môn đệ phải giữ cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho sự thăng tiến của
xã hội. Người Kitô hữu mang danh nghĩa là con cái Thiên Chúa, phải hết sức bảo
vệ và phát triển danh nghĩa ấy trong môi trường thế gian, nếu không làm như vậy,
thì người Kitô hữu đã bị biến chất và trở nên vô dụng, vô tích sự.
Còn ánh sáng thì rực rỡ, huy
hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật. Người
Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để
soi dẫn cho những người chung quanh biết đường về cùng Thiên Chúa. Việc tỏa sáng
bằng đời sống gương sáng và chứng tích để lôi cuốn, phải được coi là bổn phận của
người Kitô hữu vì “đèn thắp lên là để soi sáng cho mọi người trong nhà”.
Là muối, là ánh sáng thế
gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần
phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình nghười. Dù chỉ là
ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của một Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho
cuộc sống.
Truyện : Ảnh hưởng của chứng từ.
Ông Pi-tơ Bơ-rốt là một người
ngoài công giáo, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh thiện của Giám mục Fénelon.
Ngày kia ông đã liên lạc với vị Giám mục thời danh xin ngài cho ông tới thăm một thời gian.
Vị Giám mục đã niềm nở tiếp đón
khách và đối xử ân cần đến nỗi Pi-tơ Bơ-rốt còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình.
Tuy nhiên chỉ lưu lại được vài ngày ông đã thu dọn hành lý, chào vị Giám mục và
ra đi trước thời hạn dự định.
Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ đi như vậy, ông Pi-tơ Bơ-rốt
đã thú nhận :”Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở lại sớm muộn tôi cũng sẽ
theo đạo Công giáo mất, một điều mà hiện tại bản thân tôi chưa muốn”.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt