CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN C
HÃY Ở KHIÊM NHƯỜNG
+++
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ
thương, hòa đồng với hết mọi ngườiø, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt
xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù
của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt
phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay
cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái . Còn về phía những
người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất
cứ một phương diệân nào.
Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc
tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui
trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp
này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh
mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu , vì những lời ấy đánh trúng tim đen
của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự
trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người ta đánh giá và định đoạt. Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần
bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo
huấn của Ngài được kết tụ trong câu :”Ai
hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con
người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối
tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng
ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng
vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một
khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa
mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành
thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và
trước mặt người ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Hc 3,19-21.30-31.
Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn
dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường. Bài học
mà người thầy muốn huấn dụ học trò là : hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương
bá thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và
loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế,
họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
Theo bài huấn dụ hôm nay thì :
- Ai làm việc khiêm tốn thì được người
ta yêu mến.
- Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những
kẻ khiêm tốn.
- Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại
vô phương cứu chữa.
+ Bài
đọc 2 : Dt 12,18-19.22-24a.
Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước
và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến
cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm
cho người ta khiếp sợ.
Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức
Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng
Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp
về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để
dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các
thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy.
+ Bài
Tin mừng : Lc 14,1.7-14.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca
thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ
lãnh biệt phái tại Pêrê.
Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại
nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất
ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp
chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không
ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
Qua bàn tiệc Chúa dạy ta :
- Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn,
đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
- Đối với khách mời, nên vì lòng quảng
đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp : Nước Trời chỉ dành cho
kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy
biết nhìn xuống.
1. Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
“Một
ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”(Lc
14,1).
ĐứcGiêsu không xa lánh những người biệt
phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày
sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt
phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường
trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng
hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái.
Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu
qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát
Ngài lần đầu tiên.
Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một
người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến
với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức
Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong
Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy, cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài
sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng,
và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra
nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ
cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu.
Trong bữa tiệc, người ta thường nói
chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm
cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu
trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho
người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm : việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến
sự khiêm
nhường và bác ái vô vị lợi.
a)
Việc dự tiệc.
Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn
chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn
của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói
với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn :”Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì
thà để người ta mời con :”Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt
quan tướng”(Cn 25,6-7).
Đàng khác, việc sắp xếp chỗ là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự
chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật,
có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy,
danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta
công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
Từ trong quan niệm về cách xử sự giao
tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không
phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà
Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói :”Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
b)
Việc đãi tiệc.
Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên
khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người
ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc ? Thế
mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời :”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo
khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm
theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy
làm ơn và phục vụ không cần người ta đền
đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người
nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến
với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
II. NÓI VỀ KIÊU NGẠO
VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Trong câu nói của Đức Giêsu :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ
mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng
ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là
kiêu ngạo và khiêm nhường.
1. Ai nâng mình lên.
Ai cũng muốn bản thân mình là một cái
gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh
Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương
nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức
hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu
thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện
Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa
hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu
ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị
lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi
hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống
Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay
vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có
vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên
trong có giá trị thực hay không (JKN).
Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến
thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ :”Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong
câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
Theo sách giáo lý công giáo, số 1866
thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội
đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là : Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng
hay nguội lạnh”.
Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang
trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo. Nó
thường núp bóng dưới nhiều hìønh thái khác nhau :
- Tự ái là khi bị sỉ nhục liền
cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
- Khoe khoang tức là lợi dụng mọi
cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
- Ganh đua là khi thấy người khác
hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là
xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
Truyện : Chiếc tầu Titanic
Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi
nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng
bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng
kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố
chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến
hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói
về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng
đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ :”No Pope, no God” : không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và
trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã
biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St
11,4).
2. Ai hạ mình xuống.
Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã
khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán :”Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt
11,29).
Vậy khiêm nhường là gì ? Và thế nào mới
được gọi là khiêm nhường ? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống , phủ nhận
giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi ?Không phải thế, Đức Khiêm nhường
mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải
là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì :”Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp,
cha Lacordaire đã nói :”Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa
hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”. Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn
cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không
nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải
là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay
một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những
khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có
nhiều người khác vượt xa tôi :
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng,
khiêm nhường không là gì mà chính là chấp
nhận sự thật về mình. Trong Anh
ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”.
Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ
đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó,
khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ
Tro về sự thật của thân phận con người :”Hãy
nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
Truyện : Đọc truyện Tây du ký.
Ai trong chúng ta cũng đã có lần được
xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem
từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy
các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay :
“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ
mình xuống sẽ được nâng lên”.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại
Thánh : bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang
hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết,
heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống
quái vật.
Những thứ nâng mình lên như thế thì vô
kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ
thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước
mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ
này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải
vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông.
Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán
thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh,
thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn
thứ khiêm nhường giả tạo nữa. Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự
khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề
ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được
nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác,
từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm.
Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì
luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng,
mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ
trích, nói xấu người ta.
Người khiêm nhường đích thực không tự
coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm
thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những
người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn,
nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu
đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp
của Chúa vì :”Không có Thầây, các con không
thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu
không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối,
nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ
bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được
vào Nước Trời (Lc 9,48).
Truyện : Nhận thức đúng thân phận mình.
Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ
bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói
oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa :
- Ai đó ?
Hồn nữ hòang kiêu sa đáp :
- Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu
xứ Hungari.
Tiếng vị Cha Già lạnh lùng :
- Ta không biết.
Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về
mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn :
- Ai đó ?
Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp :
- Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của
Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem,
nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
Lại một lần nữa Cha Già trả lời :
- Ta không biết.
Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia
:”Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội
quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại
một cách giản dị :
- Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội
đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương.
Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị
Cha Già lên tiếng ân cần nói :
- Con hãy vào đi.
Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng
dụng ý của nó muốn nói rằng : giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời
sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là
do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người
yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh
hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này
: “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng
(Quê Ngọc).
3. Hạ mình xuống để phục vụ.
Đức Giêsu phán :”Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người
tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống
để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ.
Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
Sách có chữ rằng :”Phú
quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly” : Giầu có thì thiên hạ bâu,
nghèo khó thì bà con rời rạc.
Theo cách xử sự thông thường người ta
thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên
cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc :”Do ut
des” : cho đi để lấy lại. . Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu
thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
Phục vụ là :”Cho đi”, nhưng cái cho đi
cũng có nhiều lý do :
- Người
ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người
có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không
thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
- Người
ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó
có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu
tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong
ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích
kỷ có tính toán.
- Có
người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác.
Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người
ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể
vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn.
Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ
cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính
thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu
nói rằêng : cách cho tốt nhất là khi kẻ
ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
- Có
người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật.
Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được
thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến
phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích
thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban
cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY
HÔM NAY.
Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã
không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc
sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút
bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần
thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên
cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”(Pl 2,6-9).
Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu
với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người
xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi
cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả , mặc lấy
thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính
hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình
xuống sẽ được nâng lên”.
Chúng ta cũng thường theo con đường của
Adong tưởng rằng khẳng định được mình
khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng
định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của
ta.
Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu :”Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái
khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được
những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø
không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói :”Tôi
chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác
thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó.
Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu
thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải
biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của
mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng
mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
Truyện vui : Phải biết nhìn xuống.
Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có
một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường.
Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người
trong vùng đặt cho hoàng một tên riêng là
:”Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt
hiệu này, ông tuyên bố :”Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết
nhìn lên trời cao mà thôi”.
Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại
tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của
mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến
cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng
tuốn ra hai bên đường trầm trồ khen áo đẹp
và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình
sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu
hãnh nói :
- Tại sao mọi người cười tôi như vậy ?
Một trong những người khách mới trả lời
:
- Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân
mình sẽ biết lý do tại sao ?
Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng
lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không
bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên không
biết bao nhiêu đống phân ngựa từ nhà đến
cung đình để dự tiệc.
Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không
bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết
nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm
và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu.
Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào
đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em,
và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết
gì cả( R.Veritas).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt