CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN C
TÍCH TRỮ CỦA CẢI THIÊNG LIÊNG
+++
A. DẪN NHẬP.
Người ta thường nói :”Có tiền
mua tiên cũng được”. Nhiều người cho rằng với đồng tiền thì làm gì cũng
đực, muốn gì cũng có vì đồng tiền là vạn năng ! Nhưng có những cái mà với đồng
tiền người ta không thể sắm được, ví dụ
Nước Trời, phần rỗi linh hồn. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người quản gia bất lương” để khuyến
khích chúng ta phải biết cách dùng của cải, nhất là phải khôn ngoan trong việc
lo cho tương lai của mình, tức là phần rỗi đời đời của mình trên Nước Trời.
Dụ ngôn hôm nay có thể gây hiểu lầm
cho nhiều người. Mới đọc qua, ta thấy Đức Giêsu như khen nguời quản lý bất lương
đã khôn khéo dùng mánh lới để kiếm được bạn hữu sau khi bị ông chủ thải hồi.
Xem ra Đức Giêsu cho phép chúng ta theo gương người quản gia này đểâ dùng mọi mánh
lới khôn khéo mà tìm lợi cho mình. Nhưng đọc kỹ, ta thấy Đức Giêsu không khen
việc làm bất lương của anh ta mà chỉ khen cái khôn khéo của anh ta trong việc biết lo cho tương lai của mình.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta phải biết lo cho cho phần rỗi
của mình giống như người quản gia bất lương biết lo cho tương lai vật chất của
anh ta.
Tất cả chúng ta đều là quản gia của Chúa
vì tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, như thánh Phaolô nói:”Có gì mà bạn đã không nhận nơi Chúa”. Với
tư cách quản gia, chúng ta phải trung thành quản lý tài sản mà Chúa đã trao phó,
phải biết làm lợi ra, phải biết chia sẻ và biết dùng tài sản này mà mua được phần
rỗi của mình trên Nước Trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Am 8,4-7.
Tiếng kêu của tiên tri Amos cách Đức
Giêsu 800 năm mà hôm nay vẫn còn hợp thời. Ông được đời sau đánh giá là lương tâm
của thời đại ông, một thời đại đầy dẫy bất công xã hội và người nghèo bị bóc lột
đến tận xương tủy. Ông lên án những tội của người giầu :
- Ngay những ngày lễ cũng bị sử dụng cho việc buôn bán để kiếm lời.
- Họ gian lận bằng cách thu hẹp đấu lại
và làm nặng thêm quả cân.
- Khai thác và bóc lột những người nghèo khó.
Nhà tiên tri đã cảnh cáo:”Chẳng bao giờ Ta sẽ quên một hành vi nào của
chúng”(Am 8.7).
+ Bài
đọc 2 : 1Tm 2,1-8.
Thánh Phaolô chỉ dẫn choTimôthêô tổ chức
lời kinh cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ. Phải có tinh thần liên đới
trong khi cầu nguyện, nghĩa là Kitô hữu đại diện cho nhân lọai, liên kết với nhân
lọai trước mặt Thiên Chúa.
Khi cầu nguyện người Kitô hữu mở rộng
lòng ra ôm lấy thế giới để tạ ơn, để cầu xin với mọi người và cho mọi người. Tại
sao lại có nhiệm vụ ấy ? Bởi vì Thiên Chúa của người Kitô hữu là Thiên Chúa của
tất cả mọi người và Ngài muốn tất cả được ơn cứu rỗi. Riêng vị sứ giả Tin mừng
càng phải làm chứng về điều này cách hăng say hơn.
+ Bài
Tin mừng : Lc 16,1-13.
Truyện người quản gia bất trung ta gặp
thấy hằng ngày trong cuộc sống . Đối với dân Do thái, quản gia không phải chỉ là
một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế
lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó
có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý, miễn sao có lợi cho chủ thôi. Quản gia không có lương, nên thường tìm thu
nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
Đức Giêsu không khen cái hành vi bất
chính của anh ta , nhưng khen cái sự khôn khéo biết lo cho tương lai. Bài học rút
ra cho người Kitô hữu là khi phải lo phần rỗi linh hồn thì phải làm mọi chuyện để được cứu rỗi. Bằng cách nào ? Bằng cách
chia sẻ với người nghèo. Không có cách nào giữ của chắc chắn hơn.
Trong khi xử dụng tiền của phải rất khôn
ngoan, phải biến nó thành tôi tớ trung thành, đừng để nó trở thành ông chủ khắc
nghiệt vì “Các con không thể làm tôi Thiên
Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Cách
dùng tiền của đời này.
I. DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN
GIA BẤT LƯƠNG.
Để dạy ta phải biết lo xa cho đời sống
tương lai của linh hồn mình, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn nói về một người quản gia
biết lo xa cho đời sống vật chất của mình.
1. Người quản gia ở
Tại Palestine có nhiều địa chủ vắng mặt
ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản
gia của ông. Theo luật Do thái, người quản gia không phải là một nhân viên được
trả công, nhưng toàn quyền thay mặt chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn
bán của người quản gia.
Trong trường hợp người quản gia bất
trung phung phí của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt buộc ông phải
hoàn lại của đã mất, chỉ có cách là sa thải. Sau khi nhận được giấy sa thải, người
quản gia phải tính sổ liệt kê tài sản, việc này cần một thời gian chuẩn bị.
Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện của chủ, được luật pháp cho phép hành
động nhân danh chủ. Ở đây, người quản gia bị ông chủ là nhà phú hộ khiển trách,
vì đã phung phí của chủ và đó là hành vi bất lương và gian dối của người quản
gia, khiến ông chủ sa thải.
2. Kế họach của người quản gia.
Ở trong tình tình trạng này, người quản
gia phải suy nghĩ về số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải. Làm việc bằng
chân tay thì không quen vì xưa nay chuyên ăn trên ngồi trốc rồi. Phải liệu cách
nào để sau khi mất chức quản gia, thì sẽ có người đón tiếp mình về nhà họ.
Thế là không chút chần chừ, ông cho gọi
“từng con nợ”của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng
là dịp may hiếm có, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 thùng dầu
xuống chỉ còn 50 (bớt khỏang 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt
khoảng 6000 ký).
Từ nay mọi người đều đồng lõa với nhau
giữ kín bí mật : đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một
vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ
có người đón rước mình về nhà họ”.
Dụ ngôn người quản gia bất lương là một
trong những đoạn Tin mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất : bao nhiêu người đã xem đây
như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều
bất lương. Thọat nghe ta lấy làm vấp phạm khi Đức Giêsu lên tiếng khen người quản
lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Ngài phải kết án việc làm
gian lận của người quản lý hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt của anh
ta như tiên tri Amos đã tố cáo những tệ đoan xã hội thời bấy giờ. Amos mô tả việc
người giầu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và
bóc lột người nghèo (Am 8,5-6).
Tuy nhiên, đi sâu vào vấn đề ta thấy Đức
Giêsu không khích lệ việc người quản gia phung phí tài sản của chủ. Thực ra, Ngài
chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Ngài khen người quản gia có khả năng
hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào thế chân tường. Rồi từ đó Ngài
kết luận : “Con cái đời này khi đối xử với
đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Và rồi Đức Giêsu thách
thức ta : Hãy dùng tiền của bất chính mà
tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước các con vào nơi ở vĩnh cửu
(Lc 16,9). Nghĩa là con cái ánh sáng cần phải xử sự cách khôn khéo để làm
sao tiền bạc không trở nên một thế lực thống trị và biến chúng ta thành nô lệ;
trái lại, cần phải biến nó thành phương tiện phục vụ con người thông qua làm phúc bố thí chứ không phải bo
bo giữ cho riêng mình. Người Kitô hữu nhớ rằng, tiền bạc không phải là cùng đích
mà chỉ là phương tiện. Chúng ta xử sự thế nào để tiền của không cản trở bước đường đi đến đời sống vĩnh cửu khi chúng
ta nhắm mắt xuôi tay.
II. NÓI VỀ TIỀN CỦA.
1. Tiền của là những gì ?
Tiền của đây nói chung là gia tài hay
tài sản, là tất cả những gì mình có. Gia tài vật chất là của cải, là thân xác,
là địa lợi chung quanh. Gia tài tinh thần là tài năng, tâm trí, đức hạnh, linh
hồn. Gia tài vô cùng quí giá là nguồn sống vô biên tuôn trào từ các bí tích, từ
lời hằng sống , từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu… Tất cả những cái đó ta phải “quản lý”. Chúa sẽ
yêu cầu chúng ta phải phúc trình về chúng. Ta không có quyền “phung phí” những ơn
mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan
thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào
những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, sắm lấy
những viên ngọc qúi trong Nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái
sự sáng.
2. Sức mạnh của tiền bạc.
Người đời thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược
không xong”.
Tiên là bà tiên, cô
tiên, một hạng người đẹp cả người lẫn nết, không bao giờ chết, lúc biến lúc hiện
do trí tượng tượng người ta hình dung ra. Tiên là một hạng người không có thực,
vậy có tiền cũng không có thể mua.
Câu này cực tả cái giá trị của đồng tiền,
đại ý nói rằng có tiền thì việc khó đến đâu , cũng làm được, của hiếm đến đâu cũng
mua được. Không tiền thì cái tầm thường nhất cũng không mua được. Có câu tục ngữ
tiếp theo câu trên :”Không tiền mua lược
không xong”.
Người có tiền thì có thế, được nhiều
người kiêng nể, có thể sai khiến được nhiều người, khiến họ phải hầu hạ, đưa rước
và tạo thêm được nhiều kẻ nịnh hót :
Có tiền chán vạn người hầu,
Có
bấc có dầu chán vạn người khêu.
(Ca dao)
Đồng tiền cũng có sức mạnh phi thường,
nó có thể đổi trắng thay đen lòng người, nó có thể biến những con người lương
thiện thành con người bất lương, mà nhiều người không thể cưỡng lại được :
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng
tiền khéo điểm, khéo tô lòng người.
(Ca dao)
Cổ nhân cũng đã có kinh nghiệm nên đã
từng nói :”Hoàng kim hắc thế tâm”.
Hành động của Giuđa đã nói lên kinh
nghiệm đó. Giuđa là một trong 12 tông đồ thân tín của Đức Giêsu, được Ngài yêu
thương tận tình, nhưng vì tham tiền, anh ta đã bán rẻ lương tâm, không còn nghĩ
gì đến tình nghĩa thầy trò,sẵn sàng bán Ngài cho người Do thái với giá 30 đồng
bạc. Quá rẻ ! Anh ta đã bị đồng tiền chi phối, không thể chống lại được.
3. Nguy hiểm của tiền bạc.
Có phải “Tiền là Tiên là Phật, là sức
bật của lò so, là thước đo lòng người “ chăng ?
Qua tin tức báo chí và kinh nghiệm thực
tế, có lẽ ta phải nhìn nhận sức mạnh của
tiền tài quả là đáng sợ. Nó có thể làm mờ lương tri, biến chất lòng người, sụp đổ
ý chí, lụi bại thanh danh, tiêu tan trách nhiệm… Thế nên có tiền tài và sử dụng
làm sao cho tốt đẹp không phải là chuyện dễ.
Biết bao câu tục ngữ :”Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ
xấu”. Tiền tài vừa nguy hiểm vừa đáng sợ mà ai cũng thích có nhiều, chỉ vì
cái sức mạnh của nó, như câu tục ngữ của
nước Nga :”Với một túi tiền treo nơi
cổ, không ai có thể bị chết treo”.
Nhà thơ Tú Xương còn mỉa mai :
Ví thử trong tay tiền
bạc có,
Nói dối như cuội chán người nghe.
Có thể nói tiền bạc là con dao hai lưỡi. Theo đó, càng nhiều tiền
thì con dao hai lưỡi càng khó sử dụng.
Truyện : Lời khuyên của vị giáo trưởng.
Một lần kia, có một người giầu có nhưng
keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông
và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giầu
một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ
nhìn xuống đường phố và nói :”Ông hãy
nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy cái gì” ?
“Tôi
thấy người ta đi qua, đi lại,” ông nhà giầu đáp.
Rồi giáo trưởng đưa ông ra khỏi cửa sổ,
dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói:”Ông hãy nhìn vào tấm gương này và nói ông thấy gi”.
“Tôi
thấy chính tôi”, ông nhà giầu đáp.
“Thế
đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng
kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có trát lên một
lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng
bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan
tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông” (McCarthy).
4. Tiền của và hạnh phúc.
Tiền của là phương tiện chứ không phải
là mục đích, nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều
tiền của càng muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mammon. Tiếng Mammon chỉ
chung những gì nghịch với Thiên Chúa, mà tiền của đứng hàng đầu.
Nhiều tiền bạc chưa chắc đã sung sướng, chưa
chắc đã hạnh phúc. Có những trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dư
thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao ? Hoặc những gia đình giầu có nhưng sống
ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào ? Bởi vì tiền là bạc.
Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc
nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
Thi sĩ Nguyễn Du trong
thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận :
Trong tay đã có đồng tiền
Dẫu
lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Nhà thơ Nguyễn bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng :
Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử,
Hết
cơm, hết gạo, hết ông tôi.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và
ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác,
điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều
làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
Henrik
Ibsen nói:”Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài
của sự vật nhưng không thể mua cái lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng
không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết
nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy
lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”.
Đúng là :
Aên cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
Aên
cơm với cáy thì ngáy o o.
III. NGƯỜI QUẢN
GIA TRUNG TÍN.
1. Người giầu có là quản gia của Thiên Chúa.
Có lẽ một phần do ảnh hưởng của cuộc sống khó khăn, phần khác do quá
tham lam mù quáng mà chúng ta đã có một suy nghĩ lệch lạc về của cải, đó là chúng
ta cứ tưởng mình luôn làm chủ của cải.
Nhưng nếu biết suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra của cải vật chất mà
chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài mới là Chủ vật chất và Đấng
sở hữu đích thực; còn chúng ta , nói một cách trung thực, chỉ là những người quản lý, coi sóc tạm thời. Cho nên, nếu chúng ta
cứ tưởng lầm mình là chủ, tất nhiên chúng
ta sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng quyền hành hoặc bo bo giữ lấy của cải như lẽ
sống đời mình để rồi dùng nó theo ý ngông cuồng của mình, sẽ dẫn tới sai trái.
Và một ngộ nhận nữa là chúng ta cứ nghĩ của cải mãi mãi thuộc về
mình. Đây là một ngộ nhận tai hại vì không những chúng ta giả điếc làm ngơ trước
bao cảnh tay trắng hoàn tay trắng xẩy ra hằng ngày do nhiều nguyên nhân như cháy
nhà, bị trộm cướp, bị tai họa, bị tù tội, nhất là bị chết, mà còn cố tình đâm đầu
vào làm giầu, tham lam vơ vét của cải như là cùng đích của đời mình. Do đó, kẻ
khôn ngoan không phải là kẻ giữ của mà là kẻ biết dùng của cho thật hữu
ích vì chúng ta chỉ được phép giữ và sử
dụng của cải trong thời hạn nào đó mà thôi.
2. Người quản gia biết chia sẻ.
Nếu người giầu có là quản gia của Thiên Chúa thì không có quyền giữ
bo bo cho mình hoặc sử dụng một cách hoang phí. Họ phải biết chia sẻ nữa. Theo ông
Robert Karris :”Tiền bạc (mammon) đều thuộc về thế hệ xấu xa này. Môn đệ phải chuyển
mammon thành kho tàng trên trời bằng cách chia sẻ của cải với những người khác,
đặc biệt những người túng thiếu. Như thế, tiền của có thể mở lối vào Nước Trời,
và lúc ấy tiền của là tên đầy tớ tốt cho ta. Phải biết trung tín khi dùng của cải
đời này để có thể được trao phó của đời sau, nghĩa là biết xử dụng của cải như
phương tiện chứ không phải như mục đích và xử dụng theo ý Chúa”.
Các rabbi Do thái có câu :”Kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ
nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải truyện
người giầu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrôsiô có nói :”Bụng của người nghèo, nhà của bà góa, miệng
của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.
Người Do thái tin rằng của bố
thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của
con người không tùy những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay
mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Truyện: Mạnh Thường Quân.
Mạnh Thường Quân nhà giầu, cho vay mượn
nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên
hỏi :
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi
dân tới bảo rằng:”Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng
tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh
Thường Quân rằng :
- Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ
chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp
ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan,
về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh
lại bảo Phùng Nguyên :
- Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua
cho tôi ngày trước .
3. Người quản gia phải trung tín.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã
khẳng định :”Không gia nhân nào có thể làm
tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền
của được”(Lc 16,16).
Ngày xưa, chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt
đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có
thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường
và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ như có người làm thơ ký ban ngày và
làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm
để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một
nô lệâ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta
thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa
không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi.
Ai đã chọn sự phục vụ Chúa thì tất cả thời giờ, sức lực của người ấy đều thuộc
về Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc
thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
Sách có chữ rằng :”Trung thần
bất sự nhị quân” : Tôi trung không thể làm tôi hai chúa. Đức Giêsu cũng đồng
ý như vậy khi đem ra dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Người ta thường nói :”Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là
ông chủ rất xấu”, nghĩa là khi chúng ta dùng tiền của như một phương tiện mưu
sống, thì lúc ấy tiền bạc rất tốt cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta tôn thờ
tiền bạc như một ông Chúa, thì lúc ấy tiền bạc là một điều tai hại; do đó, chúng
ta phải dùng tiền bạc như một tên đầy tớ, còn việc tôn thờ thì chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi.
4. Người quản gia phải biết dừng lại.
Thái độ của người quản gia khôn ngoan
là phải biết dừng lại và bằng lòng với những cái mình đang có và cố gắng làm
cho tốt hơn, nếu không thì lòng tham vô đáy sẽ đòi hỏi mãi, có thể làm cho chúng
ta trở nên mù quáng mà trở thành một quản gia bất lương. Nhà hiền triết Seneca ngày xưa nói rất đúng :”Nếu bạn không coi những gì bạn đang có thì dù
bạn có cả thế giới bạn vẫn cảm thấy thiếu”.
Tư tưởng này đông tây gặp nhau :
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri
nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?
Biết đủ ấy là đủ, đợi
đủ bao giờ mới đủ,
Biết nhàn ấy là nhàn,
đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
(Cổ
ngạn)
5. Người quản gia biết lo cho tương lai.
Đức Giêsu so sánh :”Con cái đời này đối xử với đồng lọai thì khôn
hơn con cái ánh sáng”(Lc 16,8). Rồi
từ đó Ngài kết luận :”Hãy dùng tiền của bất
chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào
nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta
phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng Nước Chúa.
Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương
tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa.
Bài học Chúa muốn dạy ta hôm
nay là phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để
tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản gia bất lương sửa sọan
cho tương lai của mình trong nước trần gian. Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong
những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy ? Nhưng còn
việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong bài Tin mừng hôm
nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên
can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với
những sự vật thiêng liêng.
Truyện : Đồng tiền trên trời.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom
tiền bạc, cho nên rất giầu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang
cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường,
liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán :
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia ?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng
người chủ quán bảo :
- Ở đây chỉ xài lọai tiền-cho-đi
thôi. Ông có không ?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của
mình. Nhưng chủ quán nói :
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không
xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì ?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao
nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng lọai tiền-cho-đi.
Ông nhà giầu lục lọi khắp nơi trong
mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc lọai tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiều
đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ kim phát
Đà lạt