CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN C
KIÊN TRÌ
TRONG CẦU NGUYỆN
+++
A. DẪN NHẬP.
Người
ta thường nói :”Hữu chí cánh thành” : Có chí thì nên. Kinh nghiệm
trường đời cho chúng ta thấy muốn thành công, bất cứ ai, bất cứ công việc gì
cũng đòi phải có ý chí, lòng kiên nhẫn bền tâm để vượt qua khó khăn. Chúng ta thấy thanh niên thường hay hát một
bài rất có ý nghĩa :
Không
có việc gì khó,
Chỉ
sợ lòng không bền,
Đào
núi và lấp biển,
Quyết
chí cũng làm nên.
Kinh
nghiệm này không những đúng cho đời sống vật chất nhưng còn đúng cho cả đời
sống tinh thần và tâm linh nữa.
Để
nói lên tính cách cần thiết của sự kiên nhẫn trong việc cầu nguyện, Đức Giêsu
đưa ra dụ ngôn một bà góa và vị thẩm phán.
Vị thẩm phán này là một người bất lương, tham nhũng, chỉ biết có tiền
của, không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể ai, mà phải chịu thua bà góa
cô thế cô thân. Bà nghèo khó, không có tiền của để đút lót, bà chỉ có một thứ
vũ khí duy nhất để chiến đấu, đó là sự kiên trì. Bà cứ quấy rầy vị thẩm phán
làm cho ông phải nhức óc, sau cùng ông phải mở phiên tòa để minh oan cho bà.
Qua
dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta về sự cần thiết phải kiên trì
trong khi cầu nguyện. Thánh Luca không dám so sánh Thiên Chúa với vị thẩm phán
đâu, nhưng ngài chỉ có ý cho chúng ta thấy vị thẩm phán vô lương tâm như thế mà
còn chịu thua sự kiên trì quấy rầy của bà góa. Còn Thiên Chúa là Đấng vô cùng
nhân từ thương xót lại không nghe lời cầu xin của chúng ta mà minh oan, mà ban
cho chúng ta những điều cần thiết sao ? Hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa :”Hãy
xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho”(Mt 11,9).
Nếu Chúa còn trì hoãn chưa đáp ứng lời cầu xin của ta, đó là dấu Ngài có một kế
hoạch đặc biệt có lợi cho ta, hãy tin tưởng và chờ đợi kế hoạch đó được thực
hiện.
B. TÌM HIỂU LỜI
CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Xh 17,8-13.
Trên
đường tiến về Đất Hứa, dân Do thái phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn
trong miền đất đó. Không phải là vũ khí tối tân, cũng không phải là các kế
hoạch hành quân sắc bén sẽ đưa đến chiến
thắng mà chính là lời cầu nguyện tha thiết của ông Maisen.
Sách
thuật lại : khi nào ông Maisen giơ tay lên cầu nguyện thì quân
Trận
đánh không được miêu tả vì tác giả nhằm mục đích khác : Thiên Chúa phù hộ quân
+ Bài đọc 2 : 2Tm 3,14-4,2.
Phaolô biết rằng mình
sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho Timôthêô khuyên ông trung thành với
truyền thống cũng như Kinh Thánh, là hai nền tảng đức tin Kitô giáo. Điều ông
Timôthêo giảng dạy thì ông đã nhận được
nơi thầy mình. Sinh ra trong truyền thống Do thái giáo, được Kinh thánh nuôi
dưỡng, Timôthêô phải lấy đó là căn bản để giảng dạy. Ngày phán xét chung, ông
sẽ phải tính sổ về sứ mạng rao giảng Tin mừng mà ông đã được trao.
+
Bài Tin mừng : Lc 18,1-8
Trong bài Tin mừng hôm nay thánh Luca có ý
nhắc cho chúng ta một thái độ căn bản trong khi cầu nguyện : phải kiên trì. Đức
Giêsu đưa ra dụ ngôn một bà góa bị người ta hà hiếp bất công, bị thiệt thòi mà
không có ai bênh vực. Bà phải chạy đến kêu cứu với quan tòa xét xử công bình
cho. Ông thẩm phán này là một ngưới thiếu trách nhiệm, không bênh vực bà vì bà
chẳng có lợi gì cho ông. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông
cũng xử công bình cho bà.
Nếu
một người cứng cỏi và vô lương tâm như viên thẩm phán này mà còn xiêu lòng
trước lời năn nỉ của bà góa, huống chi Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu , chắc
chắn là Ngài sẽ nghe lời ta cầu xin thôi. Vậy còn đợi gì chúng ta không xin Chúa ban những ơn cần
thiết cho hồn xác chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI
CHÚA.
Phải
kiên trì cầu nguyện.
I. DỤ NGÔN BÀ GÓA VÀ THẨM PHÁN BẤT LƯƠNG.
Đức
Giêsu đã nhiều lần nói về sự cầu nguyện, dạy các tông đồ cầu nguyện, đặc biệt
trong kinh Lạy Cha. Chắc chắn các tông đồ cũng gặp khó khăn trong việc cầu
nguyện, thậm chí các ông có thể “nản chí”, nên hôm nay, Đức Giêsu đã khuyên các
ông :”Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”(Lc 18,1). Vì thế
Ngài đã đưa ra dụ ngôn vị thẩm phán bất luơng
và người đàn bà quấy rầy để dạy cho các ông một bài học : Phải cầu
nguyện liên tục và kiên trì.
1.
Vị thấm phán.
Theo
William Barclay, vào thời Đức Giêsu sống, có hai loại thẩm phán. Thẩm phán Do
thái, xét xử trước các vị trưởng lão. Thẩm phán của Hêrôđê hay đế quốc Rôma :
xét xử trước công chúng. Theo thánh vịnh 82,2-7 đã nói lên sứ mạng Thiên Chúa
ủy thác cho các thẩm phán :”Hãy công minh xét xử kẻ bị áp bức và bà góa…”.
Vị thẩm phán trong chuyện này là một trong những thẩm phán ăn lương được bổ
nhiệm hoặc bởi Hêrôđê hoặc bởi đế quốc Rôma. Họ là những người tham nhũng, xét
xử theo tiền bạc hối lộ. Ông thẩm phán
được đề cập trong dụ ngôn thuộc loại này, thuộc loại bất lương vì “không kính
sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người ta”(Lc 18,5).
2.
Bà góa.
Theo
văn hóa và truyền thống của các quốc gia miền Cận Đông, bà góa là những người
bị áp bức, bị xã hội bỏ rơi, không được ai nâng đỡ. Bà không có tiền để hối lộ,
làm sao thẩm phán có thể xử cho bà được. Nhưng bà có một thứ võ khí duy nhất để
đấu tranh là sự kiên trì và bền bỉ :”Vì bà góa này cứ quấy rầy mãi”(Lc
18,5).
Dụ
ngôn không có ý so sánh Thiên Chúa với thẩm phán bất lương, nhưng sánh ngược
lại với con người như thế, Đức Giêsu có ý nói : Thẩm phán bất chính còn như
thế, lẽ nào Thiên Chúa không xem xét bênh vực những đứa con yêu ngày đêm kêu
xin Ngài ? Chắc chắn Ngài sẽ vội vàng cứu giúp họ. Và như vậy, dụ ngôn đưa ra
hai nhân vật để nói lên sự tương phản
giữa sự bất lương của vị thẩm phán và lòng nhân từ của Thiên Chúa.
3.
Vị thẩm phán xét xử cho bà góa.
Bà
góa này nhận thấy mình cần phải được minh oan, nhưng làm sao xin ông thẩm phán
mở phiên tòa được vì ông không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kiêng nể ai, bà
lại không có tiền để đút lót. Vì thế bà không thể làm gì hơn là phải quấy rầy
vị thẩm phán bằng cách kiên trì nài van, làm cho ông thẩm phán phải nhức óc,
cho đến khi ông nhượng bộ để xét xử cho bà.
Ở
đây, chúng ta nhận thấy, vị thẩm phán tuy chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng kiêng
nể ai , thế mà lại chịu thua sự kiên trì của bà góa. Đứng trước sự kiên trì của
bà góa, dù có bất nhân như ông thẩm phán trong dụ ngôn chăng nữa, cũng phải
xiêu lòng, chịu thua. Như vậy, điều ấy nhắc cho chúng ta rằng nếu chúng ta kiên trì cầu nguyện thì Thiên
Chúa vốn có lòng nhân từ thương xót lại không lắng nghe lòi cầu xin của con cái
mình sao ?
Đối
với Thiên Chúa, thân phận chúng ta được ưu đãi hơn nhiều. Chúng ta không bị cô
thế cô thân như bà góa vì chúng ta có Đấng trung gian là Đức Giêsu Kitô cứu
giúp chúng ta trước mặt Chúa Cha. Ngài đã thương yêu hy sinh chịu chết để cứu
chuộc chúng ta, tuyển chọn chúng ta làm con Thiên Chúa. Bà góa cần được minh
oan thế nào thì chúng ta phải khẩn thiết cầu nguyện để Chúa cứu chữa chúng ta
khỏi tay ba thù hơn thế.
II. PHẢI KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN.
1.
Nói về sự cầu nguyện.
a)
Cầu nguyện cần thiết.
Đức
Giêsu đã nhiều lần nói về sự cần thiết của việc cầu nguyện, chúng ta đã nghe
nhiều, không cần trưng ra đây. Ngay những người đời, những nhà thông thái, bác
học cũng cảm thấy sự cầu nguyện là cần thiết. Chúng ta hãy nghe bác sĩ Alexis
Carrel, người được giải thưởng Nobel năm 1912, nói về sự hiểu biết của một
y sĩ chuyên khoa dày kinh nghiệm :
“Không gì gây nghị lực
mạnh mẽ cho bằng cầu nguyện. Đó là một sức mạnh rõ rệt như sức thu hút của trái
đất. Là y sĩ, tôi thấy nhiều người dùng thuốc gì cũng vô ích. Họ chỉ bình tĩnh
tụng niệm là lành mạnh. Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên
để tăng khí lực hữu hạn của bạn. Nhờ đó, tâm hồn lẫn cơ thể được thanh
lọc, và lành mạnh hơn. Chẳng ai nguyện
cầu một chốc mà không thấy kết quả”.
Bác
sĩ Carl Jung cũng cho biết kinh nghiệm khi ông nói :”Trong 30 năm
trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi
nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tưổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm
một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.
Giải
pháp ông nói đây chính là sự Cầu nguyện.
Ông
Gandhi, người mà dân An độ nâng lên bệ thánh, đã thú nhận rằng :”Nếu
không nhờ tụng niệm thì tôi hóa khùng đã từ lâu rồi”.
b)
Năng lực của lời cầu nguyện.
Lời
cầu nguyện có một năng lực to tát. Nó gây ảnh hưởng đần tiến trình các biến cố
và thay đổi cả cuộc đời của nhiều người. Bác sĩ Alexis Carrel một lần
nữa đã bình luận về năng lực to tát này như sau :”Cầu nguyện là hình thức
năng lực hùng mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra. Đối với chúng ta, ảnh
hưởng của nó trên toàn tâm trí và thân xác của con người cũng hiển nhiên chẳng
khác gì các hạch nội tiết. Nó là một lực có thật không khác gì hấp lực của trái
đất”.
Truyện :
Toa thuốc chữa bệnh.
Một
hôm, một bệnh nhân trạc độ 40, đến gõ của phòng mạch bác sĩ.
Người
bệnh nói :
-
Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc
ngủ. Ban đầu uống một viên. Sau đó, uống hai viên. Hiện bây giờ tôi uống đến
những ba viên, mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.
Bác
sĩ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ,
lại không mất tiền mua :
-
Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy
đọc một câu kinh cho sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng
Thượng Đế.
Đã
lâu lắm bệnh nhân kia chẳng hề đọc kinh chiều. Chiều hôm ấy, chàng áp dụng toa
thuốc của bác sĩ cho một cách nghiêm chỉnh.
Một
tuần sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon, và
làm việc như thường lệ (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 42-43).
Thể
xác mệt mỏi chưa chắc đã làm cho tâm hồn bệnh họan. Nhưng tâm hồn mệt mỏi bao
giờ cũng làm cho thể xác bệnh hoạn. Bác
sĩ Alexis Carrel thật có lý :”Bao nhiêu người đang rên siết trên
giường bệnh trong các nhà thương, sẽ được lành mạnh, nếu họ quyết không chiến đấu
một mình với đời, mà biết sớm quay đầu nguyện cầu cùng Thượng Đế”.
Ở
c)
Vai trò của sự cầu nguyện.
Không
ai có thể sống đời Kitô hữu mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu
nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có
3 người kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào
để thoát khỏi tình trạng bế tắc này ?
-
Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng
nguyền rủa.
-
Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã qùi gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
-
Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức, vừa thực tế.
Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi
bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào
cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhãi, nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng
lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang
lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người
thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả
3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Ở
đây chúng ta thấy có ba thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện :
Đối với người thứ nhất,
đó là phung phí thời gian. Vì ông ta không có đức tin nên thái độ của ông ta là
hợp lý. Nếu bạn không tin vào Thiên Chúa, bạn có thể cầu nguyện với ai ?
Đối với người thứ hai, cầu nguyện thay thế cho
hành động. Vì thế, một khi ông đã cầu nguyện xong, ông ngồi lại không làm gì và
chờ Thiên Chúa đến cứu giúp ông. Phần nhiều chúng ta cầu nguyện như thế, đặc
biệt khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Nói đúng hơn, đó là một sự thoái
tháchành động.
Người
thứ ba đã tin tưởng cầu nguyện, nhưng không lấy đó để thay thế cho hành động,
nhưng như một sự thúc đẩy hành động. Cầu nguyện xong, ông lập tức làm một việc
gì mà ông có thể. Sự cầu nguyện của ông có mục đích giúp ông thêm can đảm và hy
vọng. Nó cũng cho ông cảm giác Thiên Chúa ở bên cạnh ông và một sự bảo đảm
Thiên Chúa không bỏ rơi ông. Ông rút ra sức mạnh cao cả từ sự cầu nguyện ấy
(Carôlô, Sợi chỉ đỏ C, tr 773 và Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật và lễ trọng
C, tr 658).
d)
Tư thế khi cầu nguyện.
Từ
khi còn bé chúng ta được dạy rằng khi cầu nguyện phải chắp tay lại. Khi tham dự
Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu
nguyện.
Cầu
nguyện chắp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những họat động để chuyên tâm
nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những
người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm những người ăn xin đưa hai bàn tay
không ra để xin ơn Chúa.
Hai
tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều
không chắp lại hay giang ra , chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai
tư thế ấy (McCarthy).
Trong
bài đọc 1 của Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy ông Maisen cầu nguyện với đôi
tay dang rộng ra trên dân Do thái, trong
cuộc chiến đấu một mất một còn với quân Amalếch. Điều đó có ý muốn diễn tả
quyền lực của sự cầu nguyện. Chừng nào mà dân Do thái còn đặt niềm tin vào
Thiên Chúa, họ còn tiến lên. Chừng nào họ quên không nhìn đến Thiên Chúa, họ
buộc phải rút lui.
Truyện :
Cầu nguyện là thể hiện lòng tin.
Ông
Trilussa, thi sĩ La mã (1871-1950) đã kể lại câu chuyện ông bị lạc đường ban
đêm giữa một khu rừng rậm rạp và đã gặp một bà lão mù. Sau khi nghe ông trình
bầy hoàn cảnh thì bà lão liền nói với ông :”Nếu ông không biết đường, tôi sẽ
đưa ông đi vì tôi thuộc đường lối ở đây”. Vừa ngạc nhiên vừa nghi ngờ ông nói
:”Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả mà lại có thể dẫn đường chỉ lối cho tôi được sao”? Bà lão không cần
giải thích thêm, liền nắm lấy tay ông và ra lệnh “tiến bước”. Kể xong câu
chuyện, ông Trilussa kết luận : đó là đức tin.
2.
Nói về sự kiên trì.
a)
Hữu chí cánh thành.
Người
xưa thường nói :”Hữu chí cánh thành” : có chí thì nên. Kinh nghiệm đời thường
cho chúng ta thấy : muốn làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng phải dầy công vất vả
: người nông dân muốn có mùa gặt, phải làm đất, gieo hạt, nhổ cỏ, vun xới đất,
tưới tắm chăm sóc cây lúa. Có như thế mới có thu hoạch.
Học sinh muốn trở thành
bác sĩ, kỹ sư phải vất vả và học hành bao nhiêu năm trời đèn sách. Có như thế
mới có thể trở thành người có chuyên môn có khả năng giúp ích cho gia đình và
xã hội.
Kiên trì lao động là
đều kiện cần thiết cho sự thành đạt của mọi công việc. Nói cách khác, kiên trì
lao động chắc chắn sẽ đem lại thành công. Kinh nghiệm ấy được cha ông ta đúc kết thành câu châm ngôn :”Có công mài
sắt có ngày nên kim”. Câu châm ngôn này không những chỉ đúng trong lãnh vực
tự nhiên mà còn đúng cả trong lãnh vực tâm linh.
Một
văn sĩ kể :”Mỗi ngày ba tôi đem một tấm ván dầy ra bắt tôi dùng lưỡi dao nhỏ
rạch lên đó một cái, chỉ một cái thôi. Tôi thật vô cùng ngạc nhiên, nhưng ba
tôi không hề hé môi giải thích. Tôi cứ tiếp tục rạch mỗi bữa vào chỗ cũ như
vậy, và cuối cùng, sau mấy trăm ngày, tấm ván đứt ra làm hai. Bấy giờ, ba tôi
mới vịn vai tôi mà bảo rằng :
-
Con thấy không ? Với sự bền chí cầm con dao bé nhỏ này cứa mỗi ngày một cái,
con có thể làm cho tấm ván dầy đứt ra làm hai. Bao nhiêu việc đời cũng chỉ như
thế mà thôi : Người ta nếu biết quyết chí mỗi ngày làm mãi công việc mà mình
đeo đuổi thì ắt phải có ngày thành công. Đó là bài học luyện chí mà ba nghĩ là
một gia tài lớn lao nhất ba truyền lại cho con vậy”.
(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên tr 20-21).
Ngoài
ra chúng ta còn có những câu tục ngữ diễn tả ý tưởng đó :
-
Kiến tha lâu đầy tổ.
-
Góp gió thành bão.
-
Năng nhặt chặt bị.
-
Ngồi lâu câu bền.
b)
Kiên trì trong cầu nguyện.
Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta kiên nhẫn cầu nguyện. Bài trích sách xuất hành hôm nay ghi lại lòng
kiên nhẫn cầu nguyện của ông Maisen. Khi ông giang tay cầu nguyện thì dân Chúa
thắng thế. Còn khi ông mệt mỏi xuôi tay xuống thì quân Amalếch thắng. Thánh
Phaolô trong thư căn dặn Timôthêô phải kiên nhẫn và trung tín cầu nguyện và suy
gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Rồi đến dụ ngôn bà góa trong Tin mừng. Bà góa
nài nẵng xin thẩm phán xét xử công lý cho bà. Để bà khỏi quấy rầy, ông thẩm
phán, mặc dù là người bất lương , cuối cùng cũng phải xét xử vụ kiện của bà.
Cuộc
trờ lại của thánh Augustinô là một ví dụ điển hình nói lên lòng kiên nhẫn trong
việc cầu nguyện của bà mẹ là Monica, phải mất gần 20 năm trời lời cầu xin của
bà mới được chấp nhận. Qua dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, Chúa hứa đáp ứng lời
cầu nguyện của ta, nhưng là theo đường lối của Chúa. Bao giờ Chúa mới ban ơn,
ta không biết được, nhưng ta phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa.
Dù
Chúa có trì hoãn : Chắc chắn Ngài sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Ngài.
Mỗi khi chúng ta có cảm tưởng Chúa trì hoãn không bao giờ theo ý chúng ta xin,
chúng ta hãy nhớ lại lời cầu của Đức Giêsu xin Cha cất chén đắng cho Ngài,
nhưng lời xin ấy đã không được Cha chấp nhận cất chén đắng đau khổ đi. Vì chính
nhờ Đức Giêsu đã trải qua đau khổ của thập gía để vào vinh quang Phục sinh, mà
loài người chúng ta mới được ơn cứu độ. Trong thực tế, có nhiều điều ta tưởng là tốt nên nài xin
Chúa ban cho mình, nhưng thực ra nó có
hại cho ta mà ta không hay biết, nên Chúa đã không ban. Chúng ta sẽ ra sao nếu
mọi ước muốn ngông cuồng hay ấu trĩ của chúng ta đều được Chúa nhận lời hết ?
c)
Hữu cầu tất ứng.
Người
ta thường nói :”Có khấn có thiêng, có kiêng có lành”. Lời nói ấy hợp với
lời Đức Giêsu đã từng nói :”Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy,
cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”(Lc 11, 9), đúng là ‘hữu cầu tất ứng”. Nhưng khi nói dụ ngôn này, Đức Giêsu không có
ý nói phải cầu xin cho thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhận lời, làm như
thể Ngài cũng như ông thẩm phán kia, cứ để cho người ta phải xin thật nhiều
thật lâu thì mới ban cho.
Qua dụ ngôn này, Ngài muốn ta tin tưởng vào
hiệu lực của lời cầu xin, chứ không phải khuyên ta cầu xin cho dài hay phải lặp
đi lặp lại cho thật nhiều lần lời cầu xin của mình. Chính Ngài cũng đã khuyên
:”Khi cầu nguyện, các con đừng lải nhải như dân ngọai; họ nghĩ rằng : cứ nói
nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha các con đã biết rõ các con
cần gì, trước khi các con cầu xin”(Mt 6.7-8). Như vậy, Chúa bảo chúng ta
phải chú ý đến chất lượng hơn là số lượng, nghĩa là phải cầu xin với tất cả
lòng tin yêu, phó thác như đứa con đối với cha mình.
Nhưng
chúng ta cũng phải hiểu rằng đôi lúc Chúa trì hoãn, và việc trì hoãn đáp ứng
lời cầu xin của chúng ta cũng có lý do mà chỉ Ngài biết. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì.
Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta,
theo như thánh ý nhiệm mầu của Ngài. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn
chúng ta tưởng, cách thức Ngài ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng
ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ
cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu cho mọi người.
Truyện :
Ông có muốn vào không ?
Một
người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ cửa nhưng không
ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn qua cửa sổ thấy
họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng
vừa dùng hết sức mình đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập của tới 30 lần
thì một cái đầu mới thò ra qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi :
-
Ông có muốn vào không ?
-
Muốn vào không ư ? Tôi đã kêu cửa muốn
khàn cả cổ rồi đây này.
-
Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ cửa để phá chơi
rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng khi nghe thấy
ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở cho ông
(Bruno Hagspiel).
d)
Liệu sau này còn niềm tin như thế ?
Chúng
ta nghĩ thế nào khi Chúa nói :”Thầy bảo các con : Chúa sẽ kíp giải oan cho
họ” trong khi kẻ dữ thắng thế người lành, những bất công không được xét xử
? Chúng ta chỉ biết tin vào Chúa vì Ngài bảo chúng ta đừng lo. Thiên Chúa không
làm ngơ mãi đâu. Tuy bề ngoài có vẻ là Chúa chậm trễ, nhưng hãy nhớ : thời giờ
là của Chúa. Ngài đòi ta phải kiên nhẫn, phải ăn năn trở lại (2Pr 3.8-15). Loài
người chỉ có thời gian, nhưng Thiên Chúa là đời đời. Ngài luôn đến đúng lúc để
cứu giúp ta.
Cuối
cùng Đức Giêsu hỏi một câu đượm vẻ buồn:”Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu
Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng”? Có còn những kẻ thật lòng
tin Đấng Kitô, yêu Ngài và trông đợi sự trở lại của Ngài ? Câu này tách rời
khỏi dụ ngôn, loan báo sự phản đạo thời cánh chung. Những kẻ được chọn sẽ bị
thử thách đến nỗi họ có thể bị mất kiên nhẫn mà trở thành vô tín (x. Mc
13,20-22). Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sống buông thả,
nhưng phải kiên trì cầu nguyện dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, giống như bà góa
kia luôn bền tâm vững chí trước thái độ thờ ơ của vị thẩm phán bất lương. Trong
thời gian có vẻ lâu dài giữa việc Đức Kitô ra đi và trở lại, phải cầu nguyện
liên lỉ và đừng nhàm chán thì mới có thể đón nhận ơn cứu độ.
Một
đại chủng sinh đã viết :”Con lấy làm vinh dự sống trong gia đình nghèo hèn,
chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, họa may đôi ba lần trong
một năm. Tuy hơn 10 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người
đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn chung với chúng con”. Bà mẹ đó chính là
mẹ Đức Giáo hòang Gioan 23, một vị Giáo hoàng vĩ đại của hòa bình được cả thế
giới mến phục, được giải thưởng Nobel hòa bình, và là vị Giáo hòang của Công
đồng Vatican II. Nhờ đâu một bà mẹ quê mùa, nghèo khó biết dạy dỗ con nên người
vĩ đại như vậy : Thưa, chính là nhờ lời cầu nguyện với niềm tin sắt đá. Liệu
bây giờ Chúa còn thấy được lòng kiên trì cầu nguyện nơi chúng ta nữa không ?
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt