CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
LỜI TIÊN TRI ĐÃ ỨNG NGHIỆM
+++
A. DẪN NHẬP
Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do
thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt
mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng. Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc
thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử
và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).
Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã
báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi. Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày
sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả
về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói:”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị
vừa nghe”(Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và
chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng
cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ…Và công bố năm hồng ân của
Thiên Chúa.
Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu,
theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi”(Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai
đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống
chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Nhm 8,2-6.8-10.
Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về,
dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy
như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng
trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và
khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa :”Amen”.
Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến
muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ
qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình
thương bao lao của Thiên Chúa.
Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ :”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã
vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em”(Nhm 8,10).
+ Bài đọc 2 : 1Cr 12,12-30.
Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô
để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu:”một thân thể
có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù
bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất
trong Đức Kitô.
Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút
ra được 3 ý chính :
- Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa
Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.
- Các chi thể khác nhau nên cũng có những
nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.
- Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và
phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.
+ Bài Tin mừng : Lc 1,11-4 ; 4,14-21.
Trong lời mở đầu sách Tin mừng của
mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua
lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền
qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc
Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói.
Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca
cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy
trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2)
và Ngài kết luận :”Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình
chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa
được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất
là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân,
tức là kỷ nguyên của Tin mừng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi
I. SỨ MẠNG CỦA ĐỨC
GIÊSU.
1. Đức Giêsu là ai ?
Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu
xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn
người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét
theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ
là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc.
Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự
nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm
nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối
với dân làng thì họ vẫn còn nhửng nhưng,
hoặc bán tín bán nghi. Nói chung, đối với
dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn
không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các
thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.
2. Quang cảnh làng Nazareth.
Nazareth có lẽ không phải là một thôn
làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có
tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba
con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.
Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức
Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ
giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng
một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng
có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
3. Đức Giêsu giảng ở hội đường.
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng
và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê
hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để
ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một
người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc
là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên
tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.
Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm
hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ
Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao
giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan
truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự
do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”(Lc
4,18-19). Đọc
xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú
nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng
dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên
bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các
vị vừa nghe”(Lc 4,18-19).
Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm
chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên,
trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động trong nhiệm kỳ mới. Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu
tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu
Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng
và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”(Lc 4,14-21)
So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô
và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự
khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng
chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã
nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.
4. Chương trình hành động của Ngài.
Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri
Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những
ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh
thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,21), Đức Kitô đã chính thức công bố thời
kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình
an vĩnh cửu.
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để
giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến
xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo : chân lý, công lý và
tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống
trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản
tính con người. Thánh Phaolô viết:”Chính để
chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”(Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con
người về mặt thể chất:”Ai sẽ giải thoát tôi
khỏi thân xác phải chết này ? Tạ ơn
Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 7,24-25). Về mặt xã hội,
Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà
còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình
thương.
Truyện : Xóa nợ.
Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá đền
của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất.
Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là
người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu
thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ
cũng không thể trả hết nợ.
Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất
hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi
mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó.
Ôâng đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ôâng hỏi thăm người già,
người bệnh, người khó ở. Chính ông thấùu hiểu những vấn đề và những lo lắng của
họ.
Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại,
nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các
tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng
khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời
mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng:”Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong
các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám
lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ôâng ấy đã
cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến
ông ấy không còn chọn lựa nào khác là lấy
lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ
của họ”.
Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý
nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt
đầu nói:”Chủ đất biết rằng tất cả các anh
đều mắc nợ số tiền lớn. Oâng ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”.
Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại
nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần
nữa ông ngừng lại. Tin mừng ! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh
có thể quên hết nợ nần. Oâng ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh
có thể bắt đầu lại từ đầu”.
Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn
nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn
thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng,
chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.
Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường
Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân
mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây,
Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những
người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa
nhật, năm C, tr 365-366).
II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG
TA.
1. Sứ mạng của Giáo hội.
Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn
được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và
trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài,
Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của
Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội.
Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng
của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng
của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ
mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
2. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu.
a)
Mỗi người được sai đi.
Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình
bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả
chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi.
Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng
ta đi. Đức Giêsu đã phán:”Như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi”(Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức
Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính
chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì ? Thưa sai đi để làm
tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh
hơn:”Làm tông đồ là bản tính chủa người
Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu
nữa.
b)
Phải mộ mến Lời Chúa.
Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết
Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết
rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin
rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi
thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào
mà chúng ta cho là đúng đắn. Trái lại,
khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha
nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói:”Không biết Thánh Kinh là không
biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa
nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.
Truyện : Chẳng nghe được gì hết.
Trong vở kịch “The Royal Hunt of the
sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có
một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn
Thánh Kinh và bảo ông ta :”Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách
này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và
dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được
gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách
xuống đất.
Màn bi kịch trên khiến chúng
ta tự nhủ:”Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào” ? Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách
thức : bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của
linh hồn…(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).
Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được
diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng
ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua
lời ấy.
III. CÁCH THI HÀNH SỨ
MẠNG.
1. Sống đời chứng tá.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói :”Người thời nay thích những chứng tá hơn là
thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá
vì người ta thường nói:”Lời nói lung lay,
gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng
có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô
ích, có khi còn phản tác dụng : không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm
cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người
truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức
Linh mục khuyên tân Linh mục :
“Hãy tin vào điều con đọc,
Hãy giảng điều con tin,
Và
hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Về vấn đề làm chứng này, chúng
ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như
thế nào theo một tác giả thế kỷ thứ ba :
“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối
sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào
riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có
chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các
giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người
nọ…
Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng
theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ
tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật.
Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được
tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn
mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự
khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được
minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành
hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ
bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống.
Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt
bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy”
(Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).
2. Sống đời yêu thương.
Đức Giêsu đã phán:”Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ
của Thầy, là các con hãy yêu thương
nhau”(Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề
luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha
nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ
ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu
thương Thiên Chúa là Đấng vô hình ? Vậy
nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình
yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương
nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa
thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.
Truyện : Bà có họ hàng với Chúa.
Dan Clack kể lại một câu
chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng : Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một
em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa
bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ
rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông
thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa
trẻû, dẫn vào tiệm và mua cho em đôi giầy
mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, họ bước ra phố, và
thiếu phụ nói với cậu bé :
- Chúc cháu vui vẻ và một đêm
ngủ ngon.
Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ,
rụt rè hỏi :
- Thưa bà, bà có phải là Chúa
không ?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu
bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời :
- Con ơi, không phải đâu, bà
chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi !
Cậu bé như khám phá được điều
gì mới lạ :
- Cháu đã biết ngay là bà có
họ hàng với Chúa mà.
(Thiên Phúc, Lời gọi
yêu thương, tr 3-4).
Sống đời bác ái yêu thương là
dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận:”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe
lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”(Lc 6,21). Quả thật, thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và
thi hành lời gọi yêu thương của Chúa:”Anh
em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng
đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào,
thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”(Lc 6,38). Được làm anh
em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự
vô cùng lớn lao cho con người sao ?
3. Đời sống hiệp nhất.
Trong thân thể con người có
rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể.
Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau : dĩ nhiên
có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ
cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo hội cũng như thế. Chúng
ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong
giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu
tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô:”Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều
đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh
em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận”(Bài đọc 2).
Gia đình là Hội thánh tại
gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu : duy
nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp
nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là
cần thiết:”Chính vì thế, người đàn ông sẽ
lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Ep
5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ
chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một
Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng
phục thờ lạy Ngài.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Đà lạt