TRIẾT
LÝ CÁI NỒI
+++
Người dân quê Việt nam chúng ta ngày xưa đã nêu lên ba cái
khó khăn trong cuộc sống mà nhiều người không thể vượt nổi, khiến họ phải băn
khoăn, lo lắng :
Tậu
trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay !
Lấy
vợ là một thử thách trong ba cái khó phải vượt qua, không những đứng về phương
diện vật chất, nhà nghèo không có tiền để cưới vợ, lại còn khó khăn về tâm lý
với tiêu chuẩn người ta đưa ra :”Nồi nào
vung ấy”. Chúng ta hãy bàn đến mối
tương quan giữa cái vung và cái nồi.
I. TẢN
MẠN VỀ CÁI NỒI
1.
Một dụng cụ cần thiết trong bếp
Nông
thôn cũng như thành thị Việt nam, nhà nào cũng phải có bếp để chuẩn bị cho bữa
ăn thịnh soạn cũng như đạm bạc. Cái nồi
cũng là một dụng cụ cần thiết cho bữa ăn, vì cơm là món ăn chính, và cũng là
một dụng cụ quan trọng nhất, không có không được, và nó cũng chiếm một vị trí
quan trọng nhất trong bữa ăn , như người ta nói : “Ăn trông nồi, ngồi
trông hướng”.
2.
Các loại nồi
Trong
xã hội nước ta ngày xưa chỉ có hai loại nồi : nồi đồng và nồi đất. Người nông
dân nghèo thường dùng nồi đất, nghĩa là cái nồi làm bằng đất nung, chỉ có những
nhà khá giả mới có nồi đồng… Nồi đất thì lâu sôi hơn nồi đồng nhưng nóng lâu
hơn :”Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi”.
Nồi
đất thì kích thước tương đối nhỏ, còn
nồi đồng thì có nhiều cỡ, tùy theo số
người ăn :”Nồi bảy quăng ra, nồi ba quăng
vào”. Nồi đồng cỡ lớn nhất là nồi
ba mươi (dùng cho 30 người ăn). Ngày Tết
người ta thường dùng nồi này để nấu bánh chưng.
Sau
này người ta có loại nồi nhôm nhẹ hơn nhưng không bền bằng nồi đồng. Ngày nay
văn minh hơn, người ta thường dùng nồi
nhôm điện, đủ loại, đủ kích cỡ.
3.
Công dụng của cái nồi
Công
dụng của cái nồi thì đa dạng. Chúng ta hãy nghe anh Nguyễn Khang nói về công
dụng của nó : “Những lần đi trại Hướng đạo trên Đà Lạt, cả toán Băng Ngàn của
chúng tôi chỉ dùng có mỗi một cái nồi. Để nấu đủ thứ. Ít là ba món : canh, thịt
kho, và dĩ nhiên là có cơm.
Chúng
tôi kho thịt trước rồi múc thịt ra đĩa.
Sau đó nấu canh. Múc canh ra cái ga-men (gamelle), tráng sơ sài cái nồi,
rồi nấu cơm. Bữa nào đói bụng, hầu như
việc rửa chén sẽ rất nhẹ nhàng vì chúng tôi nhai đến miếng cháy cuối cùng, và
vét đến hạt cơm cuối cùng của miếng cháy.
Thỉnh thoảng ban tối còn nấu một nồi chè để nhâm nhi sau khi lửa
trại. Kể ra bốn món mà chỉ có một cái
nồi” !
Có
người kể đối với cái nồi làm vật kỷ niệm
: trong cuộc sống vô cùng khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cái nồi
nhôm đóng vai trò chủ lực trong bếp với biết bao “nhiệm vụ”. Nó “kiêm nhiệm” nhiều
chức năng, khi làm “ấm” nấu nước, dùng khuấy bột, nấu cơm, nấu canh, kho cá…
Trong
dịp Tết Trung thu, các con nhà nghèo không có trống để múa lân thì dùng tạm cái
nối thay cái trống vậy, âm thanh phát ra vang dội cũng làm cho cuộc rước vui
đáo để.
4. Cái
nồi và cái vung
Đã
có nồi thì phải có vung, hai cái phải đi đôi với nhau, nồi đất thì vung bằng
đất, nồi đồng thì vung cũng bằng đồng, mục đích làm cho nồi chóng sôi và tránh
bụi bặm khỏi rơi vào nồi. Nồi đất thì
càng cần phải có vung khi nồi cơm bị vùi dưới lớp tro nóng (theo kiểu nấu cơm
bằng rơm ở ngoài Bắc). Như vậy chúng ta
có thể nói : Vung nồi lúc nào cũng có đôi.
II. NỒI
NÀO VUNG ẤY
Việt
nam có một câu tục ngữ rất gợi hình và mang một ý nghĩa sâu sắc khi áp dụng vào
đời sống tâm lý và đời sống gia đình : “Nồi nào vung ấy”.
1.
Giải thích câu tục ngữ
Có
người giải thích câu tục ngữ “nồi nào vung ấy” là nồi nào vung ấy đậy mới vừa
nhau, nếu nồi này mà vung nọ thì không hợp.
Người ta muốn mượn câu này để nói rằng người chồng thế nào thì lại có
người vợ hợp tính như thế.
Có
người giải thích : thứ nào, loại nào thì lại phù hợp, thích ứng với cùng thứ
ấy, loại ấy. Người đàn ông thế nào thì lại có người đàn bà như thế phù hợp, vợ
chồng tương xứng mọi mặt.
Nói
cách khác, dù thế nào người ta vẫn có thể tìm được người chồng hay người vợ phù
hợp với người ta.
2.
Trong đời sống tâm lý
Trong
đời sống xã hội, những người có đức tính hay tính tình tương hợp nhau thường
tìm đến với nhau làm điều tốt hay xấu. Dân tộc nào cũng có những câu ca dao tục
ngữ nói lên tính cách ấy.
Trong
Dịch kinh có câu :”Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
“Đồng
thanh tương ứng” có nghĩa là đồng tiếng thì ứng nhau : vật cùng thứ tiếng thì
ứng nhau, như một con gà gáy, thì bầy gà đều gáy lại, ví như những người đồng
một tư tưởng, một hiếu thượng thì lại tìm nhau.
Cả
câu tục ngữ “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” có nghĩa là những vật cùng một thứ tiếng thì ứng nhau;
những vật cùng một khí loại thì tìm nhau, ví dụ nam châm thì hút sắt.
Cùng
một tư tưởng ấy, chúng ta có một câu khác : “Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã” : trâu tìm
đến với trâu, ngựa tìm đến với ngựa.
Tục
ngữ Việt nam thì có câu :”Nồi nào vung ấy”. Nói đến cái nồi và cái vung thì ai cũng biết
vì bữa cơm nào mà không có nồi cơm, cũng như nồi nào mà không có vung đậy. Vung và nồi phải xứng hợp nhau :
“Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo”
Nếu
không như vậy thì người ta phải chế
trách cái tính cách bất hợp xứng của sự việc :
Nồi tròn thì úp vung tròn
Nồi tròn vung méo úp sao cho vừa
3. Trong
cuộc sống hôn nhân
Trước
khi bước vào đời sông hôn nhân, anh chị rất băn khoăn trong việc chọn lựa cho mình một người bạn
đời tương xứng. Trong việc quan trọng này, anh chị phải học hỏi, tìm hiểu và
cần có sự hướng dẫn của những người có kinh nghiệm hơn trong cuộc sống gia đình.
Người
ta thường có quan niệm rằng :
Nồi
tròn thì úp vung tròn
Nồi méo vung méo cháu
con được nhờ
Và
trong hoàn cảnh nào cũng đừng sợ, vẫn có cách làm cho tương xứng :
Nồi
tròn thì úp vung tròn
Nồi vênh đừng sợ, vẫn còn vung vênh.
Với tư tưởng lạc quan đó, người ta vững tin tìm
đến nhau để lập gia đình :
Người xinh lại lấy người xinh
Bao nhiêu kẻ xấu rập
rình lấy nhau.
Trong
việc kết hôn, hiểu biết là một chuyện, ví von về tình huống của người khác rất
rành rọt là một chuyện, còn dùng cho mình
để có chọn lựa tương thích lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Chúng
ta thường trưng dẫn ra câu của Tôn Tử trong nghệ thuật chiến tranh :
Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng
Biết
mình biết người, trăm trận trăm thắng.
Nếu
biến hóa một chút câu nói trên, ta có câu ví von khác gợi hình hơn :
Biết nồi biết vung, trăm lần đậy trăm lần
khít.
Nếu
ví bản thân mình là vung, thì biết mình tức là biết mình đang có “hình dạng”
thế nào, “chất liệu” ra sao, chịu được “va đập” cỡ nào… Và hơn hết, là biết
“vung” mình phải phù hợp với những loại nồi nào.
Và
biết người, tức là biết nồi, tức là phải biết ngoài kia có những “nồi” nào… mình có phải là “vung” phù hợp với thiết
kế, tính năng, ứng dụng của cái nồi đó không… Tức là, nếp “đậy” cái “vung” mình
vào thì cái “nồi” đó nó có thực hiện được cái việc chính của nó không…
Nếu
vung to mà đậy vào nồi nhỏ thì trước sau gì cũng bị ám khói…
Nếu
vung tròn mà úp lên cái nồi không tròn hoặc ngược lại thì sẽ đậy không kín…
Nếu
là nồi áp suất mà vung không phù hợp, trong quá trình “nấu” vung có thể bị bể,
bị thổi bay.
Nếu
là vung thủy tinh cao cấp mà đi úp vào nồi nấu cám heo thì quá lãng phí.
Dĩ
nhiên, muốn biết thì phải học. Học từ đâu ? Từ sách vở, từ người khác và từ
chính trải nghiệm của mình. Và trong
tiến trình “biến” của người thành của mình, tức là quá trình “tập bơi” thì phải
“nhảy xuống biển” – như thế tất nhiên là có rủi ro, có trả giá. Nhưng đó là sự đầu tư “cần và đủ” để cải thiện được “chất” của mình.
Nếu
ta kiếm được cái “nồi” để cái “vung” của ta vừa khít, hợp thành một cặp tối ưu
thì đó quả là sự may mắn. Còn thông thường, ta phải thay đổi, tức là ta phải
nắn, rèn, ép… lại cho phù hợp “hình dạng”, thậm chí phải cho vào nồi luyện lại…
Nếu muốn thành một cái “vung” được “nồi” tìm kiếm.
Nếu ta là “vung” thì đừng đòi, đừng đợi cái
“nồi” nó thay đổi. Không có chuyện đó đâu, đó thực sự là ảo tưởng, là mơ mộng
hão huyền… Mình chỉ có thể thay đổi được bản thân mình, chứ không thể thay đổi
được người khác. Hãy tỉnh táo khi mình đòi hỏi.
III. TƯƠNG HỢP GIỮA VUNG VÀ NỒI
1. Thời
kỳ của mầu hồng tươi thắm
Trong
thời gian tìm hiểu, đôi trai tài gái sắc có những cái nhìn rất lạc quan về
nhau, tìm ra những ưu khuyết điểm của nhau, quên đi tất cã những khuyết điểm,
những thiếu sót, những khó khăn để tiến tới hôn nhân.
Hai
người đã tìm ra được giải đáp những thắc mắc trong cuộc tìm kiếm. Họ an tâm với sự lựa chọn theo tiêu chuẩn “nồi
nào vung ấy”. Họ tin tưởng rằng cuộc đời tương lai của họ sẽ thành công tốt đẹp
với tình yêu nồng nàn và nỗ lực xây dựng của họ. Họ sẽ xây dựng được mái ấm gia
đình tuy đơn sơ nhưng ấm cúng :
Em
về cắt rạ đánh tranh
Chặt tre chẻ lạt
cho anh lợp nhà.
Sớm khuya hòa
hợp đôi ta,
Hơn ai gác
tía lầu hoa một mình
2.
Thời kỳ của sắc mầu đa dạng
Người
ta nói :”Ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Vợ chồng sống với nhau một thời
gian mới biết rõ tính tình của nhau, tốt cũng như xấu.. Bởi vì con người bá
nhân bá tính, không ai giống ai. Những khác biệt tâm lý giữa nam và nữ (với 5
định luật tâm lý), khác biết về giáo dục, tôn giáo, ngôn ngử, tập quán, tục lệ,
sở thích… làm cho người ta dễ bị va chạm gây ra những mối bất hòa bùng nổ hay
ngấm ngầm. Những bất hoà ngấm ngầm xem ra là chuyện nhỏ nhưng có thể trở nên những
đợt sóng ngầm làm tan vỡ gia đình.
Qua
những va chạm hằng ngày, vợ chồng mới nhìn thấy vung và nồi không còn tròn trịa
như trước nữa mà đã trở nên méo mó, không còn được như xưa nữa, và lúc đó họ
mới giật mình than :
Nồi tròn vung méo úp sao cho vừa.
Thuở
ban đầu người ta đeo kính mầu hồng, xem gì cũng đẹp tốt, nhưng đến giai đoạn
này kính không con mầu hồng nữa mà đã ra mầu trắng, người ta thấy rõ con người
của nhau với bao nhiêu khuyết điểm. Và
từ đây họ mong ước được đeo kính “mầu xanh hy vọng” để làm giảm bớt những căng
thẳng trong cuộc sống :
E
ấp thuở ban đầu kính hồng tươi rực rỡ
Tháng năm trôi kính dần hóa không mầu.
Tình mãi đẹp nếu đôi ta cùng biết
Chung cặp kính mầu xanh… thông cảm ngắm trông nhau.
3.
Thời của mầu xanh hy vong
Qua
những thăng trầm trong cuộc sống lứa đôi, họ sẽ cố gắng xây dựng một kiểu gia
đình lý tưởng. Giữa vợ chồng có những qui tắc bình đẳng, cùng quyết định mọi
vấn đề, đối xử dân chủ như hai người bạn.
Họ
mong được ngang sức, ngang tài, ngang tuổi, có thể hỗ trợ giúp đỡ nhau cả trong
mọi công việc của đời sống hằng ngày. Vợ chồng dạng này cũng hay tranh luận,
song sau đó hiểu và thương nhau hơn.
Trong
cuộc sống hằng ngày, cái vung cái nồi tròn méo là rất khó sữa chữa, nhưng trong
đời sống vợ chồng những sự khác biệt về
tròn méo có thể sửa chữa được. Muốn được như vậy, chúng ta phải đặt ra vấn đề hòa hợp vợ chồng. Đây là chìa khóa thành
công trong đời sống vợ chồng, không có không được.
Vậy
“Hòa
Hợp” là gì ?
Theo
tự điển Đào Duy Anh thì Hòa Hợp là cùng hòa thuận không cạnh tranh xung đột.
Hay
chúng ta có thể nói : hòa hợp là biến các yếu tố khác biệt thành một cái gì
dung hợp nhau, không còn sự dị biệt đối kháng.
Ta
có thể đưa ra một ví dụ cụ thể : trong một ly nước chanh đường, ta có chanh
chua đường ngọt. Theo nguyên tắc thì
chua và ngọt là hai chất đối kháng nhau, nhưng nếu cho cả hai chất hòa hợp với
nhau trong nước thì lại là một ly nước chanh đường ngon miệng, bổ dưỡng và giải
khát.
Muốn
có hạnh phúc gia đình, vợ chồng phải cố gắng sống hòa hợp và hòa thuận với
nhau, thiếu yếu tố đó, gia đình không thể sống hạnh phúc được như người ta nói
:
Vợ
chồng là nghĩa tào khang
Chồng Hòa vợ Thuận
nhà thường yên vui.
Đến
đây ta có thể đặt ra câu hỏi : “Hạnh phúc hệ tại luôn được thỏa mãn hay là cố
gắng làm thỏa mãn người” ?
Trong
cuốn “Nước mắt và hạnh phúc”, linh mục Nguyễn Tầm Thường có nói : “Cuộc sống
chỉ là tương đối. Tôi không thể làm người bạn đời trọn vẹn hạnh phúc. Người bạn
đời cũng chẳng thể cho tôi mọi ước mơ.
Vì cả hai đều yếu đuối và mắc nhiều lầm lỗi, cả hai không là thiên thần mà là
người. Là người nên tôi không thể làm thỏa mãn người được. Không làm thỏa mãn
người được cũng có nghĩa là người cũng
chẳng thể làm thỏa mãn được tôi.
Như
thế, hạnh phúc là cùng nhau lắng nghe tiếng hót của con chim họa mi. Cùng chịu
giá lạnh của mưa. Chịu khổ của bão. Hạnh
phúc trong hôn nhân là cùng nhau góp một ước mơ. Cùng nhau gánh nỗi đau của
đời.
Cái
chua của chanh, cái ngọt của đường làm nên ly nước chanh chứ không riêng có
đường, không hẳn chỉ là chanh” (Nguyễn Tầm Thường, Nước mắt và hạnh phúc, tr
26).
Dẫu
thế nào chăng nữa, hạnh phúc gia đình chỉ có thể có được khi vợ chồng biết thương
yêu nhau vì tình yêu có thể hóa giải được tất cả những dị biệt.
Ca
dao Việt nam có câu :
Yêu nhau quả ấu cũng tròn
Ghét nhau quả
bồ hòn cũng méo.
Quả
ấu có nhiều trong các ao hồ ngoài Bắc. Quả ấu hình dạng tương tự cái đầu trâu
với cặp sừng cong cong nhọn, sần sùi xấu xí, chẳng có nét nào tròn trịa cả. Không thể nào thấy củ ấu dị dạng kia tròn
được. Ngược với toán học trăm phần trăm. Chỉ có tình yêu mới làm được phép lạ
ấy mà thôi.
Để
tạo lập được sự hòa hợp gia đình để đưa đến hạnh phúc, chúng ta hãy suy niệm
một đoạn của bức thư thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Côlôssê :
”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu
thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và
nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có
đdiều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng
vậy, anh em hãy tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng
bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 12-14).
Ngàn đời trước đến hôm nay
Một lòng chung thủy tới ngày…“đi xa”.
Từ mười sáu tới tuổi già
Vung trên nồi dưới tình ta trọn đời.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ
Kim phát
Đà lạt