VỊ
ĐẮNG TÌNH YÊU
+++
Chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa : “Một
hôm, Đức Giêsu nói với mấy người Pharisêu :”Lúc khởi đầu công trình tạo dựng,
Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha
mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là
một xương một thịt” (Mc 10,6-8).
Theo Thánh Kinh, đôi hôn phối đầu tiên
trong lịch sử loài người là hôn phối giữa chàng rể Adong và cô dâu Evà. Thiên Chúa đã tác hợp họ nên một. Họ yêu
thương nhau, kết hợp với nhau rồi sinh con cái.
Và sau này, con cái cũng theo gương cha mẹ mà cưới vợ gả chồng như chúng
ta thấy ngày nay.
Như vậy, hôn nhân không những là một
nhu cầu tự nhiên, một điều kiện để duy trì nòi giống mà còn là ý định của Thiên
Chúa. Do đó, chúng ta có thể nói rằng hôn nhân vừa là một hồng ân vừa là một ơn
gọi.
Những người sống ơn gọi trong bậc vợ
chồng phải thương yêu nhau tha thiết, hy sinh cho nhau như lời thánh Phaolô
khuyên nhủ tín hữu Êphêsô :”Người làm
chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh…
Mầu nhiệm này thật là cao cả, tôi muốn
nói về Đức Kitô và Hội thánh” (Ep 5,25.32).
I. BIẾT
YÊU LÀ ĐAU KHỔ, NHƯNG…
Tình yêu là nền tảng của hôn nhân, là
điều kiện thiết yếu không có không được vì như người ta ví von :“Hôn nhân không có tình yêu thì như một
ngày không có rạng đông” (Alphonse Karr).
Nhiều người cũng công nhận rằng :”Yêu
là đau khổ, nhưng không yêu thì chết” (H. Taine). Cũng có người khẳng định rằng :”Yêu, tức là đã ký kết với đau khổ” (M. De
Cohin)..
Khi nói đến tình yêu, người ta liên
tưởng ngay đến mặt trái của nó, đó là sự đau khổ. Dường như đau khổ là “người bạn đời” của tình yêu
vậy. Nhất là “người bạn đời” ấy lại hết mực sống chung thuỷ trong bất kỳ cuộc
hôn nhân nào trên trái đất này.
Đó là một “bi kịch” ngàn đời, nhưng đó
cũng là nét tự nhiên của tình yêu hôn nhân gia đình chúng ta. Một lý do rất đơn giản là như một danh nhân
đã nói :”Tình yêu chỉ sống được nhờ đau
khổ, sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần chết mòn”. Tình yêu sẽ chết trong một ảo tưởng trong
thiên đường tình yêu : người ta không còn phải hy sinh, phải đấu tranh, phải nỗ
lực, phải mất mát gì.
Hãy suy nghĩ về kinh nghiệm mà nhà văn
hào Montesquieu đã chia sẻ như sau :”Tình yêu là liều thuốc đắng, nhưng không
một ai có can đảm từ chối”.
Vẫn là liều thuốc đắng. Vẫn là đắng
cay, chua chát. Tình yêu như thế đó !
Điều quan trọng là không từ chối, và phải hiểu được nó như nó là… Ít ra, chúng
ta cũng có thể nhận ngay được thực tế này : “Yêu là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu).
II. VỊ ĐẮNG
TÌNH YÊU
Chúng ta có thể đặt ra một dấu hỏi :
Tình yêu đắng cay hay ngọt ngào ? Qua
kinh nghiệm thường ngày, chúng ta phải nói rằng : tình yêu vừa có hương vị đắng
cay lại cũng có hương vị ngọt ngào, bởi vì bất cứ việc gì trên đời cũng có mặt
trái của nó. Phải biết dung hoà cả hai
mặt thì mới sống được.
Theo như ông Trần Cao Khải nói thì khi bước vào “con đường tình yêu”, người
ta sẽ hiểu được tất cả sự thật huyền diệu của tình yêu.
Hương vị đầu tiên của nó là sự ngọt
ngào, dịu êm, bởi vì “Nếu cuộc đời là
bông hoa, thì tình yêu là mật hoa”
(Victor Hugo). Nó có khả năng “Biến những kẻ đang yêu thành thi sĩ” (Shakespeare). Nhưng yêu không mãi mãi là ngọt ngào và thi
vị. Cũng như cuộc sống con người, vừa là
cuộc đấu tranh vừa là niềm vui của gian khổ, mồ hôi và nước mắt.
Chúng ta phải nói lại một lần nữa :”Tình yêu là liều thuốc đắng, nhưng không ai
có can đảm từ chối” (Montesquieu).
Nói về tình yêu, người ta vẫn dùng
hình ảnh quen thuộc của một đoá hồng có gai. Không ai phủ nhận nhưng cái gai nhởn
nhơ trong một cành hồng. Nhưng hoa hồng vẫn đẹp, vẫn dễ thương, vẫn mãi mãi là
biểu tượng của tình yêu.
Khi yêu, người ta phải dũng cảm hưởng
nếm vị đắng cay và tiếp xúc với gai nhọn của tình yêu. Khi yêu, người ta phải
chấp nhận một qui luật. Đó là :”Tình yêu
chỉ sống được nhờ đau khổ, cứ sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần chết mòn”
(H. Taine).
Đau khổ là vẻ đẹp tự nhiên và hương vị
đặc thù của tình yêu. Lý do đơn giản là yêu không chỉ là tận hưởng mà còn là
cho đi, là ban phát, là mất mát… Chính đau khổ nuôi dưỡng và làm phát triển
tình yêu. Bởi vậy, “Yêu là hạnh phúc của
chính mình trong hạnh phúc của kẻ khác” (Leibnitz). Và nói theo nhà văn hào
Nga, ông Leon Tolstoi thì “Yêu sâu sắc – điều đó có nghĩa là quên bản
thân mình”.
III. TÌNH
LÀ DÂY THUNG
Khi nói về hôn nhân, có nhiều nhà tâm
lý chia hôn nhân thành ba thời kỳ : trước, liền sau và lâu sau khi kết hôn để nói về tình yêu vợ chồng, với những hình
ảnh ví von bay bướm nhưng rất thực tế.
- Với những người thích mầu sắc, thì
trước khi cưới là một màu hồng rực rỡ, liền sau khi cưới là một màu trắng nhàn
nhạt, còn lâu sau khi cưới là một màu xám ảm đạm.
- Với những người thích nghiên cứu về
thời tiết, thì trước khi cưới là những ngày mùa xuân nắng ấm, liền sau khi
cưới là những ngày hè thu oi bức, hay
mưa dông, còn lâu sau khi cưới là những ngày dài mùa đông lạnh giá.
- Với những người thích âm thanh,
trước khi cưới anh nói thì em nghe và em nói thì anh nghe, liền sau khi cưới,
anh nói thì anh nghe và em nói thì em nghe, còn lâu sau khi cưới, thì cả hai
cùng nói, nhưng hàng xóm phải nghe.
- Với những người có tinh thần ăn
uống, trước khi cưới thì nhìn nhau mà no, liền sau khi cưới thì nhìn nhau mà
ngáp, còn lâu sau khi cưới thì thỉnh
thoảng nồi niêu xoong chảo lại bay ra ngoài sân.
- Với những người vốn mang dòng máu ga
lăng, trước khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía nàng và chàng sẵn sàng chịu
ướt, liền sau khi cưới thì chếc dù nằm ở chính giữa và mỗi người chịu ướt một
nửa, còn lâu sau khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía chàng và nàng đành cam
chịu ướt.
Qua những câu ví von như vậy, chúng ta
thấy tình yêu giảm sút đi theo từng thời kỳ. Nhưng có phải tình yêu lúc nào
cũng giảm sút như thế chăng ? Và như vậy
chúng ta nghĩ thế nào về câu nói cường điệu của ông Chamfort :”Hôn nhân là mồ
chôn tình yêu” !
Thực ra, ông Chamfort chỉ có ý nói là
chúng ta phải đề phòng, đừng để cho tình yêu hôn nhân bị nhạt nhoà đi theo năm
tháng. Phải luôn đổi mới tình yêu để tình yêu được bền chặt qua qua thời gian,
nhất là qua những gian nan thử thách.
Truyện : Kết hôn là khổ lắm
Có lần đi thăm mục vụ các gia đình,
cha xứ được nghe một ông bố tâm sự :
- Đi
tu như các cha, các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con,
khổ lắm cha ơi !
Có lần gặp các bà mẹ, ngài hỏi các bà
mẹ nên khuyên nhủ các đôi tân hôn như thế nào. Một bà mẹ đã hung hăng phát biểu
:
-
Xin cha bảo chúng nó là đừng lấy nhau nữa. Khổ lắm ! Khổ lắm !
Dĩ nhiên lời phát biểu này có phần
thái quá, bởi vì cho đến ngày hôm nay bàn dân thiên hạ vẫn cứ lấy nhau rầm
rầm. Không lấy nhau thì làm sao nòi
giống con người tồn tại được. Tuy nhiên,
câu nói ấy cũng phảng phất một sự thật
nào đó.
Có lẽ cũng chính vì vậy mà cụ thi sĩ
Nguyễn Du, trong truyện “Đoạn trường tân thanh” đã phát biểu một câu xanh rờn :”Tu là cõi phúc, tình là dây oan”.
Trong văn học Việt nam thời trước, “Đoạn trường tân thanh” (truyện Kiều)
là một tuyệt tác phẩm, ai cũng đã đọc và được nhiều người nghiên cứu sâu sắc cả
về văn chương lẫn tư tưởng. Về phương diện văn chương thì tuyệt vời rồi, còn tư
tưởng thì có nhiều điều hay, nhất là những tâm sự mà ông gửi gắm trong đó.
Nhưng, ông Gã Siêu, một tay viết hài
hước có hạng không nhận câu nói của Nguyễn Du. Thay vì nói : “Tu là cõi phúc, tình
là dây oan” thì ông lại đổi thành :”Tu là cõi phúc, tình là dây thung”.
Câu nói có vẻ dí dỏm, mang tính cách
bông đùa cho vui, nhưng xét ra cũng thấy có đúng phần nào. Chúng ta thấy : đặc tính của dây thung là có
thể kéo dài và thu ngắn, có thể giãn ra và co vào. Chính đặc tính co giãn này
đã tạo nên những khổ đau và hạnh phúc cho cuộc sống gia đình và làm cho cuộc
sống ấy trở thành một bức hoạ có những khoảng đậm và những khoảng nhạt, một bản
nhạc có những nốt trầm và những nốt bổng.
Qua kinh nghiệm này, ông David Sarnoff đã nói một cách ví von
thơ mộng :”Trong hôn nhân, nụ cười và
nước mắt làm nên khúc nhạc cuộc đời”.
Nói đến đây tôi lại liên tưởng đến loài nhím. Thực vậy, nhím có nhiều
loại. Loại sống ở nhiệt đới xứ nóng. Loại sống ở hàn đới xứ lạnh. Nhưng dù loại nhím nào thì cũng có một bộ
lông thật cứng và thật nhọn, mà người xưa dùng làm tên bắn.
Ở xứ lạnh, mùa đông tuyết phủ, những
con nhím phải nằm gần sát nhau cho ấm. Tuy nhiên có cái phiền là khi nằm gần
sát nhau như vậy, thì bộ lông cứng và nhọn đó lại đâm vào nhau, làm cho nhau
đau đớn khó chịu. Vì vậy, chúng lại giăng ra xa.
Nhưng cũng chỉ được một lúc, vì lạnh
quá, chúng lại bò sát gần nhau. Dù đâm nhau, dù phải xa nhau, chúng vẫn cứ đến
cùng nhau. Càng xa nhau, chúng lại càng
tới gần sát nhau hơn, bởi vì chúng cần đến nhau.
Phải chăng đó cũng chính là câu chuyện
của những cặp vợ chồng đang sống trong bậc gia đình ?
IV. HÃY
SỐNG MÃI VỚI TÌNH YÊU
Tình yêu là người bạn đồng hành thân tình đưa ta đến cuộc hôn nhân bền vững, vì “Nếu tình yêu là hoa thì kết thành quả là hôn
nhân “(Molière), và :”Tình yêu chân
chính là tình yêu dẫn tới hôn nhân”(Engels).
Với tất cả mọi người, hôn nhân khởi
đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Đó
không phải là một cuộc chơi nhất thời,
mà là một đời sống có cam kết và được nuôi dưỡng lâu dài.
Trong hôn nhân, người ta hướng đến
nhau và cùng chia sẻ tình yêu và hạnh phúc cho nhau. Nét đặc thù nhất của tình yêu là sự dâng
hiến. Lãnh tụ Gandhi của Ấn Độ đã nói :”Tình yêu bao giờ cũng hiến tặng, không bao
giờ đòi đền đáp. Tình yêu luôn luôn giầy vò, khắc khoải nhưng không bao giờ
phản kháng và trả thù”.
Vậy, phải chăng yêu và hy sinh là một
? Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đã nói thế :”Yêu và hy sinh là một. Không hy sinh thì chưa gọi là yêu”.
Trong hôn nhân, sống là chết cho người
mình yêu như Chúa Giêsu đã nói :”Không có
tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”
(Ga 15,13). Yêu là hy sinh. Hy sinh
để chấp nhận sự khác biệt của nhau. Có muôn vàn những cái khác nhau giữa hai vợ
chồng.
Cái đẹp của sự hoà điệu không phải là đồng
điệu mà là kết hợp những tương khắc (variance) để tìm ra sự tương thích (compability) độc đáo nhất.
Quá trình “hội nhập” giữa hai cá thể khác biệt nhau sẽ giúp cho hôn nhân càng
ngày càng thắm thiết, sâu đậm hơn.
Triết gia hiện sinh người Pháp, ông J.P. Sartre, đã nói :”Người
ta thường nói đến mối tình đầu là mối tình đẹp nhất, nhưng chính mối tình
cuối mới thực sự là mối tình bất diệt”.
Bởi lý do đơn giản là mối tình về sau đã
được tôi luyện trong hy sinh gian khổ. Nó đã thực sự “chín” và “cứng cáp”.
Sau cùng, chúng ta phải nhận ra rằng
hôn nhân là một ân huệ của Thiên Chúa ban cho chúng ta và cũng là một ơn gọi
đối với chúng ta, nên người Kitô hữu trong đời sống vợ chồng sẽ phải trung tín
với nhau suốt đời theo lời dạy của Chúa Kitô :”Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly” (Mt 19,6).
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô
II trong tông huấn về những bổn phận của gia đình Kitô hữu đã viết :”Nhờ tính cách bí tích của hôn nhân, đôi
bạn được liên kết với nhau một cách chặt chẽ không thể tháo gỡ được. Khi người
này thuộc về người kia, họ thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Kitô với Hội
thánh Ngài, qua dấu chỉ bí tích” (Familiaris consortio, số 13).
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo
xứ Kim phát
Đà
lạt