Ơ
N G Ọ I (2)
__________________________________
Ơn
gọi hay định mệnh ?
I. ƠN GỌI CHO MỌI NGƯỜI.
Mỗi
người chúng ta được ơn Chúa mời gọi : được sinh ra làm người, được làm con Chúa
và Hội thánh, được hưởng sự sống đời đời.
1. Ơn gọi làm người : Khi dựng nên muôn loài muôn vật thì Thiên Chúa chỉ phán một lời làì
mọi sự đều hiện hữu, nhưng khi dựng nên con người Thiên Chúa còn suy tư xem sẽ
dựng nên con người như thế nào ; và kết cục Ngài đã quyết định dựng nên con
người giống hình ảnh Ngài. Ngài cũng
cho con người được quyền quản lý những gì Ngài đã tạo dựng.
2. Ơn
gọi làm con Chúa, con của Hội
thánh : Khi sinh ra, chúng ta mang tội nguyên tổ, không được quyền
làm con Chúa, nhưng Ngài đã xuống thế làm người chịu chết chuộc tội chúng ta và
qua bí tích rửa tội, chúng ta lại được chấp nhận làm con Chúa và con của Hội
thánh.
3. Ơn gọi được hưởng Nước Trời : Vì tội của nguyên tổ Adam và Evà, chúng ta đã
mất quyền được hưởng sự sống đời đời, nhưng Chúa Cha vì yêu thương loài người
đã sai Con Một của Ngài đến giải thoát con người khỏi quyền lực của tội lỗi và
ban cho con người được hưởng sự sống đời đời :”Thiên Chúa yêu thế gianđến nỗi
đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống
muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai on của Ngài đến thế gian không phải để lên án
thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
II. HÔN NHÂN LÀ ĐỊNH MỆNH ?
Rất
nhiều người coi việc kết hôn là do duyên phận hay duyên số. Hay nói cách khác
hôn nhân là do định mệnh nghĩa là việc cưới vợ gả chồng là do một lực lượng vô
hình đã xếp đặt và con người không thể cưỡng lại được.
Trách
duyên phận bẽ bàng, người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn gia
Thiều đã thốt lên những câu bi phẫn :
Tay Nguyệt Lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không,
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.
Thương
nàng, ta cũng giận Nguyệt Lão. Thế nhưng Nguyệt Lão là ai ?
Tự
điển Thanh Nghị giải thích : Nguyệt Lão là tên một vị tiên, chủ về hôn nhân.
Nguyệt
Lão được hình dung như một ông già quắc thước ngồi trên cung trăng định đoạt
chuyện nhân duyên của người trần thế.
Ông lấy một sợi tơ đỏ buộc chân một người nam và một người nữ với
nhau. Thế là nhất định họ sẽ phải thành
vợ chồng. Vì vậy, chuyện vợ chồng, theo quan niệm cũ, là do nơi sắp đặt của
Nguyệt Lão. Nguyệt Lão còn được gọi là
ông tơ (vì ông ta dùng tơ đỏ, tơ hồng).
Nhưng trong cách hiểu dân gian thì “lão” có thể là lão ông mà cũng có
thể là lão bà. Cho nên, người trần thế lại cũng tưởng tượng mà gán cho cõi tiên
những quan hệ trần tục như mình : đã có Ông Tơ thì thế tất phải có Bà Nguyệt !
Sự
thực Ông Tơ và Bà Nguyệt chỉ là hai tên gọi khác nhau của một vị tiên là Nguyệt
Lão mà thôi. Về sau, Ông Tơ Bà Nguyệt
được dùng với nghĩa rộng, chỉ chung
những người mối lái trong chuyện dựng vợ gả chồng. Và, dĩ nhiên, những ông mối
hay bà mối được gọi là ông Tơ bà Nguyệt này là người trần mắt thịt chứ không
phải là tiên.
(Hoàng văn Hành, Kể chuyện,
thành ngữ, tục ngữ, tr 385-386)
Truyện : nhân duyên của Vi Cố.
Đã
muộn mằm lắm mà Vi Cố chưa lấy vợ. Mãi đến một hôm, chàng quyết định gặp một cô
gái vừa được đưa mối. Dọc đường, chàng thấy một cụ già đeo cái túi bên người.
Hỏi ra mới biết cụ là người chuyên xe duyên cho các đôi vợ chồng. Cụ già phán
bảo chàng rằng : cái đám chàng đi đến chẳng nên duyên vợ chồng. Cái số của
chàng là phải lấy một cô bé lúc này mới lên ba thường đi theo mẹ bán rau ở
chợ, nhưng mãi đến năm nàng mười bảy
tuổi mới cưới xin được. Cái túi bên
người cụ đựng toàn những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân những người dù
ghét bỏ đến đâu, xa cách đến mấy cũng vẫn phải lấy nhau. Chỉ ấy đã buộc chân chàng với cô bé kia. vềà
nhà, chàng thuê một người đi giết cô bé, nhưng sự chẳng thành. Mười bốn năm
sau, chàng tập ấm và được quan trên tin cẩn gả con gái cho. Thành vợ thành chồng được mười năm, chàng
mới nhận ra vợ mình là cô bé mà chàng thuê người giết ở chợ để thách thức với
số phận. Sau bao biến đổi, từ một cô con gái của người bán rau, nàng trở thành
con nuôi của một viên quan trong triều. Kinh ngạc thay, vợ chồng không ai khác
mà chính là nàng ! Rõ là Vi Cố không
thoát được tiền định, không thoát được sự buộc chân của sợi chỉ hồng trong túi
cụ già hai mươi bốn năm về trước.
(Hoàng văn Hành, Kể chuyện, thành ngữ, tục ngữ, tr. 278)
III. HÔN NHÂN LÀ ƠN GỌI ?
Thiên
Chúa ban cho con người hai cái phẩm tính đặc biệt mà không loài vật nào có, đó
là lý trí và tự do. Con người có lý trí để suy xét công việc mình làm : tốt hay
xấu, làm hay không làm, làm cách này hay cách khác, con người có quyền tự do
quyết định. Chính vì có lý trí và tự do
nên con người phải có trách nhiệm về những việc mình làm.
1.
Vấn đề độc thân :
Kinh
thánh nói :”Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người
có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một
xương một thịt” (Mc 10, 6-8).
Chúa
đã dựng nên con người có nam có nữ thật, nhưng Ngài có đòi buộc họ phải kết hợp
với nhau không, hay Ngài để cho con người tự do, muốn kết hợp cũng được, mà
không kết hợp cũng được ? Theo cách
thông thường thì người nam và người nữ kết hợp với nhau thành vợ chồng, nhưng
Chúa không đòi buộc con người phải làm
như thế, vì Ngài cho biết : cũng có người không cưới vợ gả chồng vì một lý do
cao đẹp : vì Nước Trời. Đây, chúng ta
hãy nghe lời Chúa :”Qủa vậy, có những người là hoạn nhân vì từø lòng mẹ sinh ra
đã như thế ; có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn ; và có những
người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 12,12 ) .
Trong
thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô tông đồ cũng cho biết có bậc độc thân,
cũng có bậc gia đình, mỗi người phục vụ bằng những cách khác nhau :”Tôi muốn
anh chị em không phải bận tâm lo lắng gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo
việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng người. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và
người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác.
Còn người có chồng thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr
7, 32-34).
2. Vấn đề lập gia đình.
Như
trên đã nói, Thiên Chúa không buộc ai phải sống độc thân, cũng không phải lập
gia đình, ai muốn sống độc thân trong đời sống tu trì hoặc trong cuộc sống
ngoài đời cũng được. Mọi người phải có
quyền tự do trong việc lập gia đình : có lập gia đình hay không hoặc lập gia đình
với ai. Quyền tự do này được bất khả
xâm phạm. Mất quyền tự do thì hôn phối sẽ không thành sự.
Ngày
xưa, cha mẹ có quyền áp đặt con cái trong việc lập gia đình theo phương châm
:”cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Quan niệm ấy ngày nay đã lỗi thời rồ. Chính vì
có sự áp đặt như vậy cho nên có những cô dâu phải ngồi than thân trách phận :
Mẹ tôi tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo, tham tiền
Cảnh Hưng.
Tôi đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay
vào.
Bây giờ kẻ thấp người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho
vừa.
(ca dao)
Vì
có tự do trong hôn nhân nên một danh nhân mới khuyên một câu rất chí lý :
“Hãy mở mắt to trước khi cử hành hôn lễ,
và sau đó hãy nhắm mắt lại”.
(Thomas
Fuller)
3. Vấn đề nên thánh.
Mọi
Kitô hữu được kêu gọi nên thánh . Thánh có nghĩa là thuộc về Chúa. Mọi Kitô đã
thuộc về Chúa cho nên phải có nhiệm vụ nên thánh, không những trong đời sống tu
trì mà ngay cả trong đời sống hôn nhân. Dĩ nhiên, linh đạo nên thánh của người
lập gia đình phải khác với bậc tu trì.
Nói chung, người sống trong bậc gia đình hãy yêu thương nhau tha thiết
như tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh Người.
Tình yêu vợ chồng được đúc kết bằng hy sinh, phục vụ, dâng hiến, nhịn
nhục chịu đựng và trung thành suốt đời.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Tháng 2 / 2004