TÔI SẼ MỈM CƯỜI
***
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. : Mt 16,24-28.
Sau khi Đức Giêsu được các môn đệ
tuyên xưng rõ ràng Ngài là Đ61ng Thiên Sai :”Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa
hằngsống”(Mt 16,16). Thì Ngài tiết lộ cho các ông biết Ngài đang tiến về
Giêrusalem để chịu khổ nạn. Thánh Phêrô không thể nào chấp nhận được việc làm
của Ngài nên nên sau khi quở trách Phêrô vì đã cản ngăn Ngài đi theo con đường
thập giá, Đức Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn
làm môn đệ Ngài đều phải đi theo:”Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình và
vác thập giá mình mà theo”(Mt 16,24).
“Nếu ai muốn theo Thầy…”: Chúa không
ép ta theo Ngài, Chúa không buộc ta bỏ mình và vác thập gia. Ngài chỉ mời ta
thôi và cho ta tự do. Nếu ta muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu
không thì thôi.
Nhưng vì thương ta, nên Ngài cho biết
những sự lợi hại : “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất mạng
sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự
sống mình thì được ích gì”?
Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập
giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát
khỏi thập giá trong cuộc sống (…). Đau khổ không phải là một đầy đọa mà con
người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá,
mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước
gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hợp với Chúa mật thiết hơn
(Mỗi ngày một tin vui).
II. THẬP GIÁ TRONG CUỘC ĐỜI.
1. Ai cũng có thập giá.
Thập giá được hiểu là nhữngg đau khổ
mà con người phải gánh chịu trong đời sống hằng ngày. Ai mà không có đau khổ ?
Chỉ ai được hưởng hạnh phúc tuyệt đối rồi mới không còn đau khổ, mà hạnh phúc
tuyệt đối này chỉ có trên thiên đàng.
Trong kinh Lạy Nữ Vương, ta thấy có tư
tưởng coi thế gian là thung lũng nước mắt (vallum lacrimarum), là chốn khách
đầy. Đức Phật Thích Ca gọi đời là “bể khổ”. Thi sĩ Nguyễn gia Thiều diễn tả tư
tưởng ấy trong cái nhìn yếm thế về cuộc đời:
Trắng răng
đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh,
kinh, cụ làm nau mấy lần.
(Cung
oán)
Đức Giêsu cũng khuyên hãy chấp nhận
đau khổ, nhưng phải bình tĩnh đừng lo lắng quá, hãy tin tưởng vào Chúa quan
phòng bởi vi “Sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày đó”.
2. Chấp nhận hay từ chối.
Đứng trước thập giá của cuộc đời, mỗi
người có một thái độ : có người chấp nhận, có người từ chối. Người biết chấp
nhận thì nhìn đời với con mắt lạc quan, không coi đời là bể khổ mà chỉ coi đời
có những đau khổ cần phải vượt qua, đôi lúc coi đau khổ là cần thiết vì nó là
lò luyện đức luyện tài :
Nếu phải
đường đời bằng phảng cả,
Anh hùng
ào kiệt có hơn ai.
(Phan
bội Châu)
Hoặc :
Bốn mùa ví
những xuân đi cả,
Góc núi ai
hay sức lão tùng.
(Nguyễn công Trứ)
Còn những người không biết chấp nhận
mà phải chịu đựng một cách miễn cưỡng thì họ nhìn đời với cặp mắt bi quan, chỉ
biết than thân trách phận, chống trời chống người, . Họ không biết thoát ra hay
sống chung với đau khổ mà chỉ than van như những người hiện sinh vô thần : Tại
sao tôi sinh ra trong đau khổ, sống đau khổ rồi chết cũng đau khổ ? Không tìm
ra được câu giải đáp nên họ kết luận : Đời là phi lý.
3. Cách vác thập giá.
Có hai cách vác thập giá : một là tự
nguyện, hai là miễn cưỡng. Thái độ tự nguyện sẽ làm cho thập giá trở nên nhẹ
nhàng, còn thái độ miễn cưỡng thì làm cho thập giá càng nặng thêm, mặc dầu thập
giá đó đều bằng nhau.
Truyện : Hai cách vác thập giá.
Thầy Napoléon Almoint đã kể câu chuyện
vui sau đây :
Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với hai
trong số muôn vànmôn đệ của mình, và Ngài đưa họn đến một đầu đường, rồi trao
cho mỗi người một cây thập giá giống nhau và nói :
- Mỗi người các con hãy vác lấy thập
giá này đi đến cuối đường trước mặt, Thầy sẽ đợi các con ở đó.
Nói xong, Chúa biến đi. Hai đồ đệ bắt
đầu vác lấy thập giá mình.
Người thứ nhất vác lấy thập giá mình
cách nhẹ nhàng, chân rảo bước ngày càng nhanh, xem ra như không có vấn đề gì
cản trỏ hay gây phiền phức cho anh cả. Nội trong ngày, anh đã đến cuối đường và
gặp Chúa Giêsu đang chờ sẵn nơi đó.
Người thứ hai, mãi sang chiều ngày hôm
sau mới đi trọn con đường. Có vẻ anh rất mệt mỏi, không còn vác nổi mà chỉ còn
biết kéo lê cây thập giá. Thập giá của anh xem ra mỗi lúc một nặng thêm. Anh
gần như kiệt sức. Vừa gặp Chúa, anh phàn nàn ngay :
- Chúa đối xử bất công quá. Chúa cho
con cây thập giá rất nặng. Còn anh kia, Chúa cho cây thập giá nhẹ hơn, nên anh
đã đến trước con từ lâu rồi.
Gương mặt vui tươi của Chúa bỗng trở
nên nghiêm nghị. Chúa đáp :
- Này con, Ta không đối xử bất công
đâu. Hai cây thập giá giống nhau và nặng bằng nhau. Con đừng trách thập giá nào
nhẹ nó trở nên nặng là vì trong tâm hồn con. Ngay từ lúc đầu, trong suốt thời
gian đi trên quãng đường Ta chỉ, con luôn luôn than phiền, trách móc, thập giá
nặng, và càng than phiền, thì thập giá càng trở nên nặng nề. Người bạn đồng
hành với con đã đến trước vì lúc nào trong tâm hồn cũng tràn đầy yêu thương.
Thình yêu làm thập giá trở nên nhẹ nhàng (R. Veritsa, Aùnh sáng thế gian, tr
68-69).
III. NGHỆ THUẬT VÁC THẬP GIÁ.
1. Phải vui tươi lên.
Tôi phải vui cười, không phải vì”cuộc
đời chẳng qua là trò phường chèo, không co chi là nghiêm trang, đến nỗi người
hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi” (Nguyễn văn Vĩnh).
Cũng không phải là “cười, kẻo chết đến
mà chưa được cười”(La Bruỳere).
Tôi phải cười, vì đã có lời Chúa phán
với tôi : Hãy vui lên, hãy hát lên”(Mt 5,12).
Và lời thánh Phaolô :”Hãy vui lên, hãy
vui lên nữa”(Pl 4,4)
2. Tôi sẽ mỉm cười.
Một chị nữ tu nọ gặp nhiều thử thách,
nào là va chạm trong cuộc sống chung đụng với chị em, nào là khi công việc
không thành công liền bị phê bình chỉ trích thế này thế khác… Những thử thách
ấy lắm lúc làm chị nản lòng thối chí.
Nhưng sau những phút suy niệm Lời Chúa trước Chúa Giêsu Thánh Thể, chị đã quyết
tâm sống can đảm, chị làm việc vì Chúa, chị tìm kiếm thánh ý Chúa, không sợ dư
luận bàn tán vào ra. Chị chọn một câu châm ngôn rất đơn sơ:”Tôi sẽ mỉm cười”.
Sáng vùa thức dậy, chị nói ngay:”Hôm nay tôi sẽ mỉm cười”. Trước mọi hoàn cảnh
khó khăn, chị tự nhủ :”Tôi sẽ mỉm cười”. Từ đó công việc hóa ra nhẹ nhàng, mọi
người chung quanh chị cũng được thoải mái vui tươi. Người nữ tu mỉm cười đó,
chính là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, quan thầy các xứ truyền giáo.
3. Ảnh hưởng của nụ cười.
Có một thanh niên đang đi trên đường
phố, bỗng gặp thấy một thiếu nữ khá xinh đi ngược chiều. Không biết cô ấy đã
nghĩ điều gì vui trong lòng mà tự nhiên cô nở một nụ cười thật tươ, đúng vào
lúc chàng trai kia đi qua. Bốn mắt giao nhau. Chàng trai cảm thấy vui sướng vì
nghĩ rằng người đẹp chú ý đến mình. Lòng
chàng trai cảm thấy rộn ràng, sảng khoái. Chàng vừa bước đi vừa huýt sáo nho
nhỏ…Về đến nhà, anh nhìn thấy sách vở của mình nằm lộn xộn trên bàn, bút viết
mỗi nơi mỗi chiếc. Hai đứa em ngỗ nghịch đã phá phách lúc anh vắng nhà đấy mà !
Thường ngày thì nỗi đứa chắc đã nhận
được một, hai cái tát tai rồi, nhưng hôm nay, vì đang vui, nên anh biết tự chủ,
dằn được cơn nóng giận. Anh yên kặng xếp lại sách vở cho ngăn nắp.
Hai cậu em, thấy anh mình hôm nay tỏ
vẻ nhịn nhục, nên hối hận> Chiều đó, hai cậu tự động học bài, làm bài, không
chờ mẹ phải thúc giục như mọi ngày. Bà mẹ cũng ngạc nhiên khi thấy các con mình
hôm nay ngoan quá, nên muốn nấu mon canh sao cho thật ngon để chiêu đãi cả
nhà. Oâng bố mọi khi đi làm về thường
hay cằn nhằn, hoặc lớn tiếng về những chuyện không đâu, như để bù trừ những
nhọc nhằn vất vả phải gánh chịu suốt cả ngày. Nhưng hôm nay, khi bước vào nhà,
nghe tiếng con trẻ học bài, nhìn sang thấy vợ vừa nhặt rau vừa tủm tỉm cươi,
ông liền cảm thấy lòng thư thái, an vui. Buổi tối hôm ấy, mọi gnười đếu thấy
bầu khí gia đình ấm áp, hạnh phúc, nhưng không ai biết tại sao.
Sáng hôm sau, hai cậu bé đi học. Đến
lớp, thầy giáo hỏi câu nào hai cậu đều trả lời trôi chảy câu đó. Thầy giáo tỏ
vẻ hài lòng, và bỗng nhiên, bài giảng của thầy hôm ấy thật là sôi nổi, hào
hứng. Thỉnh thoảng, thầy còn thêm vào vài câu chuyện cụ thể làm ví dụ, nên cả
lớp đều chăm chú lắng nghe, không còn ai ngủ gà ngủ gật như trước nữa. Bọn trẻ
tự nhủ : thầy giáo dạy tận tâm như thế mà lâu nay chúng mình biếng nhác quá,
làm phiền lòng thầy. Thôi, yư nay, chúng mình phải chăm chỉ hơn mới được. Thế
là ngay chiều hôm ấy lại có thêm mấy chục gia đình cảm thấy bầu khí gia
đình bỗng trở nên vui tươi hạnh phúc và
rộn ràng vì tiếng trẻ học bài.
(Góp nhặt 4, tr
108).
Đọc xong câu chuyện này, chúng ta nhận
thấy hạnh phúc gia đình và xã hội có thể được bắt nguồn từ một cử chỉ rất đơn
sơ nhỏ bé như một nụ cười của một cô gái không quen bắt gặp trên đường phố. Một
nụ cười tự nhiên mà còn có ảnh hưởng sâu rộng khó lường như thế, thì một nụ
cười siêu nhiên sẽ có giá trị lớn biết bao ! Có lẽ chỉ kh nào vượt khỏi phạm
trù thời gian và không gian, chúng ta mới thấy được hết hậu quả của nụ cười
thấm nhuần tình thương Kitô giáo.
Người ta nói :”Một nụ cười bằng mười
thang thuốc bổ” thì biết rằng nụ cười đem đến cho người ta nhiều lợi ích như
thế nào cả về phương diện thể xác, cả về phương diện tâm linh. Nếu chúng ta nở
được một nụ cười trong lúc gặp đau khổ thì nụ cười ấy đáng giá biết bao trước
mặt Thiên Chúa “Đấng làm cho tuổi xuân ta được vui tươi”. Khi gặp đau khổ trong
gia đình, vợ chồng hãy cố nở một nụ cười như thánh nữ Têrêsa Hài đồng, thì chắc
chắn sự đau khổ ấy sẽ được giảm đi hoặc biến mất.
Lm Giuse Đinh lập
Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt