CÓ NẾP
CÓ TẺ
+++
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA
Chúng ta đọc : Ga
17,20-26
Trước khi từ giã các
Tông đồ để đi vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã trông thấy trước nguy cơ chia rẽ
trong Hội thánh nên Ngài đã tha thiết cầu xin cho họ biết bỏ đi mọi khác biệt,
mọi nguy cơ chia rẽ để cùng hiệp nhất xây dựng Hội thánh của Ngài.
Không
những Ngài chỉ cầu nguyện cho các Tông đồ, mà còn cho tất cả mọi người tin theo
Ngài được kết hợp với nhau trong Hội thánh như các chi thể kết hợp với nhau làm
nên một thân thể :”Lạy Cha, con không chỉ
cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho tất cả những ai nhờ họ mà tin vào Con để tất cả nên một” (Ga
17,20).
Trước
mắt Chúa Giêsu cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Hội thánh toàn cầu, Ngài cũng
còn cầu nguyện cách đặc biệt cho “Hội thánh tại gia”. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi gia đình
là “Hội thánh tại gia”, mà chúng ta cũng có thể gọi là “Hội thánh bỏ túi”. Hội
thánh này một phần nào cũng có những đặc tính giống như Hội thánh toàn cầu.
Trong
Hội thánh tại gia, tuy là một Hội thánh nhỏ bé nhưng nguy cơ chia rẽ lại rất
lớn , bởi vì ngày nay gia đình đang bị khủng hoảng, có nhiều gia đình bị tan
vỡ, kể cả gia đình Kitô giáo. Tình trạng ly dị ngày nay rất phổ biến, tạo thành
một nguy cơ cho sự bền vững của xã hội cũng như của Giáo hội.
Trong
Hội thánh tại gia, vai trò chủ chốt là người chồng và người vợ. Tuy hai người đã kết hợp với nhau thành một
xương một thịt (x.Mc 10,8), nhưng vẫn còn là hai nhân vị riêng biệt có những
đặc tính khác nhau, nên người ta mới nói :”Sống
mỗi người một nết, chết mỗi người một tật” (Tục ngữ).
Vì
có sự khác biết nhau như về tôn giáo, về giáo dục, về phong tục địa phương, về
tâm lý khác biệt giữa nam nữ… nên người ta dễ đi đến chỗ va chạm, xung khắc,
đến những bất hòa ngấm ngầm hay bùng nổ.
Công việc của vợ chồng là phải khắc phục những dị biệt, biết nhịn nhục
chịu đựng để từng bước đi đến chỗ hòa hợp, bởi vì không có gia đình nào mà được
hoàn toàn cả :
Thế gian được vợ mất chồng,
Có đâu mà
được cả ông lẫn bà.
Người
Việt nam chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này nên đã khuyên vợ chồng
hãy yêu thương nhau, tôn trọng nhau, bỏ đi mọi khác biệt, bổ túc cho nhau để
cùng tạo lập một gia đinh hạnh phúc.
Kinh nghiệm ấy đã được đúc kết trong một câu thành ngữ vắn gọn : “Có nếp có tẻ”.
II. THÀNH NGỮ “CÓ NẾP CÓ
TẺ”
1. Ý
nghĩa thành ngữ
Người
dân quê Việt nam hay dùng những hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống và đôi
khi rất tầm thường để nói lên cái gì xa xôi, trừu tượng, có khi rất thâm
thúy. Những kinh nghiệm và suy tư này đã
được đan dệt trong những câu ca dao tục ngữ, trong đó có câu “Có nếp có tẻ”.
Ý
nghĩa của thành ngữ này là trong nhà có cả con trai con gái thì mới tốt, mới
đầy đủ. Mặc dầu người ta có khuynh hướng “trọng nam khinh nữ”, thậm chí người
ta còn chủ trương “Nhất nam việt hữu, thập nữ viết vô”, nghĩa là trong chỉ một
con trai thôi cũng là có con, còn 10 đứa con gái cũng kể là không có con, bởi
vì người ta có quan niệm là :
Con gái là con người ta
Con dâu mới thực mẹ
cha mua về.
Tuy
thế, ngày nay trong gia đình ai cũng muốn “có nếp có tẻ” nghĩa là phải có con
trai con gái thì mới tốt, mới hài hòa.
2.
Giải thích câu thành ngữ
Ở
thành phố người ta ít để ý đến vấn đề “nếp hay tẻ”, nhưng ở thôn quê thì nếp và
tẻ có giá trị khác nhau, phải biết lựa chọn.
Trong
đời sống thực tế “nếp” được coi trọng hơn “tẻ”. Cơm tẻ là món ăn thường ngày,
còn nếp thì đôi khi, vào những dịp nào mới có. Về mặt giá trị, nếp quí hơn tẻ.
Đem so sánh nếp với tẻ thì chắc chắn có sự đánh giá trọng khinh, hơn kém.
Gạo
nếp thường để nấu xôi, làm các thứ bánh như bánh chưng, bánh tét, bánh rán,
bánh dầy, bánh trôi nước, bánh ít các loại. Gạo nếp cũng được dùng để nấu rượu
: rượu nếp mạnh và ngon hơn rượu tẻ, gía cả lúc này là 35.000 đồng/lít.
Còn
gạo tẻ thì dùng nấu cơm thường ngày, làm bánh như bánh bèo, bánh cuốn, bánh
giò, bánh đúc… Gạo tẻ cũng được dùng nấu rượu, kém rượu nếp nhưng ngon hơn rượu
bắp, giá mỗi lít là 18.000 đồng.
Tuy
có sự phân biệt về giá trị, nhưng trên quan điểm thực tiễn của nhân dân, sự
đánh giá lại không chỉ có một chiều đơn giản như vậy. Gạo tẻ là gạo ăn thường ngày, là nhu cầu
thường xuyên không thể thiếu. Gọi là tẻ đấy, là cái thường ngày đấy, nhưng ai
dám nghĩ là tầm thường, nhưng rất quan trọng . Người ta thường nói :
Cơm tẻ là mẹ ruột
Hay
:
No cơm tẻ vỏ vẻ mọi sự.
Cơm
tẻ bữa nào cũng ăn nhưng chưa ai chán, không biết chán; trong khi đó người ta
có thể chán ngấy đối với cơm nếp.
Cho
nên, dù cứ cho rằng trong thực tế nếp là hơn tẻ đi thì trong thành ngữ này điều
đó cũng không được nói tới. Ở đây chỉ nhấn mạnh đến sự cần thiết của cả hai,
không nên thiếu một bên nào.
Một căn cứ rất có ý
nghĩa để hiểu như vậy là trật tự của các yếu tố trong thành ngữ. Không ai nói “Có tẻ có nếp”, mà chỉ nói “Có
nếp có tẻ”. Trật tự đó rất tế nhị,
vì nó nói lên rằng : dù là có nếp rồi, nghĩa là có được thứ quý hơn rồi – so
với tẻ - thì chưa được coi là đủ, vẫn cần sự có mặt của tẻ nữa.
Ở
thành ngữ này, cái từ nếp, tẻ chỉ có tác dụng biểu thị quan hệ khác biệt và
cùng hiện diện, chứ không biểu thị quan hệ so sánh. Cũng tức là tuy có dùng nếp – tẻ thật đấy,
nhưng không phải để phân biệt đối xử “nhất bên trọng nhất bên khinh”. Muốn được như vậy, thành ngữ đã khéo sử dụng
một trật tự có dụng ý (Hoàng văn Hành, Kể chuyện, Thành ngữ, Tục ngữ, tr 159).
III. MỘT
VÀI SUY NGHĨ NẢY SINH
Bây
giờ gia đình nào cũng phổ biến có 2 con. Có gia đình chỉ độc nhất cô hay cậu, chỉ có tẻ
hay chỉ có nếp, mặc dù các bậc làm cha mẹ thường mong muốn “có tẻ có nếp”.
Theo
luân lý thông thường xưa nay, muốn thành lập một gia đình thì phải có một nam
một nữ, có nếp có tẻ. Nhưng oái oăm
thay, ngày nay, người ta lại thành lập gia đình chỉ có nam hay chỉ có nữ, chỉ
có nếp hay chỉ có tẻ. Nói khác đi, người ta chủ trương hôn nhân đồng tính luyến
ái, nghĩa là hai cô lấy nhau, hay hai cậu lấy nhau và đòi quyền lợi như hôn nhân thông thường theo
truyền thống.
Ngày
xưa ông bà cha mẹ chúng ta có bao giờ lại kết hôn theo kiểu ấy đâu ? Thật là
một quái thai ! Theo truyền thống xưa
nay, người chồng dứt khoát phải là đàn ông và người vợ dứt khoát phải là đàn bà. Tư tưởng ấy đã được mô tả trong câu ca dao
hài hước trong sự bói toán :
Số
cô không giầu thì nghèo
Ba mươi Tết có thịt
heo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha
cô đàn ông.
Số cô có
vợ có chồng
Sinh con đầu lòng
không gái thì trai.
1.
Trong xã hội ngày xưa
Ngày
xưa quan niệm về “nam nữ” cũng như “nếp tẻ” quá chênh lệch không những ở nông
thôn và ngay ở thành thị, người ta vẫn còn có tư tương “nam trọng nữ khinh”,
một sự kỳ thị giới tính đã có từ lâu trong xã hội nước ta cũng như bên Trung
quốc, Hàn quốc và Nhật bản.
Người
con gái không có giá trị gì ở trong nhà, chỉ có con trai thôi cho nên người ta
mới nói “Thập nữ viết vô” vì người con gái bị coi như là con của người ta khi
“Xuất giá tòng phu” : lấy chồng thì phải đi theo chồng, không còn “Tại gia tòng
phụ nữa”.
Theo
luân lý Khổng Mạnh ngày xưa thì người con gái phải có “Tứ đức, tam tòng”. Tứ đức
là công, dung, ngôn hạnh, và tam tòng là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử , nghĩa là ở nhà thì theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng,
chồng chết rồi thì theo con.
Theo
cách tổ chức trong gia đình ngày xưa, thì người chồng có quyền tuyệt đối trong
mọi công việc, người vợ được coi như người giúp việc, hoàn toàn phải làm theo ý
chồng. Tư tưởng ấy được thể hiện trong câu
tục ngữ :”Phu xướng phụ tùy” : nghĩa
là người phụ nữ phải luôn luôn phục tùng chồng, khi chồng ra lệnh , thì người vợ
phải làm theo, không có ý kiến.
Truyện : Quyền tuyệt đối của chồng
Đức
cha Grounard thuật lại rằng : sau khi
dựng được một túp lều tranh ở giữa một bộ lạc, ngài lên hiệu gọi người dân bản
xứ đến nghe giảng giáo lý. Thính giả phần đông là đàn bà. Nhìn chung quanh, vị
thừa sai rất ngạc nhiên khi thấy hầu hết các bà các cô đều mất sống mũi… Đến
sau nhờ có một người lai giải thích, ngài mới biết ở đó có thói quen khi có sự
bất bình trong gia đình, chồng thường hung lên, xẻo mũi, cắt môi vợ, để bà
không cãi tay đôi được nữa.
Lần
khác, đang khi giải thích giáo lý, vị thừa sai nghe tiếng la lối om sòm từ đàng
xa dội lại, rồi thấy một thiếu phụ chạy đến, sống mũi và môi còn đeo lủng lẳng
ở mặt, máu me lênh láng. Tất cả những người hiện diện tỏ thái độ bình thản
trước cảnh tượng thương tâm đó, vì họ đã quá quen với nghịch cảnh này.
2.
Trong xã hội ngày nay
Ngày
nay, những quan niệm lạc hậu ngày xưa về người phụ nữ đang bị đẩy lui. Không
còn cảnh “phu xướng phụ tùy” nữa mà vai trò người nữ phải được nâng lên cao
ngang với người nam, vợ chồng cùng hòa hợp với nhau để xây dựng một gia đình
hạnh phúc. Vì thế, người ta nói :
Đàn
ông dựng nhà
Đàn bà xây tổ ấm.
Theo
kinh nghiệm, xây dựng được một ngôi nhà là một chuyện dễ nhưng biến ngôi nhà
thành một mái ấm là một chuyện vô cùng khó khăn, cần phải kiên nhẫn và hy sinh
rất nhiều. Nếu thực sự đã xây dựng được một mái ấm thì làm sao người ta lại ly
dị nhiều như vậy ! Ai cũng thích ở trong
một ngôi nhà ấm cúng cả về tinh thần lẫn vật chất, chỉ khi nào ngôi nhà trở
thành một nghĩa địa hoang vắng thì người ta mới muốn rời bỏ nơi đó.
Vậy
nếu người ta nói :”Đàn bà xây tổ ấm” thì điều ấy chứng tỏ rằng vai trò người
đàn bà trong gia đình rất quan trọng. Người ta có thể nói không sai : hạnh phúc
trong gia đình nằm trong tay người đàn bà. Như vậy mới thấy vai trò người đàn
bà trong gia đình cần thiết và quan trọng như thế nào.
Nhưng
vai trò ấy rất khó, nó đòi hỏi người đàn bà phải rất tế nhị, sáng suốt, kiên
trì vượt mọi khó khăn, hy sinh không ngừng.
Chính
vì vậy vợ chồng nhà giáo Nguyễn viết Hùng (Đại học Văn Lang) có một ví von
:”Cuộc sống hôn nhân như con tầu đang đi ngược gió, rất dễ mắc cạn, nên phải
được trang bị tốt, có đủ phụ tùng máy móc để thay thế. Cái nồng cháy ban đầu
của tình yêu dù dữ dội đến đâu, cũng bão hòa sau một thời gian sống chung.
Ở
thời trăng mật, hai người dư sức xây nên một ngôi nhà tình yêu, nhưng rồi sau
đó, ngôi nhà sẽ trở nên lạnh lẽo, cũ kỹ, nếu không được xây thêm những tầng cao
về sự hòa hợp, cách cư xử… Để làm được
việc đó, tôi đã hòa trộn tình bạn vào tình vợ chồng thành “tri kỷ” của nhau.
“Hỗn hợp tình” đó là một liều thuốc chống lại sự tẻ nhạt, nhàm chán ( Nguyễn
viết Hùng, Kiến thức gia đình, số 105, tr 20).
Ngoài
ra, người vợ cũng cần hiểu tâm lý người chồng, làm cho chồng cảm thấy mình quan
trọng và đang hoàn chỉnh vai trò gánh vác gia đình, đó là biết lấy lòng đàn
ông.
Trong
tạp chí Elle, Jean Duché cống hiến
cho người đọc một lời xác nhận của đám mày râu dành cho chủ đề này như sau :
“Hãy
nói với một người đàn ông rằng anh ta là người thông minh, anh ta sẽ tin ngay
tức thì, bạn khỏi cần nghi ngờ về điểm đó. Hãy nói với anh ta rằng anh ta hết
sức tử tế tốt bụng, có thể thoạt đầu anh ta sẽ ngạc nhiên nhưng sau đó anh ta
sẽ tỏ ra thật sự tử tế và tốt bụng với
bạn. Hãy nhìn nhận là anh ta có tài làm vui lòng bạn và anh ta sẽ làm như vậy
thật.
Cái
mà phụ nữ còn khiến để làm đẹp lòng đàn ông (một nữ độc giả viết cho tôi như
vậy), đó là nhìn nhận những gì là quí giá mà đàn ông trao tặng cho mình. Chỉ
cần tỏ ra đôi chút THÁN PHỤC và BIẾT ƠN thường khi cũng đủ để khiến một người
đàn ông thay lòng đổi ý hoàn toàn” (Mai Lâm dịch trong báo Sélection).
Hạnh
phúc gia đình, tuy lệ thuộc vào người đàn bà rất nhiều, nhưng cũng cần có sự
phối hợp của hai vợ chồng. Sự hòa hợp vợ
chồng được ví như một ly nước chanh đường làm cho cuộc đời thêm tươi mát.
Vấn
đề được đặt ra là : Hạnh phúc hệ tại luôn
luôn được thỏa mãn hay là cố gắng làm thỏa mãn người ?
Cuộc
sống chỉ là tương đối. Tôi không thể làm người bạn đời trọn vẹn hạnh phúc. Người bạn đời cũng chẳng thể cho tôi mọi ước
mơ. Vì cả hai đều yếu đuối và mắc nhiều lỗi lầm, cả hai không là thiên thần mà
là người, nên tôi không thể làm thỏa mãn
người được. Không làm thỏa mãn người
được cũng có nghĩa là người cũng chẳng thể làm thỏa mãn được tôi.
Như
thế, hạnh phúc là cùng nhau lắng nghe
tiếng hót của chim họa mi. Cùng chịu gió
lạnh của mưa. Chịu khổ của bão. Hạnh
phúc trong hôn nhân là cùng nhau góp một ước mơ. Cùng nhau gánh nỗi đau của
đời.
Cái
chua của chanh, cái ngọt của đường làm nên ly nước mát chứ không riêng của
đường, không hẳn chỉ là chanh (Nguyễn Tầm Thường).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ
Kim phát
Đà lạt