RẮN GIÀ RẮN LỘT
-------
I. CHÚNG TA ĐỌC LỜI CHÚA.
Trích : Mt 11,25-3o.
2Cr 5,1.6-10.
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe làm cho
chúng ta tin tưởng, đầy phấn khởi và được yên ủi trước cái chết của người thân
yêu ra đi về đời sau.
Chúng ta biết rằng cuộc sống của con
người trên trần gian này rất vắn vỏi, nó như bông hoa sớm nở chiều tàn, như một
cơn gió thoảng qua, không có gì là vĩnh viễn. Chúng ta cũng có thể coi cuộc
sống ở trần gian này là một cuộc hành trình đi về quê trời. Không có cuộc hành
trình nào mà không phải vất vả, không có một lữ khách nào mà chỉ ngồi chơi xơi
nước bên vệ đường mà không nỗ lực phấn đấu để tới đích. Cuộc hành trình nào cũng có khởi đầu và kết
thúc. Chúng ta có thể ví cuộc đời chúng
ta như một cuộc hành trình có ba giai đoạn :
SINH ra là lên đường,
SỐNG là chiến đấu, khắc phục,
CHẾT là tới quê hương.
Hôm nay chúng ta được Chúa nói với
chúng ta một cách êm ái dịu dàng :”Hỡi
những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi
bổ dưỡng” (Mt 11,26).
Ngày kết
thúc cuộc hành trình ở trần gian này là
ngày chúng ta được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng sau bao nhiều vất vả khó nhọc
Thánh Phaolô, trong thư gửi cho tín
hữu Côrintô, cũng hé mở cho chúng ta biết : “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi,
thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng nên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên
trời, không do tay người thế làm ra”(2Cr 5,1) Chúng ta chỉ có thể
tới được ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời khi chúng ta kết thúc cuộc hành trình ở
dưới đất này. Ngày kết thúc cuộc hành trình chính là ngày chúng ta ra đi khỏi
thế gian này. Như vậy chết là một điều
kiện cần thiết để về quê trời, chết mang niềm hy vọng , yên ủi và phảng phất
một niềm phấn khởi.
II. MỌI NGƯỜI ĐỀU PHẢI CHẾT.
Cả hai ngành khoa học có từ lâu, liên
quan tới sự sống con người. Đó là y học và dược học. Cả hai đều nhận con rắn là biểu hiệu. Con rắn cuốn trên
chiếc gậy là biểu hiệu của ngành y, và con rắn cuốn trên chiếc ly có chân, đầu
hướng vào miệng ly, là biểu hiệu của ngành dược. Sở dĩ cả hai ngành quan trọng
này, nhận con rắn là biểu hiệu, vì người xưa, cả đông lẫn tây phương, đều coi
con rắn là tượng trưng cho sức mạnh. Người ta còn lầm tưởng con rắn là loài bất
tử, do hiện tượng lột xác của nó. Cả đông lẫn tây đều truyền nhau câu truyện cổ
tích, về sự bất tử của con rắn.
Truyện : rắn già rắn
lột.
Thuở trời đất vừa được dựng nên, Tạo
hoá muốn cho loài người đuợc bất tử, bằng cách lột xác, còn loài rắn thì tới
già phải chết. Tạo Hoá liền sai sứ giả là vị Thiên lôi xuống trần nói ý định đó
cho loài người : Tạo Hóa truyền Thiên lôi, khi gặp con người thì nói mệnh lệnh
này (Một mệnh lệnh có phép mầu) :
“Người già,người lột. Rắn già
chạy tuột vô săng”.
Thiên lôi xuống trần, vừa đi vừa lẩm nhẩm
mệnh lệnh của Trời, nhưng vì Thiên lôi lơ đãng, đọc đi đọc lại thế nào, mà khi
xuống trần vừa gặp con người thiên lôi lại đọc :”Rắn già rắn lột. Người già chạy tuột vô săng”.
Vì thế mà con rắn được lột xác, còn
con người sinh ra, lớn lên, già, chết, rồi phải đi vào săng, đem chôn.
(Đỗ đình Tiệm, Lương thực
hằng ngày, tr 722)
Khi còn nhỏ, nghe câu chuyện cổ tích
trên, chúng ta phàn nàn, nuối tiếc vì tính lơ đãng của ông Thiên lôi mà con rắn
đã dành được quyền lột xác, còn con người khi già phải chết, chứ không được lột
xác.
Nhưng tiếc thế nào thì tiếc, mỗi người
chúng ta đều phải chết, đây không phải là sự tình cờ hay ngẫu nhiên mà là một
án lệnh.
Mở sách Sáng thế ra, ta thấy ghi lại :
Sau khi Ađam Evà phạm tội ăn trái cấm, Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà. Đây
là án lệnh của Chúa phán với Adam :”Vì
ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà ta đã truyền cho ngươi rằng :”Ngươi đừng
ăn nó, nên đất đã bị nguyền rủa vì ngươi ; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày
trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn bởi đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai
góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài
đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất,
vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3,17-19). Trở về với bụi đất là chết chứ còn gì ?
Chúa Giêsu xuống thế làm người chuộc
tội cho loài người, Ngài đã xóa tội Ađam để đem chúng ta lại làm con Thiên
Chúa. Chúng ta sinh ra đều mang tội tổ
tông, nhưng nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tha tội đó và tội riêng của
mình. Tuy đã được tha tội tổ tông nhưng
hậu quả của tội vẫn còn và hậu quả sau cùng là phải chết (x. St 3,19).
Kinh thánh cũng làm chứng về điều này.
Chúng ta hãy đọc vài câu Thánh vịnh để xác tín về điều đó :
*
Tv 48,9-10 : Mạng sống người dù giá cao mấy nữa thì rồi ra cũng chấm dứt
đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số.
*
Tv 38,5-6 : Lạy Chúa, xin dạy cho con biết : đời sống con chung cuộc thế
nào, ngày tháng đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế.
*
Tv 38, 7a : Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc, kiếp sống này,
Chúa kể bằng không. Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng
trên đường tựa bóng câu.
Từ xưa đến nay có hàng tỉ tỉ người đã
sống trên mặt đất này mà nay còn ai đâu. Cả những bậc anh hùng cái thế, cả
những vĩ nhân lừng danh ngày nay cũng chẳng còn ai, nếu người ta có nhắc tới là
nhắc tới theo sử sách. Có những người
sống thọ đến mức nào nay cũng chẳng còn như ông Ađam sống tới 930 tuổi, ông Noe
sống 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi, ông Bành Tổ của Trung hoa sống 800
tuổi.
III. CHẾT RỒI SẼ RA SAO ?
Chết là một sự kiện, một biến cố quan
trọng của cuộc đời nhưng cái nhìn về sự chết thì khác nhau : có người cho rằng
chết là hết, có người cho r ằng chết mà
vẫn còn ; có người cho rằng chết là một thất bại, là đi vào ngõ cụt đâm ra bi
quan ; có người cho rằng chết là một khởi điểm mở ra một chân trời mới đầy lạc
quan.
1. Một số người vô tín.
Những người vô tín không tin có đời
sau, không có thiên đàng hoả ngục để thưởng phạt. Đối với những người này, chết
là hết, là tuyệt vọng.
Karl Marx, ông tổ thuyết Mác-xít vô
thần, trong một lá thư gửi cho người bạn của ông là Lassanler đã viết :
“Cái chết của đứa con trai tôi đã làm cho tôi đảo
điên. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như cái chết ấy mới xẩy ra ngày hôm qua thôi.
Còn vợ tôi thì hoàn toàn ngã gục vì biến cố này”.
Ai trong chúng ta cũng cảm thông được
nỗi đau đớn tột cùng này của ông tổ thuyết Mác-xít vô thần. Cái chết là một mất mát mà không gì có thể
lấp đầy được. Sự mất mát ấy lại càng khủng khiếp hơn khi con người không còn
một niềm hy vọng nào vào cuộc sống mai hậu. Chối bỏ sự sống mai hậu cũng có
nghĩa là tự đọa đầy mình vào một nỗi
tuyệt vọng khủng khiếp nhất.
(D. Wahrheit, Phép lạ trong
đời, tr 257)
2. Những người có đức tin.
Những ai có đức tin thì đều công nhận
rằng có đời sau, có thiên đàng hỏa ngục để thưởng phạt và linh hồn thì bất tử.
Do đó, chết không phải là mất, là hủy hoại mà là một sự chuyển đổi :”Sự sống thay
đổi chớ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian này bị hủy diệt tiêu tan
thì lại được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời” (Kinh Tiền tụng lễ An táng).
Ông Trang Tử, một nhà hiền triết Trung hoa, xuất hiện trước Chúa Giêsu,
cũng có một cái nhìn rất lạc quan về sự chết, khi ông nói :
“Người ta chết là trở về với Tạo Hóa, cũng như
người đi ra ngoài mà trở về nhà, thế mà ta còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc
thì chính ta chẳng hóa ra không biết mệnh trời à ? Cho nên ta không khóc lại
còn hát nữa”.
Hoài nam Tử cũng có một ý nghĩ như Trang Tử khi ông nói :”Sinh
ký tử qui” : sống là sống gửi sống nhờ, chết mới là về. Tư tưởng này giống như của thánh Phaolô tông
đồ khi viết thư gửi cho tín hữu Côrintô (x. 2Cr 5,1.6-10).
Ông Wolfany Goethe, một thi sĩ kiêm triết gia Đức , còn nói một cách ví von hơn nữa :”Con người chết là một vì sao lặn để mọc
huy hoàng hơn ở một bán cầu khác”.
Với con mắt đức tin, chúng ta thấy
chết không phải là đi vào hư vô, đi vào ngõ cụt, là tuyệt vọng, nhưng chết
chính là phương tiện để chúng ta được về kết hợp với Chúa trên quê trời,
như thánh Phaolô nói :”Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta
nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng
khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của
chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ
Kim phát
Đà lạt