QUÊ
HƯƠNG
+++
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.
Chúng ta đọc : Pl 3,20-21; 2Cr 5,1; 6,10.
Cổ nhân đã có kinh nghiệm về
cuộc đời khi đưa ra một khẳng định :”Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử” : người ta
xưa nay ai mà không chết ! Cái chết được coi như một công lệ mà không ai được
miễn trừ. Đây là một định luật phổ biến và khắt khe, xưa nay chưa ai có thể
thay đổi được bởi vì:”Ngươi là bụi tro và
sẽ trở về cùng tro bụi”(St 3,19).
Nhưng đứng trước cái chết, mỗi
người có một suy nghĩ và một thái độ riêng. Có người coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng, lại có người coi cái chết nặng như núi Thái sơn. Có người coi chết là một
sự chuyển đổi, từ đời này sang đời sau. Có người coi chết là đi vào ngõ cụt, đi
vào hư vô trống rỗng, cho nên họ cho rằng chết là vô nghĩa và ngay cả cuộc đời
cũng là phi lý.
Trước thắc mắc cuộc đời và sự
chết, thánh Phaolô đã nhắc cho tín hữu Philipphê tư tưởng này:”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta
nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta’(Pl 3,20). Trong bức thư khác gửi cho tín hữu Corintô,
thánh nhân cũng xác định là chúng ta có một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời :”Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà của chúng
ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do
Thiên Chúa dựng lên, không do tay người thế làm ra”(2Cr 5,1). Vì vậy, thánh
Phaolô xác tín rằng sống ở trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa và Ngài muốn nỗ
lực từ bỏ thân xác này để được ở bên Chúa. Trong khi chờ đợi ngày rời khỏi thân
xác này về với Chúa, chúng ta phải cố gắng làm đẹp lòng Chúa.
II. QUÊ HƯƠNG TRẦN THẾ.
Con người ai cũng có một nơi
sinh ra, một địa chỉ ở đời. Trên tờ khai sinh, tờ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân
dân, đều có ghi rõ những điều này. Mỗi người chúng ta đều có một quốc tịch, một
địa chỉ thường trú, còn tất cả các nơi khác chỉ là tạm trú.
Khi chúng ta đã nhận nơi nào
làm quê hương, chúng ta tự cảm thấy mình yêu mến nơi đó, tuy đấy còn là một quê
hương nghèo nàn hay chậm tiến. Những mầu sắc quê hương in đậm vào tâm trí con người, khiến mọi cảnh
vật tầm thường đều trở nên dễ thương mến như nhạc sĩ Phạm Duy ghi nhận :”Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn”;
hoặc như nhạc sĩ Giáp văn Thập nói lên nét đẹp thân thương trong bài ca Quê hương
như “Quê hương là chùm khế ngọt, là con đò
nhỏ”. Đặc biệt những người xa quê hương
càng nhớ về những nét đẹp trìu mến đó.
III. QUÊ HƯƠNG THIÊN QUỐC.
Thế nhưng, đối với Kitô hữu,
chúng ta khẳng định rằng quê hương trần thế này là nơi tạm trú, chúng ta còn có
quê hương thường trú vĩnh cửu :”Quê hương
chúng ta ở trên trời”.
Đức Giêsu cũng có một địa chỉ,
sau khi xuống trần gian này thi hành sứ mạng cứu chuộc, Ngài lại trở về địa chỉ
cũ. Trước giờ biệt ly, Đức Giêsu nói :”Thầy
từ Chúa Cha mà đến thế gian, Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha”(Ga
16,28). Và Ngài cũng muốn rằng khi trở về địa chỉ cũ, các môn đệ của Ngài cũng
được ở nơi đó, khi Ngài xin cùng Chúa Cha :”Lạy
Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con”(Ga 17,24).
Địa chỉ nguyên thủy của Kitô
hữu là ở trên trời, nơi thường trú vĩnh viễn. Vì thế, trong kinh Tiền tụng I lễ
An táng, Hội thánh cầu :”Lạy Chúa, đối với
các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chớ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần
gian này bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”.
Khi nói về cuộc sống dương
gian, chúng ta thấy người xưa gọi là “đời tạm này” và “chúng ta là thân lữ khác”.
Đời là một cuộc hành trình tiến về vĩnh củu.
Công đồng Vatican II đã nói
lên mối tương quan giữa cái hiện tại chóng qua và hạnh phúc mai sau vĩnh cửu :”Đời này và đời sau mật thiết liên đới
trong thân phận con người”(GS, số 76).
Và Công đồng còn dạy thêm :”Công đồng khuyến khích các tín hữu – công dân
của Nước Trời và của trần thế – phải đem hết tâm lực trung thành chu tòan nhiệm
vụ trần gian mình, theo tinh thần Tin mừng.
Phải kể là sai lầm, tất cả những ai cho rằng quê hương vĩnh cửu không phải
ở trần gian, họ đang đi về Nước Trời, nên họ dửng dưng trước những nhiệm vụ con
người. Những ai tưởng rằng xả thân vào các việc trần thế, không dính dáng gì với
đời sống tôn giáo… những người ấy lầm to” (GS, số 43).
IV. TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG.
Trở về với tư tưởng của bài
Thánh thư, chúng ta cần phải suy nghĩ về lối sống của chúng ta hiện nay : ta tự
hỏi mình sống như chỉ có ở đời này hay như người biết rằng có ngày mình sẽ được
về nơi vĩnh cửu.
Với thánh Phaolô, những người
sống “thù nghịch với thập giá”ù, lấy cái bụng làm Chúa, thì chỉ luôn nghĩ đến
những điều dưới đất, chạy theo danh vọng tiền tài, sắc dục, chè chén say sưa.
Nhưng cũng có người như thánh
Phaolô “coi mọi sự hết thảy là thua lỗ”, hoặc như sách Giảng viên : Phù vân nối
tiếp phù vân, chi chi chăng nữa cũng là phù vân. Coi mọi sự là phù vân, không có
nghĩa là “tránh xa mọi sự trần thế, tránh hết việc đời, mà chỉ vì so sánh “cái
lợi tuyệt đối là được biết Đức Kitô”, “được thuộc về Đức Kitô”, được đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô chết và phục sinh”, đồng dạng với thân xác vinh quang của Người
(Pl 3,7tt)… thì giá trị của các vàng bạc, châu báu, chức quyền thật là chẳng có
gì nặng ký.
Tuy thế, cũng có người quên
mất địa chỉ, họ không còn biết đi về đâu và họ thất vọng chán nản thốt lên : chết
là đi vào hư vô. Từ đó họ sống bất chấp như con thuyền không lái, như chiếc xe
tuột dốc, họ thả mình cho mọi tình tư dục, muốn đẩy mình đi đến đâu thì đến vì
biết rằng một mai mình sẽ chết và chết là một thất bại, là đi vào ngõ cụt. Vì vậy
cứ việc hưởng thụ đi như người dân quê thường nói một cách nôm na :
Sống trên đời ăn miếng dồi chó,
Chết
xuống âm phủ biết có hay không.
Có ngừoi đã chán chường cuộc
đời vì đã qua một kiếp đi hoang. Họ muốn kết thúc cuộc đời đã chín mùi sầu khổ,
nhưng họ cũng chưa tìm lại được địa chỉ của họ. Họ còn hoang mang trước cuộc ra
đ của họ :
Hỡi Thượng Đế, tôi cúi đầu trả lại
Linh
hồn tôi đã một kiếp đi hoang.
Sầu
đã chín, xin Ngài hãy hái
Nhận
tôi đi, dầu địa ngục thiên đàng.
( Huy Cận)
Chắc chắn mọi người chúng ta
còn nhớ được địa chỉ của mình, lòng vẫn còn hướng về đó và mong ước một ngày
kia được trở về đó, nhưng chúng ta chỉ có thể về quê hương vĩnh cửu qua việc hòan
tất những nhiệm vụ hằng ngày nơi trần thế, đặc biệt là sống “mến Chúa hết lòng,
hết sức, hết trí khôn” và “yêu tha nhân như chính mình”, sống bác ái với người
nghèo khó, liên đới với đồng bào xây dựng đất nước, xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Hãy sắm cho mình một hành
trang đầy đủ trong cuộc hành trình về quê trời. Ngòai việc làm trọn nhiệm vụ của
một Kitô hữu, hãy tập sống siêu thóat với của cải vật chất, tốt nhất là sống bác
ái, làm việc từ thiện vì những cái cho đi thì không bao giờ mất, nó vẫn
còn lại với mình,
còn những cái giữ bo bo cho mình thì ngày kia sẽ mất hết.
Truyện : Thạch Sùng tiếc của.
Thạch Sùng, người nhà Tấn, là
một tay tỷ phú chỉ biết sống xa hoa. Không may bị Tôn Tú vu oan và bị lên án trảm
quyết.
Trước khi mất đầu, Thạch Sùng
than van nuối tiếc :
- Tôi chết rồi, tài sản của tôi sẽ về tay ai ?
Quan Giám sát trả lời :
- Người nhiều của thì dễ mang họa. Sao anh không
nghĩ đến chân lý ấy mà phân tán của cải trước đi, trong các cuộc từ thiện ?
Đưa tiễn một người thân vào
thế giới vĩnh cửu, với cái nhìn đức tin,
chúng ta cảm tạ Chúa đã giúp người thân của chúng ta vượt qua khó khăn ở đời, để
rồi hôm nay “vào chốn nghỉ ngơi”.
Nhưng chúng ta cũng thêm phấn khởi, bởi lẽ, người thân của chúng ta hôm nay
bỏ “chốn khách đầy” để vào an nghỉ với Chúa, là Đấng người quá cố tin tưởng gắn
bó. Chúng ta cũng có ngày được như vậy.
Hôm nay người quá cố thân yêu
của chúng ta đã được mắt thấy tai nghe, đã
được chiêm ngắm Chúa trên thiên đàng, cũng muốn nhắc nhở chúng ta tư tưởng này
:
Thế gian không phải ø quê nhà,
Thiên
đàng rực rỡ mới là quê hương.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo
xứ Kim phát
Đà lạt