XÉT XỬ
KHOAN DUNG
+++
I. MỌI NGƯỜI ĐỀU PHẢI
CHẾT
Người đời quan niệm rằng cuộc đời con
người thường phải đi qua bốn giai đoạn là sinh,
lão, bệnh, tử. Có sinh thì có diệt,
không có cái gì vĩnh viễn trên đời này. Chính vì vậy, người xưa đã đặt một dấu hỏi :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” : người ta xưa
nay ai mà không chết. Biết bao đế quốc hùng mạnh, biết bao vĩ nhân lừng danh,
biết bao anh hùng cái thế đã qua đi, có chăng chỉ còn trong sử sách.
Người ta đã nhọc công đi tìm những phương
pháp để làm cho cuộc sống trở thành trường sinh bất tử, nhưng mọi nỗ lực tìm kiếm
đã thất bại, con người đành phải bó tay trước cái định mệnh nghiệt ngã này. Người
ta chỉ còn giương đôi mắt nhìn sự sống qua đi trong tiếc nuối :
Thời
gian rót từng giọt buồn tê tái,
Sự sống đi như hương bỏ hoa chiều.
Con người bồi hồi xao xuyến :
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho
mầu đừng nhạt mất.
Tôi
muốn buộc gió lại
Cho
hương đừng bay đi.
(Xuân
Diệu)
Trong ngày thứ Tư lễ Tro, chúng ta đã
từng hát :”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi
tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”. Con người được dựng nên từ tro bụi thì cũng sẽ phải trở về cùng tro bụi, điều đó không
ai có thể thay đổi được, nhưng chỉ có một điều được an ủi là thân xác chúng ta
tuy là tro bụi nhưng là tro bụi tuyệt vời, vì một ngày kia sẽ được cùng hồn sống
lại để được hưởng vinh quang đời đời.
Tuy nhiên, con người không phải chỉ có
thân xác mà còn cả linh hồn nữa. Hồn xác hợp lại với nhau để làm nên một con người
toàn vẹn. Số phận thân xác của con người là vậy, còn linh hồn thì sao ? Đối với
một Kitô hữu thì linh hồn mới là quan trọng.
Khi học về tứ chung, chúng ta được biết
có bốn điều phải quan tâm ví nó có liên quan đến số phận của mỗi người, đó là sự chết, phán xét, thiên đàng và hỏa ngục.
Số phận sau cùng của chúng ta là thiên đàng hay hỏa ngục, tùy theo cuộc sống của
mỗi người ở trần gian này. Muốn cho số phận sau cùng ấy được tốt đẹp, hằng ngày
chúng ta hãy suy nghĩ đến sự chết và phán xét. Chính những suy nghĩ này sẽ chuẩn
bị cho giờ chết của chúng ta.
Truyện : Một cuộc thách đố.
Vị Linh mục ngồi tòa giải tội ngạc nhiên
khi nghe những lời này :”Thưa cha, con không muốn xưng tội. Con vào đây vì có
người đánh đố, họ sẽ phải trả cho con 500.000 đồng, nếu con dám vào tòa giải tội.
Cha giải tội ngạc nhiên :
- Con không biết phép giải tội là một bí tích à ?
- Con biết chứ, nhưng con chẳng thắc mắc về điều này.
Vị Linh mục cảnh cáo :
- Chúa sẽ phạt con về sự diễu
cợt đó.
Anh thanh niên cười :
- Con cũng chẳng quan tâm.
Sau một chút suy nghĩ, vị Linh mục ôn tồn :
- Thôi được, con đã chấp nhận cuộc thách đố, vậy con phải hoàn tất để
thắng cuộc. Đây là việc đền tội của con : Hai tuần liền, mỗi tối con phải tự nói
với mình câu này :”Một ngày nào đó tôi sẽ
chết, nhưng tôi bất chấp. Một ngày nào đó tôi sẽ bị phán xét, nhưng tôi bất chấp”.
Cậu ta tìm cách thoái thác, nhưng vị
Linh mục khéo léo buộc cậu phải làm…
Khi trở về với đám bạn, cậu ta nói về
việc đền tội mà vị Linh mục kia dạy phải làm, thì lũ bạn đều nhất trí là : bắt
cậu ta phải làm y như thế, thì mới được coi là thắng cuộc.
Nhưng, mỗi đêm, cậu thấy càng lúc càng
khó đọc những câu này.
Chưa hết hai tuần, cậu đã trở lại tòa
giải tội.
Lần này không phải để giải quyết cuộc
thách đốù, mà để giải quyết phần linh hồn của cậu : Cậu đã xưng tội rất thành
khẩn (Theo GM Arthur Tonne).
II. MỌI NGƯỜI PHẢI BỊ
PHÁN XÉT.
1. Quan niệm chung của mọi người.
Mọi người đều quan niệm rằng :”Thiện
ác đáo đầu chung hữu báo” : việc lành việc dữ đều có quả báo, nghĩa là làm
lành thì được thưởng, còn làm dữ thì phải phạt, theo đúng nguyên tắc “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”. Đây là một quan niệm rất phổ biến, không cần phải
họ là những người có tôn giáo. Ngay từ xưa,
người ta đã áp dụng nguyên tắc này cho những kẻ chết, đặc biệt cho các vị vua
chúa của nước cổ Ai cập.
Truyện : Xử tội các vị vua.
Người Ai cập cổ thời có một tục rất hay, khả dĩ nhắc cho các vị vua
chúa biết rằng họ có nhiệm vụ, có bổn phận, họ không thể hành động theo sở
thích hay lòng ham muốn riêng của mình; nhưng phải tự coi mình như là những người
bảo vệ công lý và mưu cầu hạnh phúc cho thần dân.
Mỗi khi có một vị vua băng hà, người
ta đem bầy xác vị vua đó trên bờ một cái hồ ở nơi ranh giới của cõi sống và cõi
chết. Tại đó, một tòa án được thiết lập và gồm có 43 viên thẩm phán.
Một phát ngôn viên tiến ra và kêu lên trước
xác chết :
-
Xin ông cho chúng tôi
biết lúc sống ông đã làm những việc gì ?
Một ông bộ trưởng của vị vua quá cố, đứng lên thân oan cho nhà vua
và kể lại những công trạng của nhà vua lúc sinh thời, những lệ luật đã ban hành,
những ích lợi đã đem lại cho dân.
Đoạn, một người dân có thể đứng ra kết tội nhà vua và tự do kể lể
trước mặt 43 vị thẩm phán những điều mình oan ức muốn phàn nàn.
Tòa cân nhắc công và tội của nhà vua. Nếu xét ra tội nhiều hơn công, tòa kết án nhà vua. Người ta đem bôi
lọ tên tuổi của vị vua đó đi, ghi vào trong sử sách, còn xác nhà vua thì, trước
kia được kính trọng như một vị thần minh, bây giờ không được chôn cất, sẽ đem vứt
ra bờ bãi để cho diều tha, quạ mổ (Vũ Bằng,
Đông Tây cổ học tinh hoa, 1969,
tr 18).
2. Theo quan niệm thông thường.
Theo quan niệm thông thường của người
Kitô hữu, khi linh hồn lìa khỏi xác thì phải đến trình diện Chúa Giêsu. Ngài sẽ phán xét về mọi công việc của người ấy
từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, không có một việc nào bị bỏ sót. Chúa sẽ cân nhắc tội phúc và quyết định số phận
của người ấy : hoặc là vào thiên đàng, hoặc là vào hỏa ngục hay lửa luyện ngục.
Như vậy, mọi người coi việc xét xử này như hình thức một tòa án.
3. Theo quan niệm Đức Hồng y Billot.
Theo chủ trương của Đức Hồng y Billot
thì “ngay khi linh hồn lìa khỏi xác,
trong phút chốc thì cuốn sách lương tâm liền mở ra, làm cho ta nhận thức ngay một
trật về toàn bộ các việc ta đã làm khi còn sống”.
Chính ta sẽ phán xét ta, bởi tình trạng quá hiển nhiên công khai không
thể chối cãi được. Công trạng và lỗi lầm sẽ xuất hiện trước mắt ta trong ánh sáng
chói lọi, đồng thời cũng cho thấy những phần thưởng và hình phạt tương xứng với
ta. Như thế, chính ta sẽ tuyên án cho ta và quan tòa khoan dung hay khắc nghiệt
không có gì ảnh hưởng đến bản án đó, thiên thần và quỉ dữ có trổ tài hùng biện
cũng không thể thay đổi bản án đó (Parvillez, Niềm vui trước sự chết, tr 57).
4. Nhưng Thiên Chúa yêu thương và khoan dung
Trong thánh lễ an táng, chúng ta hát thánh vịnh đáp ca :
Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu,
Ngài
đại lượng và chan chứa tình thương,
Ngài
không xử với ta như ta đáng tội
Và
không trả cho ta theo lỗi của ta.
(Tv 102,8-10)
Tư tưởng của bài Thánh vịnh này làm cho chúng ta được tràn đầy an ủi
vì Chúa luôn thương yêu ta, tuy ta có lỗi thật
nhiều nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ, Ngài không xử với ta như ta đáng
tội. Tuy ta tự lên án cho mình, nhưng Chúa
cũng giúp chúng ta bớt khắt khe với mình để tự giảm án cho ta.
III. CHUẨN BỊ CHO GIỜ
PHÁN XÉT.
1. Phải lo cho tương lai.
Những người khôn ngoan phải luôn biết
lo xa. Chẳng những phải lo cho cuộc sống của mình trong hiện tại mà còn phải lo
cho cả tương lai, nghĩa là phải sống làm sao để khi đã chết rồi mà vẫn còn danh
thơm tiếng tốt như người ta nói :
Người đời hữu tử hữu sinh,
Sống
lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
(Ca
dao)
Hoặc:
Hổ
tử lưu bì :
Cọp chết để da, người
ta chết để tiếng.
Cổ nhân cũng đã khuyên bảo mọi người
phải biết lo xa để tránh những hậu quả xấu có thể xẩy ra. Chữõ “lo xa” đây cũng có nghĩa là phải để lại
danh thơm tiếng tốt :
Nhân vô viễn lự, tắc hữu cận ưu.
Người không biết lo xa, ắt phải buồn gần.
(Luận
ngữ)
2. Gieo giống nào gặt giống ấy.
Sự sống và tình yêu vĩnh cửu của con
người chỉ có thể có nếu chúng đã được gieo trong tại thế này, và sự gieo trồng ấy
dĩ nhiên phải qua giai đoạn quyết liệt là hạt giống cần phải thối rữa, cần phải chết đi, nghĩa là phải “hết hiện hữu là hạt
giống”. Nhưng công việc trồng cấy đó cần đến yếu tố thời gian :
Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc
Thập
niên chi kế mạc như thụ mộc
Bách
niên chi kế mạc như thụ nhân.
Người ta chỉ có gặt khi có gieo, và ai
gieo giống nào thì gặt giống đó : gieo giống tốt thì gặt lúa tốt, gieo giống xấu
thì gặt lúa xấu. Kẻ chỉ say sưa cuộc đời và tình yêu tại thế sẽ chẳng gặt được
sự sống và tình yêu trong Nước Chúa, bởi lẽ họ đã không gieo. Chỉ có những ai biết
sống, biết yêu trong đời này, nhưng vẫn khao khát sự sống và tình yêu đời đời,
chỉ những người đó mới thấy viên mãn của sự sống và tình yêu Thiên Chúa.
(Thiện Cẩm, báo Nhà
Chúa, số 8, 4/1968, tr 21)
3. Phải xét mình hằng ngày.
Muốn chuẩn bị cho ngày ra đi vĩnh viễn,
ta phải xét mình hằng ngày để biết mình đang sống như thế nào. Phải biết mình
thì mới điều chỉnh con người của mình được.
Chúng ta phải bắt chước ông Trình
Tử mà nói :”Nhất nhật tam tỉnh ngô thân”
: mỗi ngày ta phải xét mình ta ba lần.
Trên những tầu buôn qua Đại tây dương,
người ta có thói quen bắt một thủy thủ lên chòi canh, nhìn tứ phía, lúc mặt trời
sắp lặn, trước khi hành khách vào khoang ngủ. Sau khi quan sát chung quanh kỹ lưỡng,
người thủy thủ đó hô ta :”Bình yên cả – Các ngài yên trí đi ngủ”.
(Tihamer Toth, Chí
khí người thanh niên, tr 170)
Cần phải xét mình để nhắc nhở cho mình
sống tốt để khỏi bị phàn nàn. Một vị nhà Nho kể lại : thời xưa, có câu :”Tức
vị tri quan” : nghĩa là khi một nhà vua lên ngôi, thì trước tiên phải làm một
quan tài và đặt kế cạnh phòng vua ngủ, mục đích là để vua luôn luôn nghĩ đến sự
chết, và nhận thức rằng danh vọng một ngày kia sẽ qua đi.
Trong tinh thần phải xét mình để biết
sống tốt, tôi xin giới thiệu một cuốn sách cổ đã đưa ra những phương thế để giúp
chúng ta dọn mình chết lành và được hạnh phúc đời đời :
- Muốn có hạnh phúc trong một ngày ? Hãy
mua một chiếc áo mới.
- Muốn có hạnh phúc trong một tuần ? Hãy giết một con heo.
- Muốn có hạnh phúc trong một tháng ?
Hãy được một vụ kiện.
- Muốn có hạnh phúc trong một năm ? Hãy
cưới vợ lấy chồng.
- Muốn có hạnh phúc cả đời ? Hãy sống
làm người tử tế .
- Muốn có hạnh phúc đời đời ? Hãy làm
người có đạo tốt.
(T. Toth – Phêrô Thông, Tôn giáo với
thanh niên, 1949, tr 268)
Muốn có một giờ chết tốt lành, muốn có
một lương tâm bình tĩnh để ra trước tòa Chúa phán xét, ta hãy nghĩ về sự chết.
Nghĩ về sự chết không làm cho chúng ta bi quan nhưng là làm cho chúng ta tin chắc
rằng mình đang đi đúng hướng, mình đang đi đến phần rỗi, như thế nghĩ tới sự chết
càng làm cho chúng ta vững tâm để sống.
Truyện : Nhạc sĩ Mozart và sự chết.
Mozart, một nhạc sĩ danh tiếng Âu châu,
từ trần vào năm 35 tuổi, đã viết :
“Suy nghĩ cho kỹ thì sự chết
là cùng đích của cuộc sống. Từ nhiều năm tôi đã quen thân với cái chết, người bạn
của tôi, đến nỗi hình bóng sự chết không còn là một điều làm tôi sợ hãi, mà trái
lại không có gì êm dịu và an ủi hơn.
“Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi nhận
biết sự chết như chìa khóa mở hạnh phúc đích
thực. Không khi nào tôi đặt mình xuống giường mà lại không nghĩ là ngày mai tôi
sẽ chẳng dậy được nữa. Tuy nhiên không ai trong số những người quen biết tôi có
thể nói được rằng ý nghĩ về cái chết đã làm cho tôi lo buồn. Tôi cảm ơn Chúa mỗi
ngày vì đã ban cho tôi hạnh phúc đó và tôi
thành thực cầu chúc mọi người anh em tôi được như vậy”.
Ước gì chúng ta có một tinh thần vui tươi
như Tú
Mỡ. Ông là một thi sĩ trào phúng luôn có tinh thần lạc quan, biết đem niềm
vui đến cho đời. Ông tự hào về cuộc sống trong tuổi già của ông vì ông đã được
mãn nguyện. Chớ gì chúng ta cũng có một đời sống tươi đẹp trước mặt Chúa, không
có điều gì phải phiền trách và chỉ mong chờ được về bên Chúa để được lĩnh phần
thưởng đời đời trên thiên quốc.
Rồi vùn vụt đến ngày tuổi tác,
Đến khi ta tóc bạc da mồi.
Vuốt
râu ôn lại sự đời,
Đời
ta đầy đủ, thảnh thơi tự hào.
(Tú
Mỡ, Giòng nước ngược)
Hy vọng rằng chúng ta sẽ kết
thúc cuộc đời không phải với những chiến công hiển hách, với những công trình vĩ đại, với tiếng tăm lừng
lẫy, nhưng chỉ với những công việc tầm thường nhưng được làm với một lòng mến lớn
lao như thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã làm theo nguyên tắc “Communia, non communiter”
: làm việc tầm thường với một cung cách khác thường: “Thiên
Chúa không tìm những huy chương hay bằng cấp chúng ta đạt được, nhưng Ngài đếm
những vết sẹo trong cuộc đời của chúng ta”(Elbert Hubbard).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt